You are on page 1of 6

Hệ sinh thái rừng ngập mặn

10-07-2007

ThienNhien.Net - Rừng ngập mặn là một hệ sinh thái


độc đáo nhưng những nghiên cứu về chúng còn rất ít.
Trong khi đó một phần lớn diện tích bờ biển nhiệt đới
và cận nhiệt đới tại Châu Phi rừng ngập mặn chiếm ưu
thế vượt trội. Theo con số ước tính có khoảng 16 triệu
ha rừng ngập mặn trên toàn cầu, đây là một nguồn tài
Rừng ngập mặn - một nguồn tài nguyên có nhiều giá trị (Ảnh: www.dolphins.org.za)
nguyên có nhiều giá trị.

Sự phân phối các rừng ngập mặn đa phần tương ứng với rừng mưa nhiệt đới, tuy nhiên một
phần nào đó mở rộng đến phía bắc và phía nam xích đạo, thỉnh thoảng vượt ngoài vùng nhiệt
đới. Trong vài thập niên trước, những vùng có rừng ngập mặn che phủ đã sụt giảm mạnh do
những hành vi của con người, như thu hoạch quá mức, phân dòng nước ngọt cũng như nhiều
hành động khác.

Theo địa lý sinh học có hai khu vực trồng rừng ngập mặn riêng biệt trên thế giới: Tại Tây Phi,
Vùng biển Caribee và Châu Mỹ; thứ hai là bờ biển Châu Phi, Madagascar và khu vực Ấn Độ Thái
Bình Dương. Trái ngược với địa điểm đầu tiên - vùng Atlantic - chỉ chứa mười loài cây, Ấn Độ
Thái Bình Dương số lượng các loài cây trong rừng phong phú hơn nhiều (hơn 40 loài cây).

Các khu rừng ngập mặn được coi là lá phổi không thể thiếu đảm bảo cho hệ sinh thái ven biển
phát triển lành mạnh. Các cánh rừng này chứa đựng chủ yếu là lá rơi và cành cây cung cấp dinh
dưỡng cho môi trường biển, và hỗ trợ các loài thủy sinh lượng thực phẩm phong phú thông qua
các mảnh vụn hoặc gián tiếp thông qua các sinh vật phù du và dây chuyền cung cấp thức ăn
bằng tảo.

Một nhân tố cơ bản của môi trường tự nhiên ảnh hưởng đến rừng ngập mặn trong thời gian dài
chính là mực nước biển và sự biến động trong các đại dương. Những nhân tố khác có sự tác
động ngắn hơn là nhiệt độ không khí, độ mặn của nước biển, dòng chảy đại dương, bão tố, độ
dốc bờ biển và nền đất. Phần lớn rừng ngập mặn phát triển trên nền đất ẩm ướt, bùn lầy nhưng
chúng cũng phát triển được trên cát, than bùn và đá san hô.

Nếu thuỷ triều thuận lợi, rừng ngập mặn có thể phát triển mạnh mẽ sâu trong đất liền, phía trên
những cửa sông ven bờ biển. Đặc biệt tại vùng Tây Phi, chúng thậm chí có thể phát triển rất sâu
phía trong nội địa. Sông Gambia, hệ thống sông Sine - Saloum ở Senegal, sông Casamance,
những nhánh sông của Ghinê - Bissau, sông Niger và các sông Camơrun phần lớn trên bờ được
che phủ bằng rừng đước, có nơi kéo dài hơn 100 km từ bờ biển phía ngoài.

Trong một số trường hợp khác - khi một số lượng lớn nước ngọt đều đổ vào đại dương, toàn bộ
các đảo cách bờ hàng chục km không trông thấy gì ngoài rừng ngập mặn, tương tự như phần
lớn các quần đảo tại Guinea-Bissau. Một số bán đáo bên ngoài Bijagos, như Ilha de Orango -
cách bờ biển khoảng 100 km là nguồn cung cấp nước ngọt. Nhưng trong vùng nước nông ngoài
Guinea-Bissau, độ mặn đủ thấp cho các cây trong hệ thống rừng ngập mặn lọc muối khỏi nước
biển để pha trộn với nước ngọt và nước sông.

Những sự điều chỉnh mang tính cách mạng nhằm biến đổi môi trường bờ biển đã tạo ra những
đặc trưng sinh học nổi bật trong cộng đồng rừng ngập mặn. Một số loài cây nhất định loại trừ
muối ra khỏi hệ sinh thái của mình, một số lại thải muối được tiếp nhận thông qua lá, rễ hoặc
nhánh cây. Hệ thống rễ cây rừng ngập mặn có khả năng loại bỏ muối hiệu quả đến mức có thể
lọc muối ra khỏi nước ngọt dành cho người du hành đang khát, ngay cả khi bản thân chúng đang
phát triển trong vùng đất đầy muối.

Rừng ngập mặn là một tài nguyên

Hầu như người ta đều cho rằng rừng ngập mặn như một “bãi lầy độc hại” chứa đầy những dịch
bệnh, và thường bị loại bỏ trong chương trình bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Nhưng giờ khi chúng
ta đã hiểu về chúng rõ hơn, thì rừng ngập mặn chính là nguồn tài nguyên ven biển thật sự quý
giá và hữu ích.

Các loại cây trong hệ thống rừng ngập mặn có thể lớn nhanh trong những điều kiện đặc biệt - mà
không một loài cây nào khác có thể phát triển được - và giống như trong rừng nhiệt đới, chúng
cho rất nhiều lá và chất hữu cơ. Thay vì ngấm vào đất, lá cây rụng xuống nước, mục nát thối rữa
trở thành thức ăn cho các vi trùng và sinh vật phù du. Đây là một nguồn thức ăn rất hiệu quả cho
cá những khu vực gần rừng đước, là một nguồn lợi quan trọng cho ngư trường.

Rừng ngập mặn đã được chứng minh sẽ là một nguồn thực phẩm và nguyên liệu quan trọng cho
người dân sống ven biển. Cua, con trai, con hàu cá và nguồn thức ăn thường xuyên được tuyển
chọn tại đây. Thậm chí quả của một số loại cây trong hệ thống rừng này đôi khi cũng trở thành
một món ăn hấp dẫn.

Thêm vào đó ngay bản thân cây cũng có ích, gỗ các loại cây trong rừng thường xuyên đuợc
dùng làm củi đun và sử dụng trong xây dựng. Vỏ cây có chứa chất Tanin, được sử dụng trong
thủ công và trong dược phẩm. Nếu được bảo vệ và quản lý thích hợp, hệ sinh thái rừng ngập
mặn có thể cung cấp sản phẩm gỗ trong công trình xây dựng, than đá trong sản xuất năng
lượng, thực phẩm chăn nuôi, thực phẩm được tiêu thụ tại địa phương..... Thực ra, liên quan đến
nguồn tài nguyên tự nhiên giàu có này, một nhà phân tích lợi ích người Fiji phân tích sự chuyển
đổi những khu rừng ngập mặn thành vùng đất nông nghiệp đã kết luận rằng kế hoạch này sẽ
không làm tăng lợi nhuận thu được từ rừng theo từng quý. Phần lớn những sự chuyển đổi này
sẽ làm giảm đi thu nhập từ chúng một cách đáng kể.

Một lợi ích vì môi trường rất quan trọng có được từ rừng ngập mặn là chúng mở rộng diện tích
đất và giữ đất không bị cuốn đi. Bùn và trầm tích đều bị cuốn trôi ra sông. Khi có một đầm lầy các
loại cây trong hệ sinh thái rừng ngập mặn tại cửa sông, nước tràn qua rừng và những trầm tích
"định cư" phía dưới cây sẽ được rễ cây giữ lại. Khi nước cạn đi, các loại cây trong hệ sinh thái
rừng ngập mặn vẫn có thể phát triển mạnh mẽ.

Theo cách này, rừng ngập mặn phát triển chậm ra ngoài, rời khỏi đất liền cằn cối. Ngay cả
những nơi không chứa đựng đủ trầm tích từ các con sông để tạo thêm diện tích đất, rừng bảo vệ
dải đất ven bờ khỏi bị cuốn trôi trong các đợt bão. Rễ và thân cây chặn sức mạnh của nước, lá
và nhánh cây làm giảm đi những ảnh hưởng của gió và mưa. Có nhiều ví dụ minh họa tại các
hòn đảo do rừng ngập mặn tạo nên nhưng chúng nhanh chóng biến mất khi rừng không còn
nữa.

Ngay cả trong đô thị, rừng ngập mặn có thể chiếm vai trò quan trọng khi chất thải thành phố làm
ô nhiễm vùng nước ven biển. Khi dòng nước này chảy vào đầm lầy chứa cây rừng ngập mặn,
thông thường chúng sẽ được các loài thực vật và động vật trong đầm lầy hấp thụ và sử dụng.
Đầm lầy sẽ lọc nước, tận dụng các chất bổ và hấp thụ các chất độc, tạo ra làn nước trong xanh
và lành mạnh. Chừng nào các đô thị không “đẻ” ra quá nhiều chất thải cho rừng, và chất thải
không chứa quá nhiều chất độc từ ngành công nghiệp, thì rừng ngập mặn chính là một hệ thống
xử lý chất thải hiệu quả, rẻ tiền hơn nhiều so với bất cứ nhà máy xử lý chất thải nào. Tuy nhiên
rừng ngập mặn lại rất nhạy cảm đối với sự ô nhiễm, đặc biệt là ô nhiễm dầu. Ô nhiễm dầu quá
mức sẽ giết chết rừng.

Hơn nữa, rừng ngập mặn còn có giá trị rất lớn trong du lịch. Senegal đặc biệt đánh giá rất cao tài
nguyên này. Hai công viên quốc gia quan trọng dựa trên loại tài nguyên này - Điển hình như
Công viên Quốc gia Du Delta Du Saloum và Công viên Quốc gia De la Basse Casamance. Công
viên Casamance nằm tại trung tâm du lịch Cap Skirring có trên 200 loài chim biển, một nơi nghỉ
dưỡng tuyệt vời để chụp ảnh và những cuộc du ngoạn chiêm ngưỡng bầy chim biển

Tại các quốc gia Tây Phi nơi rất sư tử và voi, thì rừng ngập mặn thực sự là một nguồn tài nguyên
quan trọng đảm bảo thành công trong ngành du lịch sinh thái. Ngay cả tại các quốc gia mang
nặng tính "truyền thống" như Kenya và Tanzania, ngành công nghiệp du lịch ven biển chiếm vai
trò quan trọng rất lớn, các công viên quốc gia ven bờ biển phát triển du lịch dựa trên tài nguyên
rừng ngập mặn hoặc tài nguyên rặng san hô.

Một vài quốc gia Châu Phi khác đang bắt đầu khai thác ngành du lịch trong các cánh rừng ngập
mặn như Guinea-Bissau - quốc gia có vị trí địa lý phần lớn do rừng ngập mặn thống trị - hy vọng
bờ biển tuyệt đẹp của mình sẽ được bổ sung vào danh sách Di sản Thế giới của UNESCO, và có
cơ hội tiếp thị mình như một địa điểm du lịch hấp dẫn. Sierra Leone và Liberia cũng hy vọng làm
hồi sinh ngành công nghiệp du lịch, chủ yếu tập trung vào vẻ đẹp của những bờ biển và những
khu rừng ngập mặn. Gabon năm ngoái đã bảo vệ được đáng kể diện tích rừng ngập mặn độc
đáo và xúc tiến dự án trở thành một quốc gia có nền công nghiệp du lịch sinh thái chủ yếu tại
Châu Phi

Rừng ngập mặn mất dần


16:10' 2/10/2009

Cả nước hiện chỉ còn


khoảng trên 155.290 ha rừng
ngập mặn, giảm 100.000 ha
so với trước năm 1990 và
vẫn tiếp tục giảm nhanh,
PGS-TS. Nguyễn Chu Hồi,
Phó tổng cục trưởng Tổng
cục Biển và Hải đảo Việt
Nam, cho biết.

Việc phá rừng ngập mặn làm


đìa tôm trước mắt có thể
đem lại lợi nhuận hàng trăm

(Nguồn ảnh: VFEJ)


tỉ đồng mỗi năm, nhưng hậu
quả thì khôn lường. Mất rừng ngập mặn sẽ đẩy mạnh sự xâm nhập nước mặn vào đất liền, thúc
đẩy quá trình xói lở, gây ô nhiễm đất và nguồn nước. Một thực tế là ở những nơi rừng ngập mặn
bị tàn phá, lượng mưa giảm rõ rệt, không khí nóng bức hơn, bầu không khí bị ô nhiễm do lượng
khí CO2 tăng.

Lá phổi xanh giúp giảm năng lượng của sóng thần


Theo PGS-TS Nguyễn Hữu Đại, Trưởng phòng Thực vật Biển thuộc Viện Hải dương học Nha
Trang, rừng ngập mặn (RNM) là hệ sinh thái đa dạng, có vai trò rất quan trọng, được ví như lá
chắn xanh bảo vệ vùng cửa sông, cửa biển để chống xói lở, hạn chế tác hại của gió bão, mở
rộng đất liền.

RNM còn được ví như một nhà máy lọc sinh học khổng lồ, nó không chỉ hấp thụ khí CO2 do hoạt
động công nghiệp và sinh hoạt thải ra, mà còn sinh ra một lượng ô-xy rất lớn, làm cho bầu không
khí trong lành. Về kinh tế, tài nguyên RNM rất đa dạng, như: Gỗ, than, ta-nin, chim, thú và nhiều
loài hải sản có giá trị xuất khẩu...

Thế nhưng, hơn 60 năm qua, RNM nước ta bị tàn phá rất nhiều do chiến tranh, khai thác gỗ,
chất đốt; Phá rừng ngập mặn để làm hồ nuôi tôm, cua, cá; Làm đất nông nghiệp, đường sá, nhà
cửa... Thậm chí có địa phương RNM đã “cơ bản bị xóa sổ”.

RNM bị tàn phá đã làm suy giảm nghiêm trọng nguồn tài nguyên sinh học, nguồn lợi thủy hải sản
bị suy kiệt. Một nhà khoa học hải dương tính toán, ở nước ta, nếu xây hệ thống đê thay cho RNM
bảo vệ bờ biển phải tốn kém khoảng 10 tỉ USD, mà chưa chắc đã hiệu quả.

PGS-TS. Nguyễn Chu Hồi, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, cho biết, cả
nước hiện chỉ còn khoảng trên 155.290 ha RNM, giảm 100.000 ha so với trước năm 1990 và vẫn
tiếp tục giảm nhanh. Tốc độ mất RNM do các hoạt động sản xuất trong giai đoạn 1985 - 2000
ước khoảng 15.000 ha/năm.

Ai cũng biết vai trò của RNM trong việc bảo vệ môi trường, là “lá phổi xanh” rất quan trọng đối
với các thành phố, nhưng vai trò của RNM còn nhiều hơn, nó còn như những “bức tường xanh”
có tác dụng phòng hộ trước gió và sóng biển.

Nhiều cơn bão lớn đổ bộ vào nước ta những năm qua, nơi nào RNM được trồng và bảo vệ tốt thì
các đê biển vùng đó vẫn vững vàng trước sóng to gió lớn, dù là đê biển được đắp từ đất nện,
trong khi những tuyến đê biển được xây dựng kiên cố bằng bê tông hoặc kè đá nhưng RNM bị
chặt phá để chuyển sang nuôi tôm như Cát Hải (Hải Phòng), Hậu Lộc (Thanh Hóa) thì bị tan vỡ.

Theo nhóm khảo sát của GS-TSKH Phan Nguyên Hồng (Trung tâm Nghiên cứu Sinh thái Rừng
Ngập mặn, Đại học Sư phạm Hà Nội), độ cao sóng biển giảm mạnh khi đi qua dải RNM, với mức
biến đổi từ 75% đến 85%, từ 1,3m xuống 0,2m - 0,3m.

Tương tự, đợt sóng thần khủng khiếp ngày 26/12/2004, hơn 2 triệu người ở 13 quốc gia châu Á
và châu Phi bị thiệt mạng, môi trường bị tàn phá nặng nề nhưng kết quả khảo sát của IUCN
(Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới) và UNEP (Chương trình Môi trường Liên Hợp quốc)
cùng các nhà khoa học cho thấy, những làng xóm ở phía sau “bức tường xanh” RNM với băng
rừng rộng gần như còn nguyên vẹn vì năng lượng sóng đã được giảm từ 50% đến 90%, nên
thiệt hại về người rất thấp hoặc không bị tổn thất…

RNM ở Ấn Độ, khoảng từ làng xóm ra bờ biển 1 km, so với nơi không có rừng thiệt hại giảm 50%
- 80%. Ở Phuket (Thái Lan) cũng vậy.
Toàn cầu ấm lên có thể phá hủy hơn 1/2 số rừng ngập mặn tại một số đảo của
Thái Bình Dương, xóa sổ hoặc làm giảm môi trường sinh sản của nhiều sinh vật biển vốn
đem lại nhiều triệu USD cho nghề cá, một báo cáo của Liên hiệp quốc cho biết.

Đảo Tuvalu là một trong những đảo đang bị ảnh hưởng nặng nhất về rừng ngập mặn có
nguy cơ bị biến mất (Ảnh: tuvalu)
Báo cáo của Chương trình môi trường Liên hiệp quốc (UNEP) về tác động của mực nước
biển tăng tại nhiều khu rừng ngập mặn ở 16 quốc gia Thái Bình Dương đã phát hiện hiện
tượng nước biển dâng cao do sự thay đổi khí hậu đang đe dọa nhấn chìm các khu rừng
ngập mặn ở khu vực Thái Bình Dương.

Báo cáo của Liên hiệp quốc cảnh báo trung bình 13% rừng ngập mặn ở Thái Bình Dương
sẽ bị phá hủy do nước biển dâng cao. Các đảo bị ảnh hưởng nặng nhất trên thế giới là
Samoa, Fiji, Tuvalu và các đảo của Micronesia. Báo cáo cho biết các đảo quốc này có thể
mất hơn 1/2 rừng ngập mặn vào cuối thế kỷ này.

Khoảng một nửa diện tích rừng ngập mặn trên thế giới đã bị phá hủy kể từ năm 1900 đến
nay, chủ yếu do quá trình phát triển của các trại tôm và ô nhiễm môi trường. Chỉ tính
riêng trong hai thập kỷ vừa qua đã có 35% diện tích rừng bị mất.

Theo Liên hiệp quốc, rừng ngập mặn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ đất, là môi
trường sinh sản của cá và các loài sinh vật biển. Nó cũng rất quan trọng đối với sự phát
triển của hệ sinh thái biển như san hô và thực vật dưới đáy biển. Ngoài ra đây còn là
nguồn thực phẩm, cung cấp nguyên liệu dệt may và sản xuất lưới đánh cá, nguyên liệu gỗ
và xây dựng cho cư dân đảo ở Thái Bình Dương.

Cũng theo báo cáo của UNEP, rừng ngập mặn còn giúp bảo vệ các đảo khỏi bị lũ vào
mùa bão, giảm được 75% sức gió tấn công các đảo. Nó đã hạn chế mức độ phá hủy của
trận sóng thần Ấn Độ Dương năm 2004 tại một số khu vực.

Báo cáo kêu gọi giảm ô nhiễm từ các cơ sở ở đất liền để rừng ngập mặn có thể phục hồi
dưới tác động của mực nước biển tăng do toàn cầu ấm lên

Việc khai hoang nuôi tôm mỗi năm cướp đi hàng nghìn ha rừng ngập mặn ở Cà
Mau, nơi từng được mệnh danh là Amazon thứ hai của thế giới. Tôm sống được vài
vụ thì cả một vùng sinh thái bị tàn phá. Người ta đã làm ngơ lời cảnh báo của các
nhà khoa học 25 năm trước đây, và nay phải đón nhận hậu quả.

Vùng rừng ngập mặn Cà Mau trước giải phóng có diện tích hơn nửa triệu ha và là rừng ngập mặn
cửa sông lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau vùng rừng ngập mặn cửa sông Amazon (Nam Mỹ). Như
một cái bể lớn, rừng chứa nước ngọt vào mùa mưa và đến mùa khô khi nước sông xuống thấp thì
nước ngọt ở trong rừng chảy ra ngăn không cho nước mặn từ biển vào quá sâu trong đất liền, giữ cho ngọt
hóa cả một vùng đồng bằng ở bán đảo Cà Mau. Khuyến cáo của các nhà khoa học lúc đó là phải giữ cho
được và tái sinh vùng rừng ngập mặn quý giá này cho đất nước.

Nhưng tiếc thay, rừng càng ngày càng bị thu hẹp lại, đặc biệt khi có phong trào phá rừng nuôi tôm. Thêm
vào đó là những vụ cháy lớn do không được phòng hộ, kết quả đến nay rừng tràm ở bán đảo Cà Mau chỉ
còn khoảng hơn 250.000 ha, đã mất gần nửa diện tích trước đây. Có năm, mặn đã thâm nhập vào sâu trong
đất liền đến 50 km.

Không thể phủ nhận nuôi tôm mang lại nguồn lợi lớn, nhưng cơ cấu con tôm với lúa, với rừng không phải
bạ đâu cũng làm, và ở đâu cũng có hiệu quả lớn (cả về kinh tế lẫn sinh thái). Đôi khi được về kinh tế trước
mắt nhưng lại hỏng về sinh thái lâu dài

Từ một khu rừng nghèo kiệt, hoang tàn do chiến tranh để lại, sau 25 năm phục
hồi (từ 1978 – 2003), hệ sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ đã trở thành “lá phổi
xanh” của TP.HCM và cả khu vực phía Nam.

Trước đây, Cần Giờ có diện tích rừng ngập mặn rất lớn, đa dạng về
thực vật, động vật. Trong những năm chiến tranh từ 1945 – 1975, rừng
cây đã bị bom đạn tàn phá vì đây là căn cứ địa kháng chiến. Cùng với
nạn phá rừng bừa bãi nên các cánh rừng ngập mặn Cần Giờ gần như
bị hủy diệt hoàn toàn, nhiều vùng thành các bãi hoang, trảng trống.
Các loài động, thực vật cũng dần dần ít đi. Hệ sinh thái rừng ngập mặn
Cần Giờ trước năm 1978 gần như không còn nữa.

Từ năm 1978 – 2003, rừng ngập mặn Cần Giờ đã được trồng lại với gần 37.000ha đước, bạch
đàn, dà, dừa lá, tra, gõ biển, đưng, ha mắm… Về động thực vật hiện nay gồm có: 145 loài chim,
120 loài cá, 100 loài động vật đáy không xương sống, 157 loài thực vật, 193 loài phiêu sinh thực
vật, tảo

You might also like