Professional Documents
Culture Documents
Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu hướng tới
của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Từ khi
giành được độc lập năm 1975 và đặc biệt là từ sau năm 1986,sau
khi kết thúc thời kì dài bao cấp,Việt Nam đã thực hiện chính sách
đổi mới .Đảng và Nhà nước ta luôn đặt mục tiêu phát triển kinh tế
lên hàng đầu với định hướng đến năm 2020 Việt Nam sẽ cơ bản trở
thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu trên thì đầu tư
là một yếu tố cực kỳ quan trọng vì đầu tư, nói rõ hơn là đầu tư phát
triển, không những làm gia tăng tài sản của cá nhân nhà đầu tư, mà
còn trực tiếp làm gia tăng tài sản vật chất cho nền kinh tế, có tác
động rất mạnh mẽ đến phát triển kinh tế. Đã có nhiều lý thuyết về
đầu tư được nêu ra nhằm phân tích tác động của đầu tư đến tăng
trưởng và phát triển dưới nhiều khía cạnh khác nhau như lý thuyết
số nhân đầu tư, lý thuyết gia tốc đầu tư, mô hình Harrod – Domar...
Chính phủ Việt Nam với vai trò của mình đã luôn nỗ lực tạo
điều kiện tốt nhất cho mục tiêu phát triển kinh tế bền vững và kết
quả là Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức
kinh tế thế giới WTO từ ngày 11/01/2007. Đây vừa là cơ hội vừa là
thách thức lớn đặt ra đối với Việt Nam khi nền kinh tế còn non trẻ,
khả năng kiểm soát các luồng vốn đầu tư (trong nước và từ bên
ngoài vào) còn hạn chế. Nếu không có một cái nhìn đúng đắn về
đầu tư thì nền kinh tế Việt Nam sẽ rất khó đứng vững trước làn
sóng vốn tràn vào Việt Nam và luôn biến động một cách mạnh mẽ
như hiện nay. Chính vì tầm quan trọng của đầu tư đối với tăng
trưởng và phát triển kinh tế là rất lớn nên tìm hiểu rõ hơn về những
tác động của đầu tư tới tăng trưởng kinh tế là việc làm cần thiết và
quan trọng với mỗi sinh viên nói chung và sinh viên chuyên ngành
kinh tế nói riêng.
CHƯƠNG I
∆Y ∆Y ∆Y 1 1 1
k= = = = = =
∆I ∆S ∆Y − ∆C ∆Y 1 − MPC MPS
1−
∆C
Trong đó :
MPC = ∆C / ∆Y : Khuynh hướng tiêu dùng biên.
MPS = ∆S / ∆Y : Khuynh hướng tiết kiệm biên.
Vì MPS < 1 nên k > 1
Khuynh hướng tiêu dùng cận biên càng tăng thì số nhân đầu tư
càng lớn, do đó độ khuyếch đại của gia tăng đầu tư đối với thu
nhập, sản lượng và công ăn việc làm ngày càng lớn và ngược lại,
khuynh hướng tiết kiệm cận biên càng tăng thì sự rò rĩ trong chi
tiêu càng lớn nên số nhân càng nhỏ, do đó, độ khuyếch đại thu
nhập, sản lượng công ăn việc làm của gia tăng đầu tư càng nhỏ.
Qua sự phân tích trên ta thấy khuynh hướng tiêu dùng cận biên
có vai trò quan trọng trong số nhân và đến lượt mình số nhân
làm khuyếch đại thu nhập khi có sự gia tăng đầu tư.
Theo Keynes, mỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo cầu bổ
sung về công nhân và tư liệu sản xuất, có nghĩa là việc làm gia
tăng, thu nhập gia tăng. Thu nhập tăng sẽ là tiền đề cho tăng đầu
tư mới. Như vậy, số nhân có tác động dây chuyền, nó khuyếch
đại thu nhập lên.
b. Lý thuyết gia tốc đầu tư:
Nếu số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ giữa việc gia tăng đầu
tư với sản lượng hay việc gia tăng đầu tư có ảnh hưởng như thế
nào tới sản lượng. Như vậy, đầu tư xuất hiện như một yếu tố của
tổng cầu .Theo Keynes đầu tư được xem xét từ góc độ tổng
cung,nghĩa là mỗi sự thay đổi sản lượng làm thay đổi tổng cung
như thế nào
- Khái niệm : Lý thuyết này chỉ ra rằng để sản xuất ra 1 đơn vị
sản lượng đầu ra cho trước cần phải có 1 lượng vốn đầu tư nhất
định.Tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư được biểu diễn
như sau:
x=K/Y
Y = Aert LαK1-α
Trong đó : Aert : ảnh hưởng của yếu tố công nghệ ( A>0 và cố định
; r là tỉ lệ tăng trưởng công nghệ ; t là thời gian )
α và (1-α) : hệ số co giãn thành phần của yếu tố sản xuất
với các yếu tố vốn và lao động
Từ hàm SX Cobb - Douglas trên đây ta có thể tính được tỷ lệ tăng
trưởng của sản lượng:
g = r + αh + (1 – α)n
Trong đó : g là tỉ lệ tăng trưởng
h là tỉ lệ tăng trưởng của vốn
n là tỉ lệ tăng trưởng của lao động
Từ đó ta thấy tăng trưởng của sản lượng có mối quan hệ thuận với
tiến bộ của công nghệ và tỉ lệ tăng trưởng của vốn và lao dộng
θ0=arccos θ0
Góc này bằng 00 khi không có sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và
bằng 900 khi sự chuyển đổi cơ cấu là lớn nhất.
θ0
k=
90
Và độ lệch tỷ trọng nông nghiệp là
dNN= βNN(t1) – βNN(t)
1 Hệ số chuyển dịch k của hai ngành dịch vụ và sản xuất
vật chất là
β DV (t ) × β DV (t1) + β PhiDV (t ) × β PhiDV (t1)
cos θ 0 =
( β DV
2
(t ) + β PhiDV
2
(t )) × ( β DV
2
(t1) + β PhiDV
2
(t1))
θ0=arccos θ0
θ0
k=
90
Và độ lệch tỷ trọng dịch vụ và sản xuất vật chất là
dDV= βDV(t1) – βDV(t)
- Chuyển dịch cơ cấu ngành :
+ Đầu tư làm tăng tỉ trọng các ngành kinh tế then chốt , các
ngành có tiềm năng, thế mạnh
+ Đầu tư là vì mục tiêu lợi nhuận nên các ngành có tỉ suất lợi
nhuận cao sẽ được chú trọng đầu tư dẫn tới gia tăng qui mô, trình
độ ngành đó .
+ Quá trình đầu tư nghiên cứu làm xuất hiện các ngành mới ,
phát triển các ngành kĩ thuật cao thu hút thêm vốn đầu tư dần dần
thành cá ngành có tỉ trọng lớn hơn trong cơ cấu kinh tế.
- Chuyển dịch cơ cấu vùng lãnh thổ : đầu tư có tác dụng giải
quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ
+ Đầu tư làm tăng tỉ trọng các ngành có nhiều đóng góp vào
GDP , các ngành có nhiều lợi thế so sánh , có điều kiện thuận lợi.
+ Đầu tư vào các vùng khó khăn để thu hẹp khoảng cách giữa
các vùng có điều kiện thuận lợi với các vùng có điều kiện khó
khăn
- Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế
Đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân gia tăng làm giảm tỉ trọng
của khu vực nhà nước , tăng tỉ trọng khu vực ngoài nhà nước
và khu vực có vốn đầu tư nước ngoai.
Đầu tư góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp quy
luật và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng
thời kỳ, tạo ra sự cân đối trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và
giữa các ngành, vùng, phát huy nội lực của nền kinh tế, trong khi
vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực. Đối với cơ cấu ngành, vốn đầu tư
vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư từng ngành nhiều hay ít, việc sử
dụng vốn hiệu quả thấp hay cao… đều ảnh hưởng đến tốc độ phát
triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo
tiền đề vật chất để phát triển các ngành mới… do đó, làm dịch
chuyển cơ cấu kinh tế ngành. Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác
dụng giải quyết những mất mát cân đối về phát triển giữa các vũng
lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói
nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế,
kinh tế, chính trị… của những vùng có khả năng phát triển nhanh
hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
4. Tác động của đầu tư tới phát triển khoa học công nghệ
- Đầu tư là nhân tố quan trọng trong việc đổi mới , phát triển khoa
học, công nghệ của một doanh nghiệp hay quốc gia
- Trong mỗi thời kỳ các nước có bước đi khác nhau để đầu tư phát
triển công nghệ. Ban đầu sử dụng các lọai công nghệ sử dụng
nhiều lao động và nguyên liệu sau đó giảm dần thông qua việc tăng
dần hàm lượng đầu tư vào công nghệ. Đến giai đoạn phát triển, xu
hướng đầu tư mạnh vốn thiết bị và gia tăng hàm lượng tri thức
chiếm ưu thế tuyệt đối. Tuy nhiên quá trình chuyển từ giai đoạn
một sang giai đoạn ba là quá trình chuyển từ đầu tư ít sang đầu tư
lớn, thay đổi cơ cấu đầu tư. Không có vốn đầu tư đủ lớn sẽ không
đảm bảo sự thành công của quá trình chuyển đổi và sự phát triển
của khoa học công nghệ.
- Công nghệ là do doanh nghiệp nhập khẩu từ bên ngoài hoặc do tự
nghiên cứu và ứng dụng. Công nghệ được nhập khẩu qua nhiều
đường như mua thiết bị, linh kiện rồi lắp đặt, mua bằng chế, thực
hiện liên doanh… Công nghệ do tự nghiên cứu và triển khai được
thực hiện qua nhiều giai đoạn và từ nghiên cứu đến thí nghiệm sản
xuất thử sản xuất thường mất nhiều thời gian rủi ro cao. Dù vậy
nhập hay tự nghiên cứu để có công nghệ đều đòi lượng vốn đầu tư
lớn. mỗi doanh nghiệp, mỗi nước khác nhau cần có bước đi phù
hợp để lựa chọn công nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó đầu tư có hiệu
quả để phát huy lợi thế so sánh của từng đơn vị cũng như toàn
ngành kinh tế quốc dân
- Để phản ánh sự tác động của đầu tư đến trình độ phát triển của
khoa học và công nghệ, có thể sử dụng các chỉ tiêu sau:
+ Tỷ trọng vốn đầu tư đổi mới công nghệ/ tổng vốn đầu tư: cho
thấy mức độ đầu tư đổi mới công nghệ nhiều hay ít trong mỗi thời
kỳ.
+ Tỷ trọng chi phí mua sắm máy móc thiết bị/ tổng vốn đầu tư
thực hiện: cho thấy tỷ lệ vốn là máy móc thiết bị chiếm bao nhiêu.
+ Tỷ trọng vốn đầu tư theo chiều sâu/ tổng vốn đầu tư thực hiện:
phản ánh mức độ đầu tư đổi mới khoa học và công nghệ cao.
+ Tỷ trọng vốn đầu tư cho các công trình mũi nhọn, trọng điểm:
chỉ tiêu này càng lớn cho thấy mức độ tập trung của công nghệ và
gián tiếp phản ảnh mức độ hiện đại của công nghệ.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TÁC ĐỘNG TỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ
PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM
A / Tổng quan về hoạt động đầu tư và tình hình tăng trưởng và phát
triển ở Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2010
I , Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh
tế, phát triển xã hội và bảo vệ, cải thiện môi trường. Nhìn chung, tổng số vốn
đầu tư huy động được tăng dần qua các năm kể từ 2001 cho đến 2010 phù
hợp với sức tăng trưởng khá nhanh của nền kinh tế Việt Nam. Tốc độ tăng
của vốn đầu tư trong giai đoạn này mang dấu hiệu rất khả quan. Cụ thể: năm
2001, tổng số vốn huy động được chỉ đạt được 170,5 nghìn tỷ đồng, thì đến
năm 2009, con số này là 704,7 nghìn tỷ đồng tức tổng vốn đầu tư tăng gấp 4
lần trong vòng 9 năm và năm 2010 là 830,3 nghìn tỷ đồng , tăng 17,1% so
với năm 2009 . Điều này phản ánh dấu hiệu lạc quan trong lĩnh vực đầu tư
(đầu tư phát triển) trong nền kinh tế Việt Nam.
Xét về cơ cấu vốn, nếu như trong các năm 2001 và 2002, vốn đầu tư được chú
trọng đến khu vực kinh tế nhà nước chiếm lần lượt 60% và 57% trên tổng số vốn
đầu tư, thì bắt đầu tư năm 2003 trở đi, cơ cấu vốn đã có sự chuyển dịch. Tức là
quan tâm rót vốn vào 2 khu vực kinh tế còn lại (khu vực ngoài nhà nước, khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài) nhưng chưa rõ rệt. Năm 2009, vốn đầu tư toàn xã hội
thực hiện theo giá thực tế ước tính tăng 15,3% so với năm 2008 và bằng 42,8%
GDP. Trong đó, khu vực nhà nước tăng 40,5%; khu vực ngoài nhà nước tăng
13,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 5,8%. Trong vốn đầu tư
của khu vực nhà nước, vốn từ ngân sách nhà nước chiếm 21,8% tổng vốn đầu tư
cả nước, đạt 106,8% kế hoạch năm. (bảng 1)
Bảng 1: Vốn đầu tư thực hiện theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế
Một trong những vai trò quan trọng của nguồn vốn đầu tư trong nước là ổn
định và cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô; tạo tiền đề thu hút nguồn vốn
đầu tư nước ngoài. Điều đó thể hiện rất rõ trong các Dự án phục vụ phát
triển cơ sở hạ tầng của đất nước.Sau hơn 20 năm đổi mới, từ một hệ thống
kết cấu hạ tầng yếu kém cả về số lượng và chất lượng, đến nay kết cấu hạ
tầng đã đạt được kết quả đáng kể trong các lĩnh vực như sau:
Năm 00 01 02 03 04 05 06 07
Tỷ USD 2,01 2,59 1,82 1,95 4,2 5,8 10,2 20,3
Thu hút đầu tư có dấu hiệu phục hồi trở lại nhưng còn chậm. Năm
2000 và 2001 đầu tư nước ngoài tại VN tăng nhẹ, năm 2002 & 2003 giảm
nhẹ, năm 2004 & 2005 có xu hướng tăng nhanh.
- Giai đọan 2006-2007: Là giai đoạn đặc biệt. Dòng vốn ĐTNN tăng
rất nhanh. Năm 2006, ĐTNN đạt 10,2 tỷ tăng 75,4% so với năm 2005.
- Tính đến cuối năm 2007, có hơn 8.590 dự án ĐTNN còn hiệu lực hoạt
động tại VN với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khỏang 83,1 tỷ USD. Năm
2007 đạt mức kỷ lục trong 20 năm qua với 20,3 tỷ USD tăng gấp đôi so với
năm 2006. Đây được xem là làn sóng ĐTNN lớn thứ 2 đổ vào VN từ trước
đến nay.
- Năm 2008 tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký của cả nước năm
2008 đạt 64,011 tỉ USD, tăng 199,9% so với năm trước, cao nhất từ trước
đến nay. Tổng số dự án được cấp mới của cả năm là 1.171 dự án. Vốn giải
ngân đạt 11,5 tỉ USD, tăng 43,2% so với năm trước. Lĩnh vực công nghiệp
và xây dựng thu hút 572 dự án với 32,6 tỉ USD, dịch vụ có 554 dự án với
tổng vốn đăng ký 27,4 tỉ USD, số dự án và vốn đầu tư vào lĩnh vực nông -
lâm - ngư rất nhỏ. Malaysia trở thành nhà đầu tư đứng đầu tại VN với 55 dự
án, vốn đăng ký 14,9 tỉ USD. Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đạt gần 24,5 tỉ USD, chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch
xuất khẩu cả nước, đây cũng là khu vực có kim ngạch nhập khẩu rất lớn
(28,5 tỉ USD). Đây là kết quả đáng khích lệ đối với các nhà hoạch định
chính sách FDI, là thành quả của Chính phủ trong nỗ lực chỉ đạo, điều hành,
của các cơ quan quản lý hoạt động FDI từ Trung ương đến địa phương trong
việc tạo môi trường đầu tư - kinh doanh hấp dẫn, cởi mở, minh bạch và
thông thoáng, phù hợp với cam kết quốc tế về giảm thiểu các khó khăn,
vướng mắc cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó còn là sự tích cực, chủ động trong
thu hút và quản lý FDI bằng nhiều biện pháp theo hướng đơn giản thủ tục
hành chính, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư đã được cấp
phép nhanh chóng đi vào hoạt động kinh doanh hiệu quả, phát huy tính tự
chủ và tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp
Tuy chỉ bằng 30% năm 2008, nhưng FDI vào Việt Nam năm 2009 đạt con
số 21,48 tỷ USD cũng vẫn là kết quả khả quan. Mặc dù khủng hoảng kinh tế
toàn cầu, song Việt Nam đã vượt mục tiêu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài trong năm nay, theo kế hoạch ban đầu chỉ là 20 tỷ USD.
Cả nước có 839 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn
đăng kí là 16,34 tỷ USD bằng 24,6% so với năm 2008 và 215 dự án xin bổ
sung vốn với tổng vốn tăng thêm là 5,13 tỷ USD bằng 98,3% so với năm
2008. Riêng tháng 12, Việt Nam có 1,78 tỷ USD vốn đăng kí và bổ sung
TT Ngành Số dự Vốn đăng Số lượng Vốn Vốn đăng ký cấp
án mới ký cấp mới dự án đăng ký mới và tăng thêm
tăng thêm
(triệu USD) tăng vốn (triệu USD)
(triệu USD)
1 Dvụ lưu trú và ăn uống 32 4.982,6 8 3.811,7 8.794,2
2 KD bất động sản 39 7.372,4 4 236,1 7.608,5
3 CN chế biến,chế tạo 245 2.220,0 131 749,3 2.969,2
4 Xây dựng 74 388,3 11 99,2 487,4
5 Khai khoáng 6 397,0 0 0,0 397,0
6 Nghệ thuật và giải trí 12 291,8 0 0,0 291,8
7 Bán buôn,bán lẻ;sửa chữa115 191,7 14 46,5 238,2
8 Vận tải kho bãi 26 109,8 5 74,8 184,6
9 SX,pp điện,khí,nước,đ.hòa16 129,0 1 27,9 156,9
10 HĐ chuyên môn, KHCN 148 89,0 7 10,9 99,9
11 Thông tin và truyền thông 63 67,6 17 25,5 93,1
12 Nông,lâm nghiệp;thủy sản16 62,4 8 22,5 84,9
13 Giáo dục và đào tạo 8 5,2 3 23,7 28,9
14 Dịch vụ khác 22 14,9 5 7,9 22,7
15 Cấp nước;xử lý chất thải 5 8,4 0 0,0 8,4
16 Y tế và trợ giúp XH 6 7,4 1 0,9 8,3
17 Hành chính và dvụ hỗ trợ 5 7,9 0 0,0 7,9
18 Tài chính,n.hàng,bảo hiểm 1 0,0 0 0,0 0,0
Tổng số 839 16.345,4 215 5.136,7 21.482,1
Nguồn số liệu: bộ kế hoạch và đầu tư
Còn đối với năm 2010
b, Tài trợ phát triển chính thức :ODF. Với ODA chiếm tỉ trọng chủ yếu
Hỗ trợ phát triển chính thức (hay ODA, viết tắt của cụm từ Official
Development Assistance), là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là hỗ trợ
bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc
lãi suất thấp với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là phát
triển vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và
nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là chính thức, vì nó thường là
cho Nhà nước vay
Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các
chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát
triển. Với các điều kiện ưu đãi hấp dẫn về lãi suất thấp, thời hạn cho vay dài,
khối lượng cho vay lớn và đặc biệt bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không
hoàn lại đạt ít nhất 25%.
Nguồn vốn này được cấp qua các cơ quan chính thức của chính phủ nước
nhận viện trợ, và để được nhận ODA thì nước nhận đầu tư phải có nguồn
vốn đối ứng tương ứng. Nguồn vốn ODA mang mục đích nhân đạo, tăng
cường mối quan hệ giữa các nước nên không cấp cho dự án mang tích
thương mại.
Tuy có nhiều ưu đãi song đi kèm với loại vốn này thường là các điều kiện và
ràng buộc bất lợi cho nước nhận viện trợ. Các nước khi đi viện trợ vốn ODA
đều gắn với nhũng lợi ích và chiến lược lâu dài để mở rộng thi trường, mở
rộng các quan hệ có lợi cho mình, gây ra sự lệ thuộc về quân sự, chính trị,
… các nước viện trợ ODA thường yêu cầu các nước nhậ viện trợ phải dỡ bỏ
dần hang rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ, giảm thuế
nhập khẩu. Hơn nữa các dự án ODA thường đòi hỏi phải do các công ty của
nước viện trợ trực tiếp thực hiện dự án, với giá cả đắt hơn hẳn so với giá cả
chung của thị trường, bỏi vậy cho nên thường hơn 90% nguồn vốn ODA lại
chảy về nước viện trợ qua các công ty này. Bởi vây nhiều lúc bản chất của
viện trợ ODA là các nước viện trợ tạo điều kiện cho các công ty của nước
mình có các hợp đồng béo bở, bởi vậy thực sự khi đi viện trợ họ lại được
nhiều hơn mất. Bởi vậy khi đàm phán xin viện trợ cần cố gắng hạn chế đến
mức thấp nhất bất lợi này
Trong thời gian qua ,việc thu hút ODA phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp
hóa hiện đại hóa ở Việt Nam đã diễ ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế
có nhiều thuận lợi .Kể từ năm 1993 đến hết 2006 ,Việt Nam đã tổ chức được
14 hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ với tổng mức vốn cam kết hơn 36 tỉ
usd.Với quy mô tài trợ khác nhau ,hiện nay Việt Nam có trên 45 đối tác hợp
tác phát triển song phương và hơn 350 tổ chức quốc tế và phi chính phủ
đang hoạt động.
Trong tổng số vốn cam kết nói trên bao gồm cả viên trợ không
hoàn lại chiếm khoảng 15-20% và phần chủ yếu còn lại là vay ưu đãi
.Nguồn vốn ODA này đã được Chính Phủ Việt nam định hướng ưu tiên cho
các lĩnh vực giao thông vận tải ,phát triển hệ thống nguồn điện ,mạng lưới
chuyể tải và phân phối điện ,phát triển nông nghiệp và nông thôn gồm cả
thủy lợi , thủy sản,lâm nghiệp kết hợp xóa đói giảm nghèo ,cấp thoát nước
và bảo vệ môi trường ,y tế giáo dục và đào tạo .. Trong thời gian qua, cộng
đồng tài trợ tại Việt Nam đã được mở rộng rất nhiều và hiện có 51 nhà tài
trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương1 đang
hoạt động thường xuyên tại Việt Nam. Ngoài các nước là thành viên của Tổ
chức OECD-DAC còn có các nhà tài trợ mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ..
*Trong các ngành và lĩnh vực ưu tiên vốn ODA:
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo có các
chương trình và dự án ODA ký kết trong thời kỳ 1993-2008 đạt tổng trị giá
khoảng 5,5 tỷ USD, trong đó có nhiều dự án quy mô lớn như Dự án giảm
nghèo các tỉnh vùng núi phía Bắc, Dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn
dựa vào cộng đồng, Dự án phát triển sinh kế miền Trung, Chương trình cấp
nước nông thôn, giao thông nông thôn và điện khí hóa nông thôn, Chương
trình thủy lợi Đồng bằng sông Cửu Long và nhiều dự án phát triển nông
thôn tổng hợp kết hợp xóa đói, giảm nghèo khác
Năng lượng và Công nghiệp là lĩnh vực sử dụng nguồn vốn ODA lớn với
các dự án đã ký trong thời gian qua đạt trên 7,6 tỷ USD nhằm cải tạo, nâng
cấp, phát triển mới nhiều nhà máy nhiệt điện và thủy điện với công suất lớn2,
cải tạo và phát triển mạng truyền tải và phân phối điện quốc gia đáp ứng nhu
cầu điện gia tăng hàng năm cho sản xuất và đời sống ở các thành phố, thị
trấn, thị xã, khu công nghiệp và khu vực nông thôn trên cả nước
Giao thông Vận tải và Bưu chính viễn thông là ngành tiếp nhận vốn
ODA lớn nhất với tổng giá trị hiệp định ký kết đạt khoảng 9,88 tỷ USD thời
kỳ 1993-2008. Nhờ nguồn vốn này, Việt Nam đã khôi phục và bước đầu
phát triển các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường không,
đường biển và đường thủy
2
Y tế, giáo dục đào tạo, môi trường, khoa học kỹ thuật là những
lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua với các chương
trình, dự án đã ký đạt tổng số vốn khoảng 4,3 tỷ USD
BIỂU ĐỒ CAM KẾT, KÝ KẾT, GIẢI NGÂN TỪ 1993 - 2008
6000
5000
4000
Triệu USD
Camkết
3000 Ký kết
Giải ngân
2000
1000
0
1993
1994
1995
1997
1998
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
1996
1999
2000
Năm
Năm 2008 , tuy kinh tế toàn cầu có nhiều khó khăn lớn trong xu thế
suy thoái,song tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam năm
2008 diễn ra đầu tháng 12, tại Hà Nội, tổng cam kết từ các nhà tài trợ lên tới
5,014 tỉ USD (thấp hơn 1 chút so với năm 2007: 5,4 tỉ USD). Giải ngân vốn
ODA được 2,2 tỉ USD, vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra và cao hơn mức năm
2007 (2,176 tỉ USD).
BIỂU ĐỒ CƠ CẤU ODA THEO NGÀNH VÀ LĨNH VỰC THỜI
KỲ
1993- 2008
13,11% 15,66%
3,32%
8,90%
21,78%
9,17%
28,06%
Nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo
Năng lượng và công nghiệp
Giao thông vận tải, bưu chính viễn thông
Cấp, thoát nước và phát triển đô thị
Y tế, giáo dục đào tạo
Môi trường, khoa học kỹ thuật
Các ngành khác
Vì vậy, có thể nói rằng ODA sẽ vẫn tiếp tục là nguồn vốn bổ sung quan
trọng cho giai đoạn phát triển sắp tới của Việt Nam.
Tổng giá trị vốn ODA được ký kết thông qua các hiệp định với các nhà tài
trợ năm 2009 ước đạt 6.144,4 triệu USD. Trong đó, vốn vay là 5.929,4 triệu
USD, viện trợ không hoàn lại là 215 triệu USD. Tổng số vốn ODA giải ngân
năm 2009 ước đạt trên 3.600 triệu USD, bao gồm vốn vay khoảng 3.255
triệu USD; vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 345 triệu USD
* Các kết quả đạt được:
- Việc thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua góp phần quan trọng
trong việc thực hiện thành công chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá,
đa phương hoá, giữ vững độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia
- ODA đã bổ sung một nguồn vốn quan trọng góp phần cân đối nguồn vốn
đầu tư phát triển trong các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước
- ODA đã hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần tăng
trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và
hiện đại hóa, cải thiện các dịch vụ kinh tế - xã hội, xoá đói, giảm nghèo
- Nguồn vốn ODA đã góp phần phát triển kinh tế, xã hội và xoá đói giảm
nghèo của nhiều địa phương, bao gồm phát triển cơ sở hạ tầng quy mô vừa
và nhỏ (nước, đường, trường, trạm, lưới điện, điện thoại...).
- Thông qua các chương trình và dự án ODA, ta đã tiếp nhận được các
thành tựu khoa học hiện đại, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến,
tăng cường năng lực và phát triển thể chế, hỗ trợ xây dựng chính sách, luật
pháp: Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Thương mại, Luật Đầu tư,
Luật Đấu thầu, Luật Cạnh tranh, Luật Chống tham nhũng,...và đào tạo cán
bộ.
c, Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.
Đây là nguồn vốn vay từ ngân hàng thương mại quốc tế với lãi suất tương
đối cao, có thời gian trả nợ chính xác và thủ tục cho vay khắt khe. Tuy nhiên
nó không có các ràng buộc về chính trị xã hội. Đây là nguồn vốn cho vay với
lãi suất thương mại nên nếu các nước tiếp nhận không sử dụng hiệu quả
nguồn vốn này thì có nguy cơ dẫn đến tình trạng mất khả năng chi trả, dẫn
đến nguy cơ vỡ nợ. Đây là những trở ngại không nhỏ đối với các nước
nghèo khi hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Bởi vậy nguồn vốn này thường
được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu vốn của các hoạt động xuất nhập
khẩu thường là ngắn hạn.
Có thể nói đây là những nguồn huy động vốn tương đối mới mẻ tại Việt
Nam .Tuy nhiên hiên nay, Việt Nam đã được các ngân hàng quốc tế tạo điều
kiện khá thuận lợi trong việc vay vốn song phải chịu mức lãi suất tuơng đối
cao cũng như sự kiểm soát khắt khe của Ngân hàng ,ngoài ra nguồn vốn tín
dụng này thường được sử dụng để đáp ứng nhu cầu cho xuất nhập khẩu và
thường là ngắn hạn một bộ phận có thể được dùng cho đầu tư phát triển .Bên
cạnh nguồn vốn vay này thì việc xây dựng các đề án phát hành trái phiếu
chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp ra nước ngoài cũng đã và đang được
triển khai.đặc biệt năm 2005 ,chính phủ Việt Nam phát hành đợt trái phiếu
đầu tiên trên thị trường trái phiếu Hoa Kỳ với kết quả là huy động được 750
triệu USD với mức lãi suất 7,125%.Điều này cho thấy chúng ta có thể huy
động được nhiều nguồn vốn cho mục tiêu phát triển của đất nước .Việc phát
hành này đưa lại cho chúng ta những thuận lơi:Cầu nối giữa thị trường vốn
trong nước với thị trường tài chính quốc tế. Việc phát hành trái phiếu quốc tế
mở ra một kênh huy động vốn có khả năng đáp ứng các dự án có quy mô
lớn, thời gian dài và nguồn lực hầu như không hạn chế, tạo ra sự cạnh tranh
trên thị trường vốn trong nước với thị trường vốn nước ngoài. trái phiếu
quốc tế còn đóng vai trò là công cụ để thực hiện chính sách quản lý nợ quốc
gia.Tuy nhiên do đây là một hình thức huy động vốn rất mới mẻ tại Việt
Nam vì vậy đòi hỏi khi phát hành phải lựa chọn loại trái phiếu phát hành
,thời gian đáo hạn,thị trường phát hành đồng thời cần cân nhắc thận trọng
giữa huy động vốn qua phát hành trái phiếu với các hình thức huy động khác
và sử dụng hiệu quả nguồn vốn này
d, Nguồn vốn từ thị trường vốn quốc tế.
Đây là nguồn vốn được huy động từ thị trường chứng khoán trên thế giới
bằng việc bán các chứng khoán của chính phủ và các công ty trong nước ra
nước ngoài.
Có thể huy động vốn với số lượng lớn, trong thời gian dài để đáp ứng nhu
cầu về vốn cho nến kinh tế mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện về tín
dụng, quan hệ cho vay để gây sức ép với nước huy động vốn trong các quan
hệ khác
Thực trạng về vai trò của nguồn vốn nước ngoài đối với tăng trưởng và
phát triển kinh tế ở Việt Nam
*Về mặt kinh tế:
-ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu
cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế: Đóng góp của
ĐTNN trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn, từ tỷ trọng chiếm
13,1% vào năm 1990 đã tăng lên mức 32,3% trong năm 1995. Tỷ lệ này đã
giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính khu vực (năm 2000 chiếm 18,6%) và trong 5 năm 2001-2005 chiếm
khoảng 16% tổng vốn đầu tư xã hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng
16% (Theo Niên giám Thống kê cơ cấu vốn đầu tư thực hiện của khu vực
ĐTNN năm 2003 là 16%, năm 2004 là 14,2%, năm 2005 là 14,9% và năm
2006 là 15,9%, ước năm 2007 đạt trên 16%).
- ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động,
nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao
hơn mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH), tăng tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong ngành công
nghiệp qua các năm (từ 23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004, 41% năm
2005 và năm 2006).
- ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ
ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt
Nam, phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn
thông, thăm dò và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học,
ô tô, xe máy... Nhất là sau khi Tập đoàn Intel đầu tư 1 tỷ đô la Mỹ vào Việt
Nam trong dự án sản xuất linh kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng các
dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao của các tập đoàn đa quốc gia
(Canon, Panasonic, Ritech.v.v)
Tình hình chuyển giao công nghệ ở Việt Nam giai đoạn 1990-nay
(Một số số liệu Hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được
Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt cấp đăng ký)
thực phẩm chiếm: 10,14%
- Hóa – Mỹ phẩm
- Công nghiệp chiếm: 50,93%
- Công nghiệp: 10,35%
- Điện – Điện tử - Bưu chính viễn thông: 13,45%
- Nông – Lâm – Ngư nghiệp: 3,51%
- Xây dựng – Vật liệu xây dựng: 4,10%
- Dịch vụ: 5,40%
- Khác: 2,12%
- Tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác
trong nền kinh tế:
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số
lượng các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng
thời, có tác động lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua
sự liên kết giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong
nước, công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp
có vốn ĐTNN. Sự lan tỏa này có thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp
trong ngành dọc hoặc theo hàng ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động
cùng ngành. Mặt khác, các doanh nghiệp ĐTNN cũng tạo động lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn
cầu hóa.
- ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô:
Cù ng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức
đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng.
Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp ĐTNN đã
nộp ngân sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-
2005, thu ngân sách trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD,
tăng bình quân 24%/năm. Riêng 2 năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có
vốn ĐTNN đã nộp ngân sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000
và bằng 83% thời kỳ 2001-2005.
- ĐTNN góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống
kinh tế quốc phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống một bộ phận trong cộng
đồng dân cư, đưa mức GDP đầu người tăng lên hàng năm. Tốc độ tăng kim
ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh, cao hơn mức bình quân
chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim ngạch xuất
khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt
10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm
23% kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm
31%; tính cả dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm
trên 55% trong các năm 2005, 2006 và 2007
* Về mặt xã hội
- ĐTNN góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng
suất lao động, cải thiện nguồn nhân lực: Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN
đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động
gián tiếp khác theo kết quả điều tra của WB cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo
việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ trong khu vực dịch vụ và xây
dựng, góp phần nâng cao
- ĐTNN góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh
tế với khu vực
Theo kết quả điều tra năm 2002 (của Viện Quản lý kinh tế trung ương), đa
số các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường Việt
Nam và có kết quả môi trường tốt hơn so với số đông các doanh nghiệp
trong nước (có 77% doanh nghiệp có kết quả về các thông số gây ô nhiễm
môi trường thấp hơn tiêu chuẩn cho phép của Việt Nam). Đáng chú ý là 60%
doanh nghiệp ĐTNN trong lĩnh vực chế biến thực phẩm đã lắp đặt thiết bị
xử lý nước thải đúng tiêu chuẩn (so sánh với tỷ lệ 10% của các doanh nghiệp
trong nước). Không có doanh nghiệp ĐTNN nào được điều tra vi phạm tiêu
chuẩn môi trường Việt Nam
II/ Tăng trưởng và phát triển của Việt Nam trong giai đoạn 2001 –
2010
Qua gần 25 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tích
đầy ấn tượng trong tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo.Điều này
không chỉ góp phần giúp đất nước khắc phục tình trạng kém phát triển, mà
còn làm tiền đề để thực hiện nhiều mục tiêu kinh tế - xã hội khác như giảm
thất nghiệp, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân sách, phát triển giáo
dục, y tế, văn hoá, xóa đói giảm nghèo...Về cơ bản, những thành tựu tăng
trưởng đã đến được với đại bộ phận người dân, thể hiện ở mức tăng rõ rệt về
thu nhập và tiêu dùng của tất cả các nhóm dân cư trong thời gian qua. Và
được thể hiện qua : Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990),
GDP chỉ đạt mức tăng trưởng bình quân 4,4%/năm, thì trong 5 năm tiếp
theo (1991 - 1995), tăng trưởng GDP bình quân là 8,2%; cao hơn so với kế
hoạch đề ra là 5,5% - 6,5%; và thuộc vào loại cao trong số các nước đang
phát triển. Trong giai đoạn 1996 - 2000, tốc độ tăng GDP bình quân của Việt
Nam là 6,9%; tuy có thấp hơn nửa đầu thập niên 90 thế kỷ XX do ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á, nhưng vẫn vào loại cao
trong khu vực. Năm 2001, tốc độ tăng GDP của Việt Nam là 6,9%; năm
2002: 7%; năm 2003: 7,3%; năm 2004: 7,7%; năm 2005: 7,5%; năm 2006:
8,2% và năm 2007: 8,5% , năm 2008 : 6,23% , năm 2009 : 5,32% , năm
2010 : 6,78%. So với các nước trong khu vực, Việt Nam đứng vào hàng các
quốc gia có tốc độ tăng trưởng rất cao.
Do chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu,
tăng trưởng kinh tế Việt Nam có dấu hiệu của sự sụt giảm đáng kể. Tốc độ tăng
trưởng Tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam năm này chỉ đạt 6,23%
tức là thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng của năm ngoái và thấp nhất trong vòng
9 năm trở lại đây. Đánh giá chung về tình hình tăng trưởng và phát triển kinh tế
Việt Nam 2009: tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy đã tăng lên, vượt qua giai đoạn
suy giảm, nhưng tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào phát triển theo chiều
rộng, tăng khối lượng các nguồn lực, nhất là tăng vốn đầu tư, chưa thực sự dựa
trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội và nâng cao hiệu quả nên tăng trưởng
chưa thật vững chắc, chất lượng và hiệu quả tăng trưởng chưa cao. Tỷ lệ đầu tư
so với GDP năm 2008 là 41,3%; năm 2009 là 42,8%; nhưng tốc độ tăng GDP
hai năm chỉ đạt 6,18% và 5,32% là chưa tương xứng. Khả năng cạnh tranh của
nền kinh tế và của nhiều ngành, nhiều sản phẩm còn thấp.
III / Tác động của đầu tư tới tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam
giai đoạn 2001 - 2010
1.Tác động tới tốc độ tăng trưởng:
Từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn được xếp vào
hàng cao của khu vực và thế giới, đặc biệt năm 2006 (8,2%) và năm 2007 ( 8,5%),
và mặc dù trong năm 2008 (6,23%), 2009 (5,32%) , 2010 ( 6,7 % ) có sự sụt giảm do
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhưng Việt Nam được xếp vào
hàng các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới.
Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế là 3 yếu tố đầu vào: vốn, lao động và nhân tố
năng suất tổng hợp (TFP). Mức độ đóng góp của từng yếu tố đầu vào này trong từng
giai đoạn thể hiện bảng sau :
Tốc độ tăng Tốc độ tăng năng Đóng góp Đóng góp
GDP suất nhân tố tổng của vốn của lao
hợp (TFP) động
2003-2008 45,72 7,55 13,43 6,74
Phần trăm đóng góp 100% 16,51% 68,75% 14,74%
Như vậy, bảng trên cho thấy: Việt Nam tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu tư quá
mức và dàn trải. Mức đóng góp của yếu tố vốn vào tăng trưởng chiếm đến
68,75% trong giai đoạn năm năm 2003 – 2008 và tăng lên đến 71,66% trong năm
năm 2004 – 2009. Đây là một tỷ lệ cao hiếm thấy trên thế giới
Tuy vốn đầu tư đóng vai trò chủ chốt đối với sức tăng trưởng của kinh tế Việt
Nam nhưng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nước ta đang có xu hướng giảm dần
trong những năm gần đây. Điều này thể hiện ở hệ số ICOR:
Giai đoạn ICOR
1991 – 1995 3,5
1996 – 2000 4,8
2001 – 2003 5,24
2004 – 2006 5,04
2007 – 2008 6,15
2009 8
Nhìn vào bảng trên ta thấy hệ số ICOR tăng dần qua các năm . Các nguyên
nhân làm cho hệ số ICOR tăng là :
+ Các nguyên nhân có liên quan đến vốn đầu tư:
- Xác định mục tiêu đầu tư.
- Đầu tư vào lĩnh vực không trực tiếp thu hồi vốn và có lãi.
- Đầu tư còn dàn trải, thi công lại kéo dài, làm cho vốn bị "chôn" vào
nhiều công trình phân tán, nhiều công trình dở dang.
- Tình trạng thất thoát trong đầu tư còn lớn.
- Đầu tư chưa chú trọng vào chất lượng của công trình.
Hiệu quả kinh tế được thể hiện thông qua hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu
vào của tăng trưởng như vốn (hiệu quả đầu tư), lao động (năng suất lao
động), trình độ khoa học-công nghệ (đóng góp của TFP vào tăng trưởng) và
tỷ lệ chi phí trung gian trong sản xuất.
Năng suất lao động xã hội (được tính bằng GDP theo giá thực tế chia cho
tổng số lao động đang làm việc) của Việt Nam còn rất thấp: năm 2007 đạt
khoảng 25,9 triệu đồng/người/năm, hoặc 1.608 USD/người/năm. Đó là
những con số rất thấp so với các nước khác, chẳng hạn thấp hơn so với các
nước ASEAN nhiều lần (nếu Việt Nam = 1 thì Indonesia = 2,5; Thái Lan =
4,1; Malaysia = 10,7). Nếu tính bằng giá so sánh thì tốc độ tăng năng suất
lao động trong thời kỳ 1991-2008 chỉ đạt 5,2%/năm và mức tăng tuyệt đối
mỗi năm là 0,37 triệu VND trên một lao động làm việc. Khi năng suất lao
động thấp và tăng chậm, thì chẳng những tác động không tốt tới tăng trưởng
GDP mà còn chứng tỏ giá trị thặng dư tạo ra thấp, ảnh hưởng đến tích lũy tái
đầu tư để tái sản xuất mở rộng cũng như nâng cao mức sống.
Năng lực sản xuất của vốn đầu tư cũng đang giảm thấp đến mức báo động
với chỉ số ICOR tăng mạnh trong giai đoạn 1991-2009 và thể hiện tính chu kỳ
rõ rệt cùng với tăng trưởng GDP. Nếu như năm 1991, hệ số ICOR tính được là
2,9 (nghĩa là đầu tư gần 3 đồng thì GDP tăng lên 1 đồng), thì năm 2008, hệ số
này là 6,66. Thậm chí, theo tính toán của ủy ban Tài chính và ngân sách của
Quốc hội, hệ số ICOR năm 2010 có thể lên tới 8 (VnEconomy 2010). Đây là
tín hiệu cảnh báo cho hiệu quả đầu tư sụt giảm nghiêm trọng. Trong vòng 17
năm (1991-2008), hệ số ICOR tăng 2,3 lần. Ngay cả mức phổ biến từ 4-5,3
trong giai đoạn 2000-2007 cũng cao hơn nhiều so với khuyến cáo của các định
chế tài chính có uy tín như Ngân hàng Thế giới: Đối với một nước đang phát
triển, ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo
hướng bền vững. So sánh với các nước trong khu vực, ICOR của Việt Nam
gần gấp đôi, có nghĩa là hiệu suất đầu tư của nước ta chỉ bằng một nửa. Điều
đáng nói ở khu vực đầu tư công, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, thành
phần chủ đạo của nền kinh tế, thì hệ số ICOR lại cao vọt. Nếu hệ số ICOR
chung của nền kinh tế năm 2010 là 8, thì ICOR của khu vực kinh tế Nhà nước
lên tới 12.
Năng suất lao động gia tăng chậm chạp trong khi hiệu quả đầu tư giảm sút
trong giai đoạn 1991-2005 đã cho chúng ta một cái nhìn khá rõ về chất
lượng tăng trưởng dưới góc độ hiệu quả kinh tế. Bên cạnh đó, kết quả phân
tích mức độ đóng góp của các yếu tố vốn, lao động và năng suất tổng hợp
đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam cho thấy, mặc dù chất lượng
tăng trưởng phần nào được cải thiện thể hiện qua sự tăng lên của năng suất
các yếu tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng GDP hàng năm (từ 14,28% thời
kỳ 1992-1997 lên 22,6% thời kỳ 1998-2002 và 28,2% giai đoạn 2003 đến
nay), tuy nhiên, tăng trưởng do yếu tố vốn chiếm tới 52,73% và yếu tố lao
động chiếm 19,07%; tức cả hai yếu tố này còn chiếm gần 3/4 tổng cả ba yếu
tố tác động đến tăng trưởng (Nguyễn Ngọc Sơn, 2008). So sánh với các
nước trong khu vực thì tỷ lệ đóng góp của TFP vào tăng trưởng hàng năm
của Việt Nam còn thấp hơn nhiều, tỷ lệ này của Thái Lan là 35%, của
Philippin là 41%, của Indonesia là 43%. Rõ ràng tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam nghiêng nhiều về số lượng hơn là chất lượng, nghiêng về chiều
rộng hơn là chiều sâu. Ngay cả trong tăng trưởng chiều rộng thì sự tăng
trưởng của nước ta cũng nghiêng nhiều về yếu tố vốn hơn là yếu tố lao động
(tỷ trọng đóng góp của vốn cao gấp 3 lần tỷ trọng đóng góp của yếu tố lao
động). Trong khi đó, vốn là yếu tố mà nước ta còn thiếu, còn lao động là yếu
tố mà nước ta rất dồi dào. Kéo dài tình trạng này, tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam sẽ không bền vững, chất lượng tăng trưởng không được cải thiện,
cuối cùng sẽ kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tỷ lệ chi phí trung gian trong tổng giá trị sản xuất, nếu từ năm 1999 trở về
trước còn ở dưới mức 48%, thì năm 2000 trở lại đây đã vượt qua mốc 55%.
Bình quân trong thời kỳ 1991-2008, trong nhóm ngành nông - lâm nghiệp -
thuỷ sản, nếu giá trị sản xuất tăng trên 6,1% thì giá trị gia tăng chỉ đạt
khoảng 4,2%, tức là thấp chỉ bằng 2/3; trong ngành công nghiệp, nếu giá trị
sản xuất tăng 24,5% thì giá trị tăng thêm chỉ tăng 14,9%. Điều đó chứng tỏ
tỷ lệ chi phí trung gian đã tăng lên
2 , Tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
a. Những thành tựu:
Bảng: cơ cấu GDP và cơ cấu vốn đầu tư theo ngành (%)
Cơ cấu GDP Cơ cấu vốn đầu tư
1995 2000 2005 2008 1995 2000 2005 2008
Nền kinh tế 100 100 100 100 100 100 100 100
Khu vực I 27.2 24.5 21.0 22.1 13.3 13.8 7.5 8.4
NN và LNghiệp 23.0 19.8 15.8 18.1 12.5 11.4 5.9 4.8
Thủy sản 2.9 3.4 3.9 4.0 0.7 2.5 1.7 1.6
Khu vực II 28.8 36.7 41.0 39.7 34.1 39.2 42.6 40.6
Khai thác mỏ 4.8 9.6 10.6 8.9 5.0 6.3 7.8 8.3
CN chế biến 15.0 18.6 20.6 21.1 17.1 19.3 19.9 17.7
SX và pp điện 2.1 3.2 3.4 3.2 9.2 11.2 11.0 10.5
Xây dựng 6.9 5.4 6.3 6.5 2.8 2.4 3.8 4.1
Khu vực III 44.1 38.7 38.0 38.2 52.7 46.9 49.9 53.0
Thương mại 16.4 14.2 13.6 13.9 1.2 2.0 5.4 4.6
KS nhà hàng 3.8 3.2 3.5 4.4 5.3 2.9 1.9 1.9
Vận tải,tt liên lạc 4.0 3.9 4.4 4.5 15.7 13.2 14.1 14.7
Tài chính tín dụng 2.0 1.8 1.8 1.8 0.1 0.9 0.6 1.2
KH và công nghệ 0.6 0.5 0.6 0.6 0.3 1.2 0.4 0.6
Tài sản và tư vấn 5.4 4.3 4.0 3.6 3.0 2.7 1.7 5.8
Quản lý NN 3.6 2.7 2.7 2.8 3.1 2.6 2.8 2.1
GD và đào tạo 3.6 3.4 3.2 2.6 2.5 4.0 2.9 2.7
Nguồn: NGTK. GDP và vốn đầu tư được tính theo giá hiện hành
Cơ cấu GDP theo thành phần Cơ cấu vốn đầu tư theo thành phần
1995 2000 2005 2008 1995 2000 2005 2008
Nền kinh tế 100 100 100 100 100 100 100 100
KT nhà nước 40.2 38.5 38.4 34.4 42.0 59.1 47.1 28.6
KT ngoài NN 53.5 48.2 45.6 47.0 27.6 22.9 38.0 40.4
KT có FDI 6.3 13.3 16.0 18.7 30.4 18.0 14.9 31.5
Cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế cho thấy bức tranh phân bổ nguồn lực
giữa các tác nhân tham gia quá trình đầu tư. Thành phần kinh tế nhà nước
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư, lúc cao nhất lên đến 59% năm
2000, năm 2008 là 37%.
Các số liệu trên cho thấy hiệu quả vốn đầu tư ở thành phần kinh tế này là
thấp, càng gia tăng đầu tư vào đây thì hiệu quả càng giảm
Về cơ cấu vùng kinh tế
Trong những năm vừa qua cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng,
đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế. Trên bình diện quốc gia, đã hình
thành 6 vùng kinh tế: vùng trung du miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng
sông Hồng, vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung, vùng Tây
Nguyên, vùng Đông Nam bộ và vùng đồng bằng sôn g Cửu Long. Trong đó,
có 3 vùng kinh tế trọng điểm là vùng động lực cho tăng trưởng kinh tế cả
nước.
Các địa phương cũng đẩy mạnh việc phát triển sản xuất trên cơ sở xây
dựng các khu công nghiệp tập trung, hình thành các vùng chuyên canh cho
sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến, nuôi trồng thuỷ sản, hình thành
các vùng sản xuất hàng hoá trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội
của từng vùng. Điều này tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp chế biến,
góp phần tạo nên xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ
trọng sản xuất hàng hoá, hướng về xuất khẩu.
Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội nhập
vào kinh tế toàn cầu, thể hiện ở tỷ lệ xuất khẩu/GDP (XK/GDP) ngày càng
tăng, nghĩa là hệ số mở cửa ngày càng lớn, từ 34,7% năm 1992 lên 47% năm
2001, và đến năm 2005 là trên 50%. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 2001
– 2005 đã đạt 111 tỉ USD, tăng bình quân 17,5%/năm (kế hoạch là
16%/năm), khiến cho năm 2005, bình quân kim ngạch xuất khẩu/người đã
đạt 390 USD/năm, gấp đôi năm 2000. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu tiếp
tục đạt mức cao – 40 tỉ USD, tăng 24% so với năm 2005; năm 2007 đạt gần
50 tỉ USD, tăng 21,5% so với năm 2006; năm 2008 tăng 29,5% so với năm
2007, đưa tỷ lệ XK/GDP đạt khoảng 70%.
Nhiều sản phẩm của Việt Nam như gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải
sản… đã có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Các hoạt động kinh
tế đối ngoại khác như đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) và viện trợ phát
triển chính thức (ODA) cũng đều tăng trưởng khả quan, đặc biệt là vốn FDI
đã có bước phát triển tích cực, tăng mạnh từ năm 2004 đến nay. Năm 2001,
vốn FDI vào Việt Nam là 3,2 tỉ USD; tiếp theo, năm 2002: 3,0 tỉ USD;
2003: 3,2 tỉ USD; 2004: 4,5 tỉ USD; 2005: 6,8 tỉ USD; 2006: 10,2 tỉ USD;
và năm 2007 vừa qua đã là năm thứ hai nước ta liên tục nhận được các
nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) đạt con số kỷ lục: 20,3 tỉ
USD, tăng gấp đôi so với năm 2006, bằng tổng mức thu hút FDI của cả giai
đoạn 5 năm 2001-2005, chiếm 1/4 tổng vốn FDI vào Việt Nam trong suốt
hơn 20 năm vừa qua.
Năm 2008, tuy kinh tế toàn cầu có nhiều khó khăn lớn trong xu thế suy
thoái, song đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký tại Việt Nam đạt 64,011 tỉ
USD, tăng gấp đôi năm 2007. Tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho
Việt Nam năm 2008 diễn ra đầu tháng 12, tại Hà Nội, tổng cam kết từ các
nhà tài trợ lên tới 5,014 tỉ USD (thấp hơn 1 chút so với năm 2007: 5,4 tỉ
USD). Giải ngân vốn ODA được 2,2 tỉ USD, vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra và
cao hơn mức năm 2007 (2,176 tỉ USD).
Hoạt động đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài đã bước đầu được triển
khai. Các doanh nghiệp Việt Nam đã có một số dự án đầu tư ra nước ngoài
như khai thác dầu ở An-giê-ri, Xin-ga-po, Vê-nê-du-ê-la; trồng cao su ở
Lào…
Kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế sau hơn 20 năm đổi mới là một trong
những nguyên nhân quan trọng và cơ bản nhất đưa đến các kết quả, thành
tựu tăng trưởng kinh tế khả quan, tạo ra những tiền đề vật chất trực tiếp để
chúng ta giữ được các cân đối vĩ mô của nền kinh tế như thu chi ngân sách,
vốn tích luỹ, cán cân thanh toán quốc tế…, góp phần bảo đảm ổn định và
phát triển kinh tế – xã hội theo hướng bền vững. Các chương trình mục tiêu
quốc gia về xoá đói giảm nghèo, chương trình về đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế – xã hội cho các vùng khó khăn, các chương trình tín dụng cho
người nghèo và chính sách hỗ trợ trực tiếp đã mang lại kết quả rõ rệt. Tỷ lệ
hộ nghèo đã giảm từ 17,2% năm 2006 xuống còn 14,7% năm 2007, và năm
2008 còn 13,1%. Chỉ số phát triển con người (HDI) đã không ngừng tăng,
được lên hạng 4 bậc, từ thứ 109 lên 105 trong tổng số 177 nước
b . Những hạn chế
Những thành tựu về tăng trưởng kinh tế của nước ta trong những thập kỷ qua
là khá ấn tượng, cả trong so sánh với giai đoạn trước đổi mới lẫn trong so
sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, nếu xét về quan
hệ với biến động cơ cấu kinh tế của các khu vực, các ngành, nhóm ngành, có
thể thấy quá trình tái cơ cấu kinh tế đang diễn ra chậm chạp. Nếu xét theo
quan hệ với các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh, thì chất
lượng tăng trưởng càng bộc lộ nhiều hạn chế, thể hiện ở hệ số ICOR cao và
tỷ suất lợi nhuận thấp đến mức đáng lo ngại. Những dấu hiệu này cho thấy
nền kinh tế đang vận hành với hiệu quả thấp, sức cạnh tranh yếu.
Tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đều đi kèm với những
thay đổi trong cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ba nhóm ngành nông nghiệp
(bao gồm nông- lâm nghiệp và thuỷ sản), công nghiệp (bao gồm công
nghiệp và xây dựng) và dịch vụ. Cơ cấu kinh tế của nước ta trong thời gian
qua đã có sự chuyển dịch tích cực (mặc dù chưa rõ nét): tỷ trọng nông- lâm-
thuỷ sản trong GDP đã giảm đều đặn (từ 40,5% xuống 22,09% trong thời kỳ
1991-2008) và tỷ trọng công nghiệp- xây dựng tăng lên tương ứng (từ 23,8%
tăng lên 39,73% trong cùng thời kỳ). Trong khi đó, khu vực dịch vụ sau một
thời gian dài chững lại (1995-2004) và tăng chậm hơn nhịp độ tăng trưởng
chung của GDP, hiện nay đã trở lại tốc độ tăng trưởng khá.
3. Tác động của đầu tư đối với phát triển khoa học - công nghệ:
Khoa học - công nghệ thể hiện vai trò vô cùng quan trọng đối với tăng trưởng
và phát triển kinh tế. Vì vậy mà trong những năm vừa qua, Việt Nam đã rất chú
trọng đến vấn đề phát triển năng lực công nghệ nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế đồng thời nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh. Ngoài việc
tiếp tục phát triển các khu công nghệ cao sẵn có từ 2006 như: khu công nghệ cao
Hồ Chính Minh, khu công nghệ cao Láng Hòa Lạc…Thì trong năm 2009, nước
ta đề xuất và tiến hành xây dựng thêm một số khu công nghệ cao khác như: khu
công nghệ cao Đà Nẵng (1400ha), khu công nghệ cao sinh học Đồng Nai…Tuy
nhiên, nhận thức về đầu tư đổi mới công nghệ còn hạn chế, cơ chế chính sách cho
đầu tư đổi mới công nghệ chưa hoàn thiện và đồng bộ.
Việt Nam đặt tiêu chí đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Tuy nhiên hiện có trên 90% doanh nghiệp Việt Nam là vừa và nhỏ, khả năng
cạnh tranh trong khu vực và toàn cầu thấp chủ yếu do trình độ khoa học, công
nghệ thấp . Các chính sách của Việt Nam đầu tư cho phát triển khoa học công
nghệ cũng chưa thoả đáng . . Hiện mức đầu tư toàn xã hội cho KHCN còn
khoảng 0,7% GDP (thấp nhất thế giới). Còn theo số đầu tư trên đầu người thì chỉ
đạt đạt 5 USD/người. . Với nguồn kinh phí ít ỏi như trên, cộng với đầu tư dàn trải
ở nhiều nơi, nên chưa tập trung giải quyết những vấn đề công nghệ trọng điểm,
có ý nghĩa quyết định tạo ra các sản phẩm chiến lược cũng như ngành nghề mới.
Dưới đây là tình hình chuyển giao công nghệ ở Việt Nam giai đoạn 1990 – nay
Tình hình chuyển giao công nghệ ở Việt Nam giai đoạn 1990-nay
(Một số số liệu Hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được
Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt cấp đăng ký)
thực phẩm chiếm: 10,14%
- Hóa – Mỹ phẩm
- Công nghiệp chiếm: 50,93%
- Công nghiệp: 10,35%
- Điện – Điện tử - Bưu chính viễn thông: 13,45%
- Nông – Lâm – Ngư nghiệp: 3,51%
- Xây dựng – Vật liệu xây dựng: 4,10%
- Dịch vụ: 5,40%
- Khác: 2,12%
(Nguồn: Bộ Khoa học và Công nghệ)
4. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực nâng cao năng lực cạnh tranh
Vấn đề phát triển con người và phát triển nguồn nhân lực là một trong
những vấn đề được quan tâm nhiều nhất ở nước ta hiện nay. Đất nước đang
bước vào một giai đoạn phát triển mới với rất nhiều cơ hội và thách thức,
nhưng với thực trạng nguồn nhân lực, nếu không được đầu tư một cách hiệu
quả, rất có thể nền kinh tế của chúng ta sẽ trở nên lạc hậu so với thế giới
a. Chất lượng nguồn nhân lực và các vấn đề giáo dục và y tế
Sự phát triển toàn diện con người Việt Nam đã được khẳng định thông
qua sự gia tăng vững chắc của chỉ số HDI trong 15 năm qua, và trong báo
cáo về phát triển con người của Liên hợp quốc năm 2005, Việt Nam đã được
chú ý như một ví dụ thành công tiêu biểu cho nhóm nước đang phát triển cân
bằng phát triển kinh tế và phát triển con người. Tuy nhiên, thực tế cũng cho
thấy chất lượng giáo dục - đào tạo nói chung ở Việt Nam còn thấp, cơ cấu
còn bất hợp lý, chưa đáp ứng tốt nhu cầu đào tạo nhân lực, nhân tài. Điều
này không chỉ ảnh hưởng đến việc tăng cơ hội việc làm và thu nhập, mà còn
là yếu tố hạn chế sức cạnh tranh của nền kinh tế và việc nâng cao chất lượng
tăng trưởng.
Theo kết quả điều tra lao động và việc làm của Tổng cục Thống kê, năm
2007 số người được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng (có trình độ sơ cấp hoặc
có chứng chỉ hành nghề trở lên) chỉ chiếm 24%, rất thấp so với các nước
trong khu vực. Hơn thế nữa, cơ cấu đào tạo của lực lượng lao động còn
nhiều bất hợp lý, số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và công
nhân kỹ thuật còn quá thiếu so với yêu cầu. Đội ngũ lao động trí thức của
Việt Nam cũng yếu kém cả về số lượng và chất lượng so với khu vực và thế
giới, chưa đáp ứng được yêu cầu triển khai công nghệ mới theo những mục
tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống giáo dục -
đào tạo, nhưng chất lượng giáo dục - đào tạo của cả hệ thống giáo dục quốc
dân nói chung, vẫn là một vấn đề nhức nhối của cả đất nước trong nhiều
năm trở lại đây. Chi cho giáo dục bình quân đầu người ở Việt Nam hiện nay
cũng vào loại thấp nhất trong khu vực, và lại tập trung quá nhiều vào giáo
dục tiểu học, trong khi cần ưu tiên cho giáo dục đại học để nâng cao nguồn
lực con người, hỗ trợ cho nền kinh tế và đảm bảo tốc độ tăng trưởng trong
nước. Việc cải cách hệ thống giáo dục được xem như một khâu nền tảng của
một chiến lược phát triển nguồn nhân lực, chưa được triển khai một cách
hiệu quả.
Bên cạnh đó, trong lĩnh vực y tế, hiện vẫn còn một số khó khăn và đứng
trước nhiều thách thức. Tình trạng quá tải của các cơ sở khám chữa bệnh,
đặc biệt là ở các trung tâm, các thành phố lớn, ở các tuyến trên còn ở mức
rất cao và kéo dài. Việc chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo còn hạn chế,
chi phí cho y tế còn cao, quản lý nhà nước đối với một số lĩnh vực y tế còn
buông lỏng, dẫn đến thị trường thuốc chữa bệnh chưa được kiểm soát chặt
chẽ, an toàn thực phẩm còn thấp
b. Sức cạnh tranh của nền kinh tế
Năng lực cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước được chia thành ba
nhóm: (1) nhóm các sản phẩm có thế mạnh xuất khẩu, (2) nhóm các sản
phẩm có thể cạnh tranh trong tương lai, nhưng hiện vẫn cần được bảo hộ,
và (3) nhóm các sản phẩm không thể cạnh tranh quốc tế. Đối với nhóm thứ
nhất, năng lực cạnh tranh thể hiện ở chỉ tiêu tỷ lệ giá trị xuất khẩu trong giá
trị sản xuất của Việt Nam liên tục tăng trong các năm qua. Tuy nhiên, sự
chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu còn chậm, chưa có tính đột phá, các sản
phẩm trong nhóm có thế mạnh xuất khẩu chưa khẳng định sự vượt trội về
chất lượng và giá trị gia tăng cao. Nhiều mặt hàng kim ngạch tăng chủ yếu
dựa vào biến động giá của thị trường thế giới nên sự tăng trưởng này còn
mang tính bất ổn, thiếu bền vững. Bên cạnh đó, phần lớn các mặt hàng
trong nhóm thứ hai và thứ ba của Việt Nam đã được bảo hộ trong một thời
gian dài, tuy nhiên cho đến nay, những hàng hoá thuộc hai nhóm này vẫn
có chất lượng kém và giá thành cao, không thể cạnh tranh trên thị trường
trong nước chứ chưa nói đến khả năng xuất khẩu.
Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước được thể hiện rõ
nhất qua các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn sản xuất kinh doanh và tỷ
suất lợi nhuận trên doanh thu. Từ năm 2000 đến nay, nhìn chung, hai chỉ
tiêu trên của Việt Nam đều thấp, mặc dù có xu thế tăng trong các năm
2000-2004 (tỷ suất lợi nhuận trên vốn đạt 4,85% năm 2004), nhưng lại
giảm vào năm 2005 (4,42%). Nguyên nhân của tình trạng trên xuất phát từ
quy mô sản xuất kinh doanh nhìn chung vẫn là nhỏ và siêu nhỏ, đi kèm với
trình độ kỹ thuật công nghệ thấp: số doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2005
chiếm tới 96,81%; số doanh nghiệp có trang bị tài sản cố định dưới 5 tỷ
đồng chiếm 86%. Trong các thành phần kinh tế, tỷ suất lợi nhuận của khu
vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cao nhất và liên tục tăng (từ
9% năm 2000 lên 13% năm 2004). Đáng lo ngại là khu vực doanh nghiệp
ngoài nhà nước (chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ), với tỷ suất lợi nhuận
trên vốn giảm từ 2,3% năm 2001 xuống còn 1,6% năm 2004. Rõ ràng là các
doanh nghiệp càng nhỏ, trình độ công nghệ càng yếu, thì tỷ suất lợi nhuận
đạt được càng thấp. Khi so sánh tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, chúng ta
cũng có một kết luận tương tự. Tính chung tỷ suất lợi nhuận trên vốn và
trên doanh thu của các doanh nghiệp đầu tư trong nước đều thấp hơn tỷ lệ
lãi suất vay ngân hàng.
Với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của sản phẩm còn rất thấp,
năng lực cạnh tranh trên bình diện quốc gia của Việt Nam cũng không mấy
khả quan. Mặc dù ổn định kinh tế vĩ mô, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư cao trong
GDP, chính sách đối với FDI được cải thiện... là những yếu tố cơ bản tạo ra
tính cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế của Việt Nam, thế nhưng theo báo
cáo của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) về cạnh tranh toàn cầu, Việt Nam
luôn nằm ở nhóm nước có năng lực cạnh tranh thấp của thế giới, và năng lực
cạnh tranh của Việt Nam hầu như không được cải thiện theo thời gian, thậm
chí còn xấu đi: số nước tham gia xếp hạng càng tăng thì thứ hạng cạnh tranh
của Việt Nam càng bị tụt xuống. Tại nhiều tiêu chí trong bảng xếp hạng về
năng lực cạnh tranh của WEF, Việt Nam đứng cuối bảng. WEF cũng đánh
giá trong 15 vấn đề khó giải quyết nhất của Việt Nam và có ảnh hưởng trực
tiếp đến môi trường kinh doanh thì 3 vấn đề nghiêm trọng nhất là lạm phát,
sự yếu kém của cơ sở hạ tầng và sự thiếu hụt lao động được đào tạo. Ba vấn
đề trên được đánh giá có mức độ nghiêm trọng nhất, vượt trên cả vấn nạn
tham nhũng, chính sách không ổn định và căn bệnh thủ tục hành chính
5. Đầu tư gián tiếp giải quyết các vấn đề xã hội
a. Xoá đói giảm nghèo
Mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và IX
+ Cơ sở hạ tầng thiết yếu của các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn từng bước
được xây dựng, năm 2000 có khoảng 4.000 công trình được đưa vào sử
dụng, đến năm 2006 đã có trên 30.000 công trình được xây dựng và đưa vào
sử dụng đã làm cho bộ mặt của xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn được cải
thiện đáng kể nhất là trường học, trạm y tế, thuỷ lợi nhỏ, đường giao thông,
nước sạch và vệ sinh môi trường…
+ Chất lượng cuộc sống của người dân ở các xã nghèo đã được nâng lên một
bước, thu nhập bình quân của 20% nhóm nghèo nhất năm 2001 đạt 107.000
đồng/người/tháng và tăng 1,45 lần vào năm 2005. Với phương châm huy
động đa nguồn, qua các kênh, các hình thức huy động phong phú, từ năm
2001 đến 2005 tổng nguồn lực để thực hiện mục tiêu giảm nghèo đạt khoảng
41 nghìn tỷ đồng.
+ Chính phủ ban hành nhiều chính sách mới như: tín dụng đối với học sinh,
sinh viên nghèo; cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân tộc
thiểu số đặc biệt khó khăn; tín dụng đối với hộ gia đình sản xuất - kinh
doanh tại vùng khó khăn… Sau 2 năm thực hiện, đã có 2,866 triệu hộ nghèo
được vay vốn tín dụng ưu đãi; 1,330 triệu lượt người nghèo được hướng dẫn
cách làm ăn; 20 ngàn lao động nghèo được hỗ trợ dạy nghề miễn phí; 62
ngàn lượt cán bộ giảm nghèo các cấp được tập huấn nâng cao năng lực; 29
triệu lượt người nghèo được cấp thẻ BHYT; 2,4 triệu học sinh nghèo được
miễn giảm học phí; 230 ngàn hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở; nhiều mô hình
giảm nghèo ở các vùng đặc thù, mô hình giảm nghèo gắn với an sinh- quốc
phòng và mô hình liên kết với các doanh nghiệp được xây dựng có hiệu quả
và nhân rộng
Mặc dù Việt Nam đã hoàn thành sớm kế hoạch toàn cầu “giảm một nửa tỷ
lệ nghèo vào năm 2015” mà Liên hợp quốc đề ra, nhưng thành tựu xoá đói
giảm nghèo vẫn chưa vững chắc. Số hộ có mức thu nhập bình quân đầu
người nằm ngay cận trên của chuẩn nghèo còn khá nhiều và nguy cơ bị tổn
thương của các hộ này trước những đột biến bất lợi còn lớn và khả năng tái
nghèo còn cao. Điều này thể hiện ở việc nếu so với mức “chuẩn” cũ của Việt
Nam, năm 2008 người nghèo chiếm khoảng 13,5%; còn nếu theo chuẩn mới,
tỷ lệ người nghèo sẽ tăng lên 20%. Nhưng, nếu tính theo cách của thế giới
thì tỷ lệ này còn cao gấp 2-3 lần.
Điều dễ nhận thấy là người nghèo đang gặp nhiều hạn chế trong việc tiếp
cận và hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản. Khả năng tiếp cận các dịch vụ,
lợi ích của tăng trưởng và thành quả do sự phát triển mang lại cho mọi công
dân một cách khách quan và công bằng chưa cao. Chẳng hạn, trong lĩnh vực
y tế và giáo dục, báo cáo của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc về an
sinh xã hội cho biết nhóm 20% giàu nhất hưởng 45% các trợ cấp y tế, nhóm
20% nghèo nhất chỉ nhận được 7%; nhóm 20% giàu nhất hưởng 35% các trợ
cấp giáo dục, trong khi nhóm 20% nghèo nhất chỉ nhận có 15% (Trần Hải
Hạc, 2008). Bởi vậy, chỉ số đói nghèo HPI (tỷ lệ người sống dưới ngưỡng
các phương diện phát triển con người) của Việt Nam rất cao, xếp thứ 36/177
quốc gia trong năm 2008. Những người thiếu thốn nhất tại Việt Nam phải
chịu cảnh đói nghèo ở nhiều phương diện nhất.
Tỷ lệ hộ nghèo phân theo thành thị, nông thôn & phân theo vùng
Đơn vị: %
Năm 2004 2006 2007
Cả nước 18,1 15,5 14,8
Phân theo thành Thành thị 8,6 7,7 7,4
Thị - nông thôn Nông thôn 21,2 18 17,7
Đồng bằng sông Hồng 12,9 10,1 9,6
Đông Bắc 23,2 22,2 21,4
Tây Bắc 46,1 39,4 38,1
Phân theo vùng Duyên hải Nam Trung Bộ 21,3 17,2 16,3
Vùng lãnh thổ Tây Nguyên 29,2 24,0 23,0
Đông Nam Bộ 6,1 4,6 4,1
Đồng bằng sông Cửu Long 15,3 13 12,4
Năm 2008 là năm xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhưng do nền kinh tế Việt
Nam hội nhập chưa sâu nên mức độ ảnh hưởng đến nền kinh tế ít hơn so với các nước khác (
Mỹ, Trung Quốc...), tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam trong năm này có tăng mức nhẹ 4,7%
( thêm 0,06% so với năm 2007). Năm 2009, nền kinh tế có sự phục hồi lại đà tăng trưởng,
tổng mức vốn đầu tư là 704,2 nghìn tỉ đồng cùng sự xuất hiện của nhiều doanh nghiệp mới
đã giúp cho tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta giảm xuống 4,65%.
Tuy tỷ lệ thất nghiệp giai đoạn 2001-2009 giảm xuống rõ rệt (2001-2006) và ít
biến động (2007-2009) nhưng vẫn còn ở mức cao. Hiện nay, Việt Nam được xếp
vào hàng các quốc gia có dân số trẻ nên lực lượng lao động được bổ sung mỗi
năm với số lượng lớn khoảng 2% / năm dẫn đến tình trạng thị trường lao động
quá tải. Cơ cấu lao động chưa tương xứng với tăng trưởng, chưa có sự chuyển
dịch rõ rệt theo hướng tiến bộ
Chương III
Giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa đầu tư với tăng
trưởng và phát triển kinh tế
I/ Mục tiªu và quan điểm ph¸t triển kinh tế x· hội
năm 2011- 2015
1/ Môc tiªu ph¸t triÓn kinh tÕ ViÖt Nam giai ®o¹n 2011-
2015
Theo chỉ thị về việc x©y dựng kế hoạch ph¸t triển
kinh tế - x· hội 5 năm 2011 - 2015, mục tiªu tổng qu¸t là
ph¸t triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững,
tăng cường tiềm lực ph¸t triển của đất nước nh»m ®a ®Êt
níc c¬ b¶n trë thµnh níc c«ng nghiÖp hiÖn ®¹i vµo n¨m
2020.
Định hướng ph¸t triển, đồng thời nhiệm vụ chủ yếu
của kế hoạch là phấn đấu GDP b×nh qu©n 5 năm 2011-
2015 tăng 7-8% mỗi năm. Đồng thời, tỷ lệ hộ nghÌo theo
chuẩn mới b×nh qu©n giảm 2-3% mỗi năm. Trong c¸c
định hướng ph¸t triển và nhiệm vụ chủ yếu, c¸c định hướng
và nhiệm vụ sau đ©y được nªu ở hàng đầu: hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường, tạo m«i trường đầu tư kinh doanh
b×nh đẳng, minh bạch, ổn định... th¸o gỡ c¸c khã khăn
thóc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh ph¸t triển.
2/ Ph¬ng híng ®Çu t
§ầu tư phải kết hợp với tăng trưởng và ph¸t triển kinh
tế bền vững. Như vậy cần tăng khả năng tÝch luỹ của nền
kinh tế đồng thời tranh thủ thu hót c¸c nguồn vốn từ nước
ngoài để tạo thªm nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hoá hiện đại ho¸ đất nước, mặt kh¸c vẫn phải đảm
bảo mục tiªu cải thiện đời sống nh©n d©n, thực hiện c«ng
bằng x· hội, bảo vệ m«i trường sinh th¸i. Thực hiện đầu tư
hiệu quả, x©y dựng cơ cấu đầu tư hợp lý đầu tư cã trọng
điểm, tr¸nh l·ng phÝ, dàn trải nhất là nguồn vốn ng©n s¸ch
nhà nước
II/ Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư nhằm thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế
1.Công tác quy hoạch và bố trí kế hoạch đầu tư
Một là: Cần ban hành, thực thi và tiếp tục cải cách mạnh mẽ
hơn nữa hành chính theo cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết
thủ tục đầu tư. Xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề vướng mắc
trong quá trình cấp phép, điều chỉnh giấy chứng nhận.
Hai là: Công tác quy hoạch cần được đổi mới và nâng cao chất
lượng, trong xây dựng quy hoạch phải chú ý tới các tác động xã
hội và môi trường. Đặc biệt tập trung các nguồn lực để đầu tư nâng
cấp hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông, cảng biển, dịch vụ
viễn thông, cung cấp điện nước… nhằm tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho các nhà đầu tư trong quá trình tiến hành các hoạt động đầu
tư, kinh doanh tại Việt Nam….Để được như vậy cần đổi mới nội
dung, phương pháp xây dựng, quy trình xây dựng, triển khai thực
hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với
yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay; phát huy tối đa mọi lợi thế
so sánh và nguồn lực của quốc gia, của vùng và địa phương; gắn
kết giữa chiến lược, quy hoạch với kế hoạch.
Quy hoạch, kế hoạch phải khoa học, công khai, minh bạch, thực sự
là công cụ điều hành có hiệu quả của Nhà nước. Quy hoạch phát
triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội là quy hoạch có tính bắt buộc,
phải đi trước một bước và phải gắn với quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế xã hội nói chung, quy hoạch vùng, ngành hàng năm và
5 năm. Tăng cường công tác quy hoạch đất đai, quy hoạch xây
dựng, quy hoạch đô thị nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo và
mâu thuẫn giữa quy hoạch ngành và quy hoạch lãnh thổ. Công tác
quy hoạch phải được triển khai đồng bộ từ quy hoạch tổng thể đến
quy hoạch cụ thể, có thể tham khảo kinh nghiệm của những
chuyên gia giỏi, kể cả chuyên gia nước ngoài trong việc xây dựng,
thẩm định quy hoạch. Tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám
sát, tổ chức thực hiện kế hoạch. Công tác thống kê phải được
thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng, các số liệu thống kê
phải kịp thời đáp ứng tốt hơn cho việc xây dựng chính sách, điều
hành nền kinh tế.
Ba là: coi trọng và tăng cường hơn nữa công tác đào tạo nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của
các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp ĐTNN nói riêng. Nâng
cao hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ, tạo ra bước đột phá về
năng suất, chất lượng, hiệu quả; nâng cao nhận thức chấp hành
pháp luật về sở hữu trí tuệ; tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính
sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới.
Bốn là: tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư
phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển
ngành, địa phương; triển khai nhanh việc thành lập bộ phận xúc
tiến đầu tư tại một số địa bàn trọng điểm; xây dựng quy chế phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại
và xúc tiến du lịch các cấp, bao gồm cả trong nước lẫn đại hiện ở
nước ngoài nhằm tạo sự đồng bộ và phối hợp nâng cao hiệu quả
giữa các hoạt động này; kết hợp chặt chẽ các chuyến công tác của
lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước với các hoạt động xúc tiến đầu
tư-thương mại-du lịch.
2/Việc phẩn bổ nguồn vốn
a/ Vốn trong nước
a1.Vốn nhà nước
Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách cần tiếp tục tăng cường
tính công khai minh bạch, chống khép kín trong đầu tư. Không
triển khai tổ chức thực hiện những chương trình, dự án thiếu cơ sở
khoa học và thực tiễn hoặc tính khả thi và hiệu quả thấp. Loại bỏ
những dự án, chương trình không thể đáp ứng các yêu cầu và điều
kiện cần thiết về tài chính, mặt bằng, thị trường… Tất cả hoạt động
đầu tư có liên quan đến sử dụng vốn ngân sách nhà nước cần phải
được kiểm tra, giám sát.
Cần xây dựng chiến lược đầu tư hợp lý trên cơ sở xác định các lĩnh
vực cần ưu tiên đầu tư trong thời gian tới. VÝ dô trong khu vực
công nghiệp xây dựng dịch vụ thì đầu tư cho các dự án xây dựng
có tác động tầm quốc gia như công trình truyền tải điện về nông
thôn, hệ thống giao thông quốc gia và liên tỉnh, liên huyện, công
trình thông tin liên lạc phục vụ các vùng nông thôn...Hay ®ối với
khu vực nông lâm ngư nghiệp thì đầu tư vào hệ thống đê điều quan
trọng, hệ thống thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiêp
và chăn nuôi thuỷ sản như hồ chứa nước, kênh dẫn thoát nước hệ
trạm bơm, tưới tiêu.
Trước mắt, nhà nước cần ưu tiên đầu tư cho ngành giáo dục và y tế.
Đối với các loại hình dịch vụ xã hội khác huy động các nguồn vốn
khác ngoài ngân sách. Sau đó, về lâu dài nhà nước nên tăng ngân sách
đầu tư cho giáo dục, y tế một cách toàn diện nhằm thực hiện chiến lược
phát triển nguồn nhân lực phục vụ tăng trưởng kinh tế bền vững. Điều
chỉnh tăng đầu tư cho thiết bị, máy móc một cách đồng bộ, chất lượng,
hiện đại, thoả mãn các điều kiện về tiêu chuẩn chất lượng hiện hành.
Đây là yêu cầu cấp thiết nhằm thực hiện hiện đại hoá, công nghiệp hoá.
Nhà nước nên có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp
nghiên cứu triển khai. Chuyển dịch mạnh cơ cấu đầu tư theo hướng
khai thác mọi tiềm năng, đẩy nhanh tốc độ phát triển của khu vực
công nghiệp và dịch vụ. Các ngành công nghệ cao cần được ưu
tiên và quan tâm hàng đầu.
a2. Nguồn vốn từ tư nhân
Đây là một khoản vốn lớn có thể sử dụng vào đầu tư phát triển các
ngành kinh tế, trong tổng vốn đầu tư công hiện nay thì có đến 50%
là từ ngân sách Nhà nước, còn 50% là từ các nguồn vốn tín dụng,
các doanh nghiệp Nhà nước. Cần có kế hoạch cụ thể về phân bổ sử
dụng hợp lý nguồn vốn này tránh thất thoát, lãng phí; đầu tư phải
có trọng điểm, đầu tư vào các ngành mũi nhọn phù hợp với lợi thế
của từng vùng miền đồng thời cũng phải đầu tư đồng bộ, không để
lãng phí nguồn lực. Cần có những phương án hiệu quả hơn, hoặc
phải có cơ chế cụ thể trong phân cấp đầu tư và hình thành vốn cho
từng vùng, tránh tình trạng đua tranh giữa các địa phương, dẫn đến
giảm tính hiệu quả của đồng vốn. Cần có sự phối hợp giữa các địa
phương với nhau, giám sát hiệu quả sau đầu tư, tránh để việc đánh
giá kết thúc dự án chỉ là cho đủ giấy tờ để thanh toán thôi. Để sử
dụng vốn hiệu quả cần khắc phục các vấn đề trong quản lý, như:
nghiệp vụ, cơ chế, phối hợp, tổ chức quản lý, giải phóng mặt
bằng…
b. Nguồn vốn từ nước ngoài (gồm ODA và FDI)
Thứ nhất: cần sớm có quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội
đất nước dài hạn. Hiện nay, nhiều công trình sử dụng vốn ODA dỡ
bỏ hoặc chậm trễ thi công vì nhiều nguyên nhân, nhiều công trình
hoàn thành đưa vào sử dụng nhưng phát huy hiệu quả thấp vì đồng
bộ do chưa có quy hoạch...Do đó, cần phải có sự đổi mới mạnh mẽ
trong công tác xây dựng quy hoạch theo hướng tổng thể (trên phạm
vi toàn quốc gia) và dài hạn. Quy hoạch tổng thể sẽ là một định
hướng tốt cho công tác vận động vốn ODA và nâng cao hiệu qủa
sử dụng vốn FDI.
Thứ hai: cần có chiến lược thu hút và sử dụng ODA và FDI trong
từng giai đoạn một cách đồng bộ, hợp lý, gắn chặt với mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội của thời kỳ đó. Trong đó, chiến lược thu
hút và sử dụng các nguồn vốn ODA và FDI nên theo hướng:
- Vốn ODA và FDI nằm trong tổng thể nhu cầu vốn phát triển kinh
tế xã hội của đất nước.
- Xác lập được danh mục ưu tiên sử dụng vốn ODA và dự án kêu
gọi các nhà đầu tư nước ngoài theo ngành và vùng kinh tế.
- Đề xuất được định hướng thu hút vốn từ các đối tác quốc tế,
trong đó có xác định rõ đối tác chiến lược
- Đưa ra được các chính sách và giải pháp ưu tiên, khuyến khích
thu hút và sử dụng vốn như miến giảm thuế, ưu đãi giá thuê đất…
- Nêu rõ các biện pháp về quản lý và thực hiện trả nợ nước ngoài.
Thứ ba: tiếp tục ưu tiên sử dụng vốn ODA cho các lĩnh vực xây
dựng cơ sở hạ tầng, giáo dục, đào tạo và y tế. Tăng cường kiểm
soát quá trình sử dụng vốn, tránh thất thoát và thường xuyên đánh
giá tính hiệu quả xét cả về mặt kinh tế và xã hội của các dự án khi
hiệu quả sử dụng vốn ODA cao hơn so với các nguồn tài trợ khác.
Trong khâu đàm phán nên xác định rõ cơ quan chịu trách nhiệm
quản lý vốn vay và nguồn trả nợ.
Thứ tư: cần đề ra chính sách ưu đãi cụ thể và thiết thực hơn nhằm
khuyến khích các doanh nghiệp FDI thực hiện chiến lược hướng về
xuất khẩu nhằm tạo cơ sở vững chắc cho công tác trả nợ. Nhưng
không nên quy định cứng nhắc khiến cho các biện pháp ưu đãi có
tác động ngược chiều trở thành các rào cản đầu tư.
Thứ năm: cần có biện pháp thiết thực kêu gọi vốn ODA song
phương từ các nước có nhiều dự án FDI ở Việt Nam. Khi Việt
Nam thoát khỏi nhóm các nước nghèo và kém phát triển, vốn ODA
đa phương do các tổ chức tài chính quốc tế tài trợ sẽ giảm đi nhanh
chóng. Do đó, cần có định hướng vận động ODA song phương
ngay từ bây giờ, và nên hướng vào các nước có nhiều dự án FDI
hiện đang hoạt động tại Việt Nam. Cần có những giải pháp ưu đãi
cho các dự án FDI của các nước tài trợ nhiều vốn ODA cho Việt
Nam. Các chính sách này phải được sử dụng thật khéo léo, không
để xảy ra hiện tượng các nhà đầu tư quốc tế so bì về tính không
công bằng trong chính sách đối Chính phủ Việt Nam.
3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao năng suất
lao động
Cần tiếp tục mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo
dục đào tạo ở các cấp. Đặc biệt là đầu tư phát triển nguồn nhân lực
có trình độ khoa học công nghệ cao, xây dựng và tạo ra đội ngũ
cán bộ quản lý giỏi ở các cấp, các ngành cùng với đội ngũ công
nhân lành nghề. Bên cạnh đó, cũng cần phải chú trọng đến nguồn
nhân lực ở khu vực nông thôn. Tăng cường đầu tư phát triển nguồn
nhân lực ở khu vực này sẽ góp phần trong việc chuyển dịch cơ cấu
lao động theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động tay chân, tăng tỷ
trọng lao động có tay nghề, lao động được trang bị kiến thức, có
chất xám để làm việc. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ về y tế, môi
trường, phòng chống bệnh tât, bảo hiểm y tế để đảm bảo nguồn
nhân lực đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất xã hội. Đây là
một trong những giải pháp cần thiết để trực tiếp nâng cao năng suất
lao động và năng suất tổng hợp, từ đó góp phần nâng cao chất
lượng tăng trưởng.
4. Đổi mới và hoàn thiện chính sách đầu tư vào công nghệ nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh
Cần phải có chiến lược đầu tư đúng đắn theo hướng tăng cường
đầu tư theo chiều sâu để kịp thời áp dụng các thành tựu mới của
khoa học công nghệ hiện đại, nhằm phát triển các ngành, các lĩnh
vực và các sản phẩm có sức cạnh tranh và hiệu quả cao. Thực hiện
tốt đổi mới công nghệ sẽ quyết định đến nâng cao năng suất lao
động, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn
góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và trong cạnh tranh quốc tế thì
vần đề mở rộng và chiếm lĩnh thị phần sản phẩm, kể cả thị trường
nội địa phải được quan tâm. Công tác xúc tiến thương mại cần
được nâng lên một cấp độ mới và nó phải là một bộ phận quan
trọng trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt chú
trọng đến việc đầu tư và xây dựng thương hiệu. Đầu tư cho thương
hiệu có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để tăng sức cạnh tranh và gia
tăng lợi nhuận của sản phẩm.
Cần tập trung hơn vào khai thác và sử dụng triệt để các nguồn
lực của nhà nước trong các chương trình khoa học công nghệ, tránh
dàn trải vốn cho những chương trình chưa gắn với đòi hỏi thiết thực
của cuộc sống. Nhà nước cần có cơ chế đánh giá và khuyến khích đúng
đắn, thoả đáng cho các kết quả nghiên cứu và đóng góp thiết thực của
các cá nhân và tập thể; tăng cường công tác bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp và trí tuệ.
Khi lựa chọn công nghệ cần chú trọng đến tính phổ biến của
công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả công nghệ được chuyển giao.
Thực hiện nghiêm túc quy chế đấu thầu. Tăng cường sử dụng
các tổ chức tư vấn, giám sát độc lập trong quá trình thực hiện dự án đặc
biệt là các dự án lớn. Cần hoàn thiện chính sách thuế nhằm đảm bảo sự
bình đẳng cả về quyền hạn và nghĩa vụ thuế giữa các doanh nghiệp,
không phân biệt thành phần kinh tế để khuyến khích cạnh tranh lành
mạnh. Phải có sự quản lý ở tầm vĩ mô trong việc sử dụng các nguồn
lực như tài nguyên thiên nhiên. Cần có các quy định cụ thể về trách
nhiệm của các bộ, ngành, các cá nhân trong việc tham gia ý kiến về dự
án. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đầu tư trong phạm vi cả
nước. Bộ kế hoạch và đầu tư chịu trách nhiệm trước chính phủ thực
hiện quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư. Các bộ và cơ quan ngang
bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực
hiện quản lý nhà nước về đầu tư đối với lĩnh vực được phân công. Uỷ
ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về
đầu tư trên địa bàn theo phân cấp của Chính phủ.
5. Đổi mới công tác quản lý, kiểm tra, giám sát trong lĩnh vực
đầu tư
Cần quan tâm chỉ đạo công tác giám sát, đánh giá đầu tư, tiếp tục
kiện toàn bộ máy, chỉ đạo các cơ quan đơn vị trực thuộc thực hiện
các quy định về giám sát đầu tư.
Tăng cường kiểm tra giám sát tài chính đối với tất cả các khâu của
quá trình đâu tư để giảm lãng phí, thất thoát và tham nhũng nhất là
đối với các dự án được thực hiện bằng nguồn vốn ngân sách nhà
nước. Cần phải thay đổi cơ bản cách thưc thực hiện kiểm tra giám
sát theo hướng tăng cường kiểm tra giám sát trước và từ xa đối với
các khâu của quá trình đầu tư nhất là khâu chuẩn bị và ra quyết
định về chủ trương đầu tư. Cần khuyến khích cơ chế tự giám sát,
gắn trách nhiệm của chủ đầu tư và tư vấn giám sát với chất lượng
của công trình.
Bên cạnh việc kiểm tra, giám sát cần phải xây dựng một số chế tài
đủ mạnh đối với chủ đầu tư, cơ quan cấp trên của chủ đầu tư khi
các đơn vị này thực hiện sai cơ chế phân bổ và sử dụng vốn đầu tư.
Cần một số hình thức khen thưởng vật chất đối vối các đơn vị thực
hiện tốt công tác triển khai thực hiện dự án đầu tư, quyết toán đối
với các dự án hoàn thành, đảm bảo chất lượng, đúng thời gian quy
định, phê bình các đơn vị không thực hiện nghiêm chỉnh quy chế
quản lý, sử dụng vốn đầu tư, thực hiện quyết toán vốn đầu tư
chậm.
Về công tác điều hành, cần có sự tham gia của các cơ quan quản
lý nhà nước về đầu tư như bộ kế hoạch & đầu tư, sở kế hoạch và
đầu tư cùng các ban ngành có liên quan khác. Các cơ quan quản lý
nhà nước về đầu tư cần rà soảt lại hệ thống văn bản từ khâu chuẩn
bị thực hiện đầu tư đến khâu tạm ứng, thanh toán và quyết toán đầu
tư nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư; tăng
cường công tác kiểm tra, thanh tra các bộ, ngành địa phương trong
việc chấp hành các quy định về quản lý đầu tư, phân bổ vốn đầu tư.
Cần nghiên cứu và sớm ban hành mức chi phí cho công tác giám
sát, đánh giá đầu tư để tạo điều kiện cho cán bộ và công ty tư vấn
thực hiện tốt nhiệm vụ này, trực tiếp nâng cao hiệu quả hoạt động
đầu tư, góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng.
KẾT LUẬN
Đầu tư có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Đầu tư tác động cả tổng cung và tổng cầu, do vậy việc điều hành chính sách cần
linh hoạt trong việc sử dụng các biện pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng. Đầu tư
tác động tới cả tốc độ và chất lượng tăng trưởng. Các nhà quản lí cần nhận thức
rõ vai trò của hệ số ICOR trong phân tích, dự báo tăng trưởng và đánh giá hiệu
quả đầu tư. Đầu tư còn tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chỉ có trên cơ sở
đầu tư đúng, trọng tâm, trọng điểm và đồng bộ, cơ cấu đầu tư hợp lý…mới làm
cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH. Ngoài ra, đầu tư còn tác
động tới sự phát triển của khoa học công nghệ. Không thể có công nghệ hiện đại,
phù hợp nếu không đầu tư tương ứng và hiệu quả.
Việc đổi mới cơ cấu đầu tư của nhà nước trong thời gian qua, đặc biệt là đầu từ
đầu những năm 2001 đến nay đã thu được những thành tựu quan trọng thể hiện rõ nhất
trong việc phát triển tăng trưởng của nền kinh tế và cơ cấu đầu tư của ngân sách nhà
nước đã tập trung vào cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội… cũng như đầu tư của khu vực tư
nhân trong nước, nước ngoài. Cơ chế quản lí đầu tư cũng có những đổi mới và đem lại
những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư vẫn còn nhiều hạn chế , tồn tại
chưa khắc phục được làm cho vốn đầu tư bị phân tán, dàn trải, thất thoat, hiệu quả đầu tư
chưa cao từ đó làm chậm tiến độ tăng trưởng và phát triển đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế đầu tư, NXB Đại học Kinh tế quốc dân 2007
2. Giáo trình kinh tế phát triển
3. Niên giám thống kê 2001 - 2009
4. Thời báo kinh tế Việt Nam
5. Báo đầu tư
6. http://vneconomy.vn
7. http://www.gso.gov.vn
8. http://www.mpi.gov.vn
9. http://vn.360plus.yahoo.com/Investment-NEU