Professional Documents
Culture Documents
1
Mục đích nghiên cứu
Thấy được thực trạng của thị trường chứng khoán Việt
Nam, vẫn đang là thị trường non yếu. Nhưng nó là nhân tố
quan trọng để thúc đẩy kinh tế Việt Nam đi lên hoà nhập với
xu hướng chung của Thế giới. Và từ đó tìm ra giải pháp
thích hợp cho thị trường chứng khoán nước ta.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận cơ bản
về thị trường chứng khoán, nghiên cứu thống kê, phân tích
số liệu, nắm bắt thông tin từ các phương tiện thông tin đại
chúng nhằm tìm ra những thành công và những thất bại của
thị trường chứng khoán Việt Nam.
Nội dung của đề tài môn học bao gồm:
Chương I: Lý luận chung về thị trường chứng khoán.
Chương II: Thực trạng của thị trường chứng khoán ở Việt
Nam
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động
của thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Vì sự hiểu biết và thời gian có hạn cho nên nội dung
đề tài của mình không tránh khỏi những sai xót. Do vậy, em
mong nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo của thầy cô và của bạn
bè để cho đề tài của em thêm hoàn thiện.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn
Hồng Minh thầy đã giúp em hoàn thành tốt đề tài này.
2
B – nội dung
Hiện nay, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về thị
trường chứng khoán:
3
vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể phân biệt,
tách rời nhau mà thống nhất phản ánh các quan hệ bên
trong và bên ngoài của thị trường tư bản.
Các quan điểm trên đều được khái quát trên những
cơ sở thực tiễn và trong điều kiện lịch sử nhất định.
4
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch
mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Chứng khoán được
hiểu là các loại giấy tờ có giá hay là bút toán ghi sổ, nó cho
phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản
của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu
cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ
theo tính chất sở hữu của chúng.
Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể
diễn ra ở thị trường sơ cấp hay thị trường thứ cấp, tại sở
giao dịch hay thị trường chứng khoán phi tập trung, ở thị
trường giao ngay hay thị trường có kỳ hạn. Các quan hệ
trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và
như vậy, thực chất đây là quá trình vận động của tư bản,
chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
5
Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường
tài chính. Vị trí của thị trường chứng khoán trong tổng thể
thị trường tài chính thể hiện:
- Thị trường chứng khoán là hình ảnh đặc trưng của thị
trường vốn
TT Tiền tệ Thị
trường
Vốn
TTCK
Như vậy, trên TTCK giao dịch 2 loại công cụ tài chính:
công cụ tài chính trên thị trường vốn và công cụ tài chính
trên thị trường tiền tệ.
- Thị trường chứng khoán là hạt nhân trung tâm của thị
trường tài chính, nơi diễn ra quá trình phát hành, mua
bán các công cụ Nợ và công cụ Vốn (các công cụ sở
hữu).
TT Nợ TT vốn
cổ phần
TT Trái TT cổ
Phiếu
Phiếu 6
2.2. Cấu trúc của thị trường chứng khoán
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, cấu trúc của thị
trường chứng khoán có thể phân chia theo nhiều tiêu thức
khác nhau. Tuy nhiên, thông thường, ta có thể xem xét 3
cách thức cơ bản là phân loại theo hàng hoá, phân loại theo
hình thức tổ chức thị trường và phân loại theo quá trình luân
chuyển vốn. Các phân tích sau đây sẽ thể hiện từng cách
thức phân loại đó.
Theo các loại hàng hoá được mua bán trên thị trường,
người ta có thể phân chia thị trường chứng khoán thành thị
trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường dẫn
suất.
7
Khác với thị trường nợ, thị trường cổ phiếu là nơi giao
dịch mua bán, trao đổi các giấy tờ có xác nhận cổ phần
đóng góp của cổ đông. Cổ đông là chủ sở hữu của công ty
và phải chịu trách nhiệm trong phần đóng góp của mình. Cổ
phiếu sẽ cho phép họ có quyền yêu cầu đối với lợi nhuận
sau thuế của công ty cũng như đối với tài sản của công ty,
khi tài sản này được đem bán. Cổ phiếu có thời gian đáo
hạn là không xác định.
8
Thị trường thứ cấp hay thị trường cấp II là thị trường
giao dịch mua bán, trao đổi những chứng khoán đã được
phát hành nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư
hay di chuyển tài sản xã hội.
Thứ nhất, thị trường thứ cấp làm tăng tính lỏng của
các chứng khoán đã phát hành. Việc này làm tăng tính ưa
chuộng của chứng khoán và làm giảm rủi ro cho các nhà
đầu tư. Các nhà đầu tư sẽ dễ dàng hơn trong việc sàng lọc,
lựa chọn, thay đổi kết cấu danh mục đầu tư, trên cơ sở đó
làm giảm chi phí cho các nhà phát hành trong việc huy
động và sử dụng vốn. Việc tăng tính lỏng của tài sản sẽ tạo
điều kiện tách biệt giữa sở hữu và quản lý, làm cơ sở cho
việc tăng hiệu quả quản lý của doanh nghiệp.
Việc tăng tính lỏng cho các chứng khoán tạo điều kiện
cho việc chuyển đổi thời hạn của vốn, từ vốn ngắn hạn
sang trung hạn và dài hạn. Đồng thời, tạo điều kiện cho việc
phân phối một cách có hiệu quả. Sự di chuyển vốn đầu tư
trong nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế “bàn tay
vô hình”, cơ chế xác định giá chứng khoán và thông qua
hoạt động thâu tóm, sáp nhập doanh nghiệp trên thị trường
thứ cấp.
Thứ hai, thị trường thứ cấp xác định giá của chứng
khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường
thứ cấp được xem là thị trường định giá các công ty.
9
Thứ ba, thông qua việc định giá, thị trường thứ cấp
cung cấp một danh mục chi phí vốn tương ứng với các mức
độ rủi ro khác nhau của từng phương án đầu tư, tạo cơ sở
tham chiếu cho nhà phát hành cũng như các nhà đầu tư
trên thị trường sơ cấp. Thông qua cơ chế bàn tay vô hình,
vốn sẽ được chuyển đến công ty nào làm ăn có hiệu quả
nhất, qua đó làm tăng hiệu quả kinh tế xã hội.
10
biểu được biết đến là sở giao dịch chứng khoán Luân đôn,
Sở giao dịch chứng khoán Mỹ, Sở giao dịch chứng khoán
Pari
Cách thứ hai, khác với thị trường tập trung, thị
trường giao dịch qua quầy hay thị trường giao dịch phi tập
trung (OTC: Over- The- Counter Market) là thị trường giao
dịch của các nhà buôn, những người tạo thị trường( Market
Makers).
Ngoài hai thị trường nói trên, người ta còn nói đến thị
trường thứ ba, thị trường dành cho các chứngkhoán không
đủ tiêu chuẩn để giao dịch trên thị trường tập trung và thị
trường OTC. Ngoài ra, người ta còn phân loại thị trường
chứng khoán thành thị trường mở và thị trường đàm phán,
thị trường giao ngay và thị trường kỳ hạn. Việc phân loại thị
trường chứng khoán sẽ giúp việc phân tích cụ thể hơn vai
trò của thị trường chứng khoán.
11
số tổ chức khác như: Quỹ đầu tư, tổ chức tài chính trung
gian...
12
- Các nhà đầu tư có tổ chức
13
Cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán
có thể có những tên gọi khác nhau, tuỳ thuộc từng nước và
nó được thành lập để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước
đối với thị trường chứng khoán.
- Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên
cơ sở các quy định pháp luật về chứng khoán hiện hành.
14
- Tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong
ngành chứng khoán.
15
Hệ số tín nhiệm có thể biểu hiện bằng các chữ cái hay
chữ số, tuỳ theo quy định của từng công ty xếp hạng.
Thứ nhất, thị trường chứng khoán, với việc tạo ra các
công cụ tài chính có tính thanh khoản cao, có thể tích tụ,
tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế.
16
được cập nhật và được chuyển tải tởi tất cả các nhà đầu
tư, nhờ đó, họ có thể phân tích và định giá cho các chứng
khoán. Chỉ những công ty có hiệu quả và bền vững mới có
thể nhận được vốn với chi phí rẻ trên thị trường.
Việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán có thể
làm tăng vốn tự có của các công ty và giúp họ tránh các
khoản vay có chi phí cao cũng như sự kiểm soát chặt chẽ
của các ngân hàng thương mại. TTCK khuyến khích sự cạnh
tranh của các công ty trên thị trường. Sự tồn tại của thị
trường chứng khoán cũng là yếu tố quyết định để thu hút
vốn đầu tư nước ngoài. Đây chính là các yếu tố đảm bảo
cho sự phân bố có hiệu quả các nguồn lực trong một quốc
gia cũng như trong phạm vi quốc tế.
Thứ hai, TTCK góp phần thực hiện tái phân phối
công bằng hơn, thông qua việc buộc các tập đoàn gia đình
trị phát hành chứng khoán ra công chúng, giải toả sự tập
trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn, song vẫn tập
trung vốn cho phát triển kinh tế. Việc tăng cường tầng lớp
trung lưu trong xã hội, tăng cường sự giám sát của xã hội
đối với quá trình phân phối đã giúp nhiều nước tiến xa hơn
tới một xã hội công bằng và dân chủ. Việc giải toả tập trung
17
quyền lực kinh tế cũng tạo điều kiện cạnh tranh công bằng
hơn, qua đó tạo hiệu quả và tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho
việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp. Khi quy
mô của doanh nghiệp tăng lên, môi trường kinh doanh trở
lên phức tạp hơn, nhu cầu về quản lý chuyên trách cũng
tăng theo. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc
tiết kiệm vốn và chất xám, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình
cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Cơ chế thông tin
hoàn hảo tạo khả năng giám sát chặt chẽ của thị trường
chứng khoán đã làm tác động của các tiêu cực trong quản
lý, tạo điều kiện kết hợp hài hoà giữa lợi ích của chủ sở hữu,
nhà quản lý và những người làm công.
Thứ tư, hiệu quả của quốc tế hoá thị trường chứng
khoán. Việc mở cửa của thị trường chứng khoán làm tăng
tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều này
cho phép các các công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ
hơn, tăng cường đầu tư nguồn tiết kiệm bên ngoài, đồng
tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và mở rộng các cơ
hội kinh doanh của các công ty trong nước.
18
máu vốn, hoặc sự thâu tóm của người nước ngoài trên thị
trường chứng khoán.
Ngoài những tác động tích cực trên đây, thị trường
chứng khoán cũng có những tác động tiêu cực nhất định.
Thị trường chứng khoán hoạt động trên cơ sở thông tin hoàn
hảo. Song ở các thị trường mới nổi, thông tin được chuyển
đổi tới các nhà đầu tư không đầy đủ và không giống nhau.
Việc quyết định giá cả, mua bán chứng khoán của các nhà
đầu tư không dựa trên cơ sở thông tin và xử lý thông tin.
Như vậy giá cả chứng khoán không phản ánh giá trị kinh tế
cơ bản của công ty và không trở thành cơ sở để phân phối
một cách có hiệu quả các nguồn lực .
Một số tiêu thức khác của thị trường chứng khoán như
hiện tượng đầu cơ, hiện tượng xung đột quyền lực làm thiệt
hại quyền lợi của các cổ đông thiểu số, việc mua bán nội
19
gián, thao túng thị trường làm nản lòng các nhà đầu tư và
như vậy, sẽ tác động tiêu cực tới tiết kiệm và đầu tư.
Nhiệm vụ của nhà quản lý thị trường là giảm thiểu các tiêu
cực của thị trường nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu
tư và đảm bảo tính hiệu quả của thị trường.
Như vậy, vai trò của thị trường chứng khoán thể hiện
trên nhiều khía cạnh khác nhau. Song vai trò tích cực hay
tiêu cực của thị trường chứng khoán có thực sự phát huy
hay hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia
thị trường và sự quản lý của nhà nước.
Tính thanh khoản( tính lỏng): Tính lỏng của tài sản là
khả năng chuyển tài sản đó thành tiền mặt. Khả năng này
cao hay thấp phụ thuộc vào khoảng thời gian và chi phí cần
20
thiết cho việc chuyển đổi và rủi ro của việc sút giá trị của
tài sản đó do việc chuyển đổi. Chứng khoán có tính lỏng cao
hơn so với các tài sản khác
Tính rủi ro: Chứng khoán là tài sản tài chính mà giá trị
của nó chịu tác động lớn của rủi ro, bao gồm rủi ro có hệ
thống và rủi ro không có hệ thống. Rủi ro có hệ thống hay
là rủi ro thị trường là loại rủi ro tác động tới toàn bộ hoặc
hầu hết các tài sản. Loại rủi ro này chịu tác động của các
điều kiện kinh tế chung như: lạm phát, sự thay đổi tỷ giá hối
đoái, lãi suất... Rủi ro không có hệ thống là loại rủi ro chỉ tác
động đến một tài sản hay một nhóm nhỏ các tài sản. Loại
rủi ro này thường liên quan tới điều kiện của nhà phát hành.
Tính sinh lợi: Chứng khoán là một tài sản tài chính mà
khi sở hữu nó, nhà đầu tư muốn nhận được một thu nhập
lớn hơn trong tương lai. Thu nhập này được bảo đảm bằng
lợi tức được phân chia hàng năm và việc tăng giá chứng
khoán trên thị trường. Khả năng sinh lợi bao giờ cũng quan
hệ chặt chẽ với rủi ro của tài sản, thể hiện nguyên lý – mức
độ chấp nhận rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng
lớn.
21
tờ có giá với lãi suất cố định bên trong có phiếu ghi lợi tức
(Coupon) – ghi rõ lãi suất hoặc lợi tức sẽ được hưởng.
Cách phân chia này tạo điều kiện cho người đầu tư
nhận biết dễ dàng các loại chứng khoán đang được lưu
thông và giúp họ lựa chọn cách thức đầu tư phù hợp.
Theo tính chất của chứng khoán, các loại chứng khoán
được phân thành: Chứng khoán vốn; chứng khoán nợ và
chứng khoán phái sinh.
22
ty cổ phần. Cổ phiếu là công cụ tài chính có thời hạn thanh
toán là vô hạn.
23
quyền mua trước cho phép người sở hữu những cổ phần
đang lưu hành được mua một số nhất định cổ phiếu trong
đợt phát hành mới của công ty, tại một mức giá xác định
thấp hơn mức giá chào bán ra công chúng trong một thời
hạn nhất định.
Hợp đồng quyền chọn là một hợp đồng cho phép người
nắm giữ được mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc được bán
(nếu là quyền chọn bán) một khối lượng hàng hoá cơ sở
24
nhất định tại một mức giá xác định trong một thời gian nhất
định.
Tuỳ theo loại thu nhập chứng khoán được chia thành
các loại sau:
25
Thứ hai là chứng khoán có thu nhập biến đổi
Hình thức hỗn hợp của chứng khoán vừa mang tính
chất của chứng khoán có thu nhập cố định, vừa mang tính
chất của chứng khoán có thu nhập biến đổi. Việc phát hành
loại chứng khoán này nhằm để thích ứng với nhu cầu đặc
biệt của thị trường vốn.
26
nghiệp cổ phần hoá là tổ chức được phép phát hành cả trái
phiếu và cổ phiếu.
Thứ hai: Phân loại theo đối tượng mua bán chứng
khoán
27
chúng cho một số lượng lớn các nhà đầu tư nhất định,
trong đó phải đảm bảo một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ.
Ngoài ra tổng khối lượng phát hành chứng khoán cũng phải
đạt một tỷ lệ theo quy định.
28
+ Chào bán sơ cấp (phân phối sơ cấp): là đợt phát
hành cổ phiếu bổ sung của công ty cho rộng rãi các công
chúng đầu tư.
Khi tham gia đấu giá nhà đầu tư thực hiện thông qua
các bước sau:
Bước 1: Nhà đầu tư tìm kiếm thông tin về đợt đấu giá:
công bố trên các website: www.ssc.gov.vn,
29
www.hastc.org.vn, www.vafi.org.vn,...; Bao gồm bản công
bố thông tin: tóm tắt tình hình hoạt động của doanh nghiệp,
và bản quy chế đấu giá: Quy định về thời gian đăng ký nộp
tiền đặt cọc, và thời gian bỏ giá.
Bước 2: Nhà đầu tư đến địa điểm tổ chức đấu giá: nộp
tiền đặt cọc, được nhận về phiếu đấu giá.
Bước 3: Đến buổi đấu giá nhà đầu tư bỏ phiếu đấu giá
vào hòm. Sau đó tổ chức đấu giá sẽ đóng hòm và mở phiếu
tham dự đấu giá, nhập từng lệnh của nhà đầu tư (theo mã
số) trên bảng điện tử. Giá đấu sẽ được tính từ cao xuống
thấp.
30
(Đấu giá không thành công) (Đấu giá thành công)
Khi tham gia đấu thầu nhà đầu tư thực hiện thông qua các
bước sau:
Bước 1: Tìm hiểu thông tin về đợt đấu thầu trái phiếu trên
các trang website: www.sse.gov.vn, www.hastc.org.vn,
www.vse.org.vn,...
Bước 2: Nộp tiền đặt cọc và nhận phiếu đấu thầu
Bước 3: Tham dự đấu thầu và bỏ thầu. Lãi suất bỏ thầu
thấp sẽ trúng giá, bỏ lãi suất cao sẽ không trúng giá. Các
bước tham dự đấu thầu được thể hiện thông qua hình sau:
Các bước tham gia đấu thầu trái phiếu
31
3.2. Thị trường thứ cấp
Các bước tham gia đầu tư trên thị trường niêm yết và đăng
ký giao dịch
Mở tài khoản tại các công
ty CK
Nghjên cứu hồ sơ các công ty trên
thị trường
Có thể tham khảo ý kiến
tư vấn
Bước 1: Các nhà đầu tư muốn mua bán chứng khoán trên
hai trung tâm này phải tuân thủ theo nguyên tắc trung
gian: Tức là phải tiến hành mở tài khoản tại các công ty
chứng khoán là thành viên của trung tâm giao dịch, thông
thường tất cả 14 công ty chứng khoán hiện đang hoạt động
trên thị trường đều là thành viên của hai trung tâm giao
dịch.
32
Bước 2: Nghiên cứu hồ sơ các công ty có trên thị trường để
đầu tư: Có thể qua các bản tin chứng khoán hàng ngày, qua
hồ sơ lưu trữ tại các công ty chứng khoán, hoặc qua các
trang thông tin mạng: www.vietstock.com.vn,
www.vse.org.vn, www.hastc.org.vn, www.sse.gov.vn,
www.vafi.org.vn,... Và các trang website của quỹ đầu tư
nước ngoài: www.mekongcapital.com.vn,
www.vinafund.com, www.dragoncapital.com,
www.pxpam.com,... Hoặc các trang website của công ty
niêm yết, hoặc đăng ký giao dịch.
Bước 4: Đặt lệnh mua, bán. Sau khi lệnh được đặt sẽ được
đưa vào để chờ khớp. Nếu lệnh khớp được thì sau thời gian
quy định nhà đầu tư sẽ có chứng khoán mua, hoặc tiền do
bán chứng khoán.
Cách thức tham gia đầu tư: Có thể mua trực tiếp giữa
các nhà đầu tư, hoặc qua các nhân viên môi giới. Sau đây
là các bước cụ thể:
33
Nhận cổ phiếu hoặc quyền mua theo
thoả thuận
Hiện tại, nhà nước cho phép mua bán cổ phiếu theo
hình thức này, nhằm nâng tính thanh khoản cho các cổ
phiếu, và đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá.
Cả người mua hoặc người muốn bán đều phải đặt cọc 10% cho
các môi giới.
Hiện nay, chưa có quy định nào áp dụng cho loại hình
mua bán như trên, song các môi giới để đảm bảo, thường
bắt nhà đầu tư muốn mua, hoặc bán phải đặt cọc, rồi sau
đó các môi giới sẽ đi tìm người mua bán khác, hoặc thông
qua các môi giới khác, và hưởng chênh lệch giá ở giữa.
34
1. Khái niệm , chức năng của sở giao dịch chứng
khoán
Việc thiết lập một thị trường giao dịch chứng khoán có
tổ chức, vận hành liên tục với các chứng khoán được chọn
lựa là một trong những chức năng quan trọng nhất của
SGDCK. Mặc dù hoạt động của SGDCK không mang lại vốn
trực tiếp cho tổ chức phát hành, nhưng thông qua SGDCK
các chứng khoán phát hành được giao dịch liên tục, làm
35
tăng tính thanh khoản và khả mại cho các chứng khoán.
Các tổ chức phát hành có thể phát hành tăng vốn qua thị
trường chứng khoán, các nhà đầu tư có thể dễ dàng mua
hoặc bán chứng khoán niêm yết một cách dễ dàng và
nhanh chóng.
Mặc dù thị trường chứng khoán các quốc gia trên thế
giới có thời điểm ra đời khác nhau, theo mô hình cổ điển
hay mô hình mới nổi và hình thức sở hữu khác nhau (cổ
phần, thành viên, nhà nước), nhưng SGDCK đều có cấu trúc
như sau:
p. kế P.
Phòn Phòn P. P.
P. toán công Văn
g g giá 36 n/c
giao kiểm nghệ phòn
thành niêm m phát
dịch tin g
viên yết sát triển
toán học
* Hội đồng quản trị
37
Quyết định của HĐQT có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt
động kinh doanh của các thành viên. Vì vậy, các đại diện
của các thành viên nên được bày tỏ các ý kiến của mình tại
HĐQT.
Hội đồng quản trị SGDCK ra các quyết nghị về các lĩnh
vực chính sau:
38
tư vấn, hỗ trợ cho HĐQT và ban giám đốc điều hành trên cơ
sở đưa ra các ý kiến đề xuất thuộc lĩnh vực của ban. Ngoài
ra, ở một số SGDCK còn thành lập một số ban đặc biệt để
giải quyết các vấn đề đặc biệt về quản lý, tư vấn hoặc xử
phạt. Tất cả hoặc một số thành viên của Ban là thành viên
HĐQT và nằm trong số các thành viên bên trong hoặc thành
viên bên ngoài SGDCK.
Thành viên được phân loại theo quyền của thành viên
đó là thành viên chính và thành viên đặc biệt. Trong đó
thành viên chính là thành viên thường tham gia ngay từ khi
mới thành lập SGDCK và được biểu quyết và được phân chia
tài sản của SGDCK. Còn thành viên đặc biệt là thành viên
mới gia nhập SGDCK sau này, nhằm giảm bớt gánh nặng về
tài chính cho các thành viên cũ và tăng quy mô hoạt động
của thị trường.
39
Đối với thị trường phát triển, ví dụ như tại SGDCK New
York, thành viên được phân chia làm nhiều loại dựa trên các
chức năng của mình, như thành viên là các chuyên gia thị
trường, nhà môi giới của công ty thành viên, nhà môi giới
độc lập, nhà tạo lập thị trường, và người giao dịch cạnh
tranh, các nhà môi giới trái phiếu.
+ Yêu cầu về tài chính: đáp ứng vốn góp cổ đông, vốn
điều lệ và tổng tài sản có thể được quy định như là các yêu
cầu tài chính bắt buộc đối với các thành viên SGDCK.
Thẩm định
HĐQT ra quyết
định
Kết nạp
4. Niêm yết chứng khoán
41
nhiệm và nghĩa vụ của tổ chức phát hành trong việc công
bố thông tin, đảm bảo tính trung thực, công khai và công
bằng.
- Giúp cho việc xác định giá chứng khoán được công
bằng trên thị trường đấu giá vì thông qua việc niêm yết
công khai, giá chứng khoán được hình thành dựa trên sự
tiếp xúc hiệu quả giữa cung và cầu chứng khoán.
* Vai trò của việc niêm yết chứng khoán đối với tổ
chức phát hành
- Thuận lợi:
+ Tác động đến công chúng: Niêm yết góp phần “tô
đẹp” thêm hình ảnh của công ty trong các nhà đầu tư, các
chủ nợ, người cung ứng,...
42
+ Nâng cao tính thanh khoản cho các chứng khoán:
Khi các chứng khoán được niêm yết, chúng có thể nâng cao
tính thanh khoản, mở rộng phạm vi chấp nhận làm vật thế
chấp và dễ dàng được sử dụng cho mục đích tài chính, thừa
kế và các mục đích khác.
+ Ưu đãi về thuế
- Hạn chế:
43
đặc điểm mà tôi vừa nêu trên là những nội dung căn bản
mà tôi muốn trình bày trong đề tài của mình.
44
nhà nước nhỏ, thua lỗ, DNNN tập trung hơn vào những lĩnh
vực then chốt; Việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà
nước thực hiện theo đúng tinh thần nghị quyết TW3. Nhìn
một các tổng thể và toàn diện các nhiệm vụ Trung ương đặt
ra, bao gồm sắp xếp,đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà
nước, đồng thời doanh nghiệp nhà nước phải nắm giữ những
lĩnh vực quan trọng trọng yếu của nền kinh tế.
45
Năm 2005 là năm đầu tiên thực hiện hình thức bán
đấu giá cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước thực hiện
cổ phần hoá qua các trung tâm giao dịch chứng khoán. Hai
trung tâm giao dịch chứng khoán là trung tâm giao dịch
chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và trung tâm giao dịch
chứng khoán Hà Nội trong năm 2005 đã thực hiện 243 đợt
đấu giá cổ phần, so với tổng số lượng cổ phần chào bán, và
số lượng cổ phần được bán như sau:
46
đồng (giá trị thặng dư của các đợt phát hành mà nhà đầu tư
đã trả cao hơn so với giá khởi điểm).
Bảng giá trị thặng dư của các đợt phát hành mà nhà
đầu tư đã trả cao hơn so với giá khởi điểm – năm 2005.
ĐV: Tỷ VNĐ
1 Tổng giá trị cổ phần ở mức giá khởi 3105
điểm
2 Tổng giá trị cổ phần bán được 4573,6
3 Thu lợi cho nhà nước 1468,6
(Nguồn: Tạp chí chứng khoán Việt Nam số 1 + 2 năm 2006).
47
Qua bảng số liệu này cho ta thấy: sự phản ánh sự
tham gia tích cực của các nhà đầu tư vào thị trường này. Và
kỳ vọng những con số lớn hơn trong các năm tới.
Qua đây cho chúng ta thấy việc bán đấu giá cổ phần
góp phần chính làm sôi động thị trường sơ cấp giúp cho thị
trường chứng khoán Việt Nam có thêm những bước tiến mới
trong lĩnh vực thị trường chứng khoán.
Thứ hai là tình hình các nhà đầu tư nước ngoài tham
gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
Mặc dù vậy, khoảng cách của Việt Nam với các nước
trong khu vực còn khá xa. Đặc biệt về độ lớn của thị trường
và số lượng chứng khoán niêm yết. Toàn bộ giá trị thị
trường với chứng khoán niêm yết hiện nay khoảng 5,3 tỷ
USD. Và với thói quen tích luỹ của người Việt Nam hiện
nay. Trên thực tế, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện
nay chủ yếu là sân chơi của các nhà đầu tư nhỏ lẻ, thiếu
kinh nghiệm phân tích, mua bán trên thị trường thường có
những biến động theo “cảm xúc” và những tin đồn. Số
lượng các công ty quản lý quỹ ở Việt Nam hiện nay còn ít vì
thủ tục gia nhập thị trường vốn Việt Nam khá phức tạp, đặc
biệt là khâu xin mã giao dịch.
48
Mặc dù vậy thì thị trường chứng khoán Việt Nam là
một điểm sáng để thu hút đầu tư nước ngoài. Điều đáng
mừng là chính phủ Việt Nam đã và đang có những chuyển
biến tích cực để thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp, như
việc đẩy mạnh việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước,
đưa các doanh nghiệp mạnh lên niêm yết.
Chúng ta có thể thấy rằng, việc tham gia của các nhà
đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam
chưa nhiều. Chúng ta cần cải thiện nhiều hơn nữa về môi
trường đầu tư cho hợp lý. Đặc biệt hơn cả là hệ thống thủ
tục pháp lý.
49
thuỷ điện Sơn La, đường biên giới, giáo dục đào tạo, các
công trình trọng điểm...
Bảng giá trị phát hành trái phiếu đã phát hành tính
đến năm 2005.
ĐV: Tỷ VNĐ
Trái phiếu CP Trái phiếu Trái phiếu DN
CQĐP
Tính đến 60.000 7.000 2.000
2005
Qua bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, trái phiếu là
một công cụ hữu hiệu để nhà nước sử dụng trong việc huy
động vốn trong nhân dân. Đối với Việt Nam thì trái phiếu
chính phủ là một công cụ an toàn tiện lợi mọi người dân
không ưa mạo hiểm thì có thể cho vay vốn của mình thông
qua hình thức này.
Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán năm
2006 có nhiều sự thay đổi.
Hoạt động đấu thầu trái phiếu chính phủ tai trung tâm
giao dịch chứng khoán theo thông tư 21/2004/TT-BTC ngày
24/3/2004 của bộ tài chính hướng dẫn việc đấu thầu trái
phiếu chính phủ, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, trái
phiếu chính quyền địa phương qua thị trường chứng khoán
giao dịch tập trung. Theo thông tư 21/BTC, trái phiếu đấu
thầu tại trung tâm giao dịch chứng khoán bao gồm: trái
phiếu kho bạc, trái phiếu công trình trung ương, trái phiếu
công trình địa phương, trái phiếu đầu tư, trái phiếu được
50
chính phủ bảo lãnh. Và các loại trái phiếu này sau khi đấu
thầu qua trung tâm giao dịch chứng khoán, được niêm yêt/
đăng ký giao dịch trên trung tâm giao dịch chứng khoán.
Song hành với việc đấu thầu trái phiếu chính phủ tại trung
tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, tính đên
ngày 30/6/2006, sau hơn một năm chính thức đi vào hoạt
động, trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã tổ chức
được 9 đợt đấu thầu trái phiếu, huy động được 1.115 tỷ
đồng. Tuy nhiên, với quyết định 2276/QĐ-BTC của bộ tài
chính ban hành ngày 20/6/2006 (Quyết định 2276/QĐ-BTC),
từ ngày 1/7/2006 hoạt động đấu thầu trái phiếu chính phủ
đã chính thức chuyển giao cho trung tâm giao dịch chứng
khoán Hà Nội đảm trách. Với mốc ngày 1/7 cho tới ngày
31/8, trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã tổ chức 5
đợt đấu thầu trái phiếu chính phủ thành công, huy động
được 1.385 tỷ đồng. Cụ thể, đợt 1 phát hành được 175 tỷ
đồng/200 tỷ đồng gọi thầu trái phiếu đô thị cho quỹđầu tư
phát triển đô thị thành phố Hồ Chí Minh (Hifu), bao gồm 100
tỷ đồng là loại cổ phiếu có kỳ hạn 5 năm và 75 tỷ đồng là
loại có kỳ hạn 10 năm; Đợt 2, huy động được 300 tỷ
đồng/300 tỷ đồng trái phiếu chính phủ kỳ hạn 5 năm gọi
thầu của kho bạc nhà nước, với mức lãi suất trúng thầu đạt
8,63%; Đợt 3, phát hành 500 tỷ đồng/500 tỷ đồng trái phiếu
chính phủ kỳ hạn 5 năm của kho bạc nhà nước phát hành,
với lãi suất 8,25%; Đợt 4, ngày 28/8 tổ chức đấu thầu 500 tỷ
đồng trái phiếu chính phủ do kho bạc nhà nước phát hành
có kỳ hạn 5 năm phát hành ngày 30/8/2006, với khối lượng
51
trái phiếu bán được là 200 tỷ đồng, lãi suất trúng thầu vẫn
là 8,25%; Và đợt 5, ngày 29/8/2006 tổ chức đấu thầu 260 tỷ
đồng trái phiếu đô thị do Quỹ Hifu phát hành, kết quả huy
động được 210 tỷ đồng. Trong đó, 110 tỷ đồng trái phiếu kỳ
hạn 10 năm lãi suất 9,25% và 100 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn
15 năm lãi suất 9,55%.
Chỉ nói riêng đến thị trường trái phiếu chính phủ. Tính
từ ngày 31/7/2006 đến ngày 11/9/2006, trung tâm giao dịch
chứng khoán Hà Nội đã tổ chức thành công 4 phiên đấu
thầu trái phiếu chính phủ. Tổng khối lượng trái phiếu gọi
thầu là 1.500 tỷ đồng. Tổng khối lượng trái phiếu đăng ký
tham gia đấu thầu là 4.183 tỷ đồng (gấp 2,87 lần khối lượng
gọi thầu). Kết quả khối lượng trái phiếu trúng thầu đạt
1.200 tỷ đồng. Tính đến ngày 11/9/2006, số trái phiếu phát
hành theo phương thức bảo lãnh phát hành của Kho bạc
nhà nước và Ngân hàng phát triển Việt Nam đăng ký giao
52
dịch trên trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội có 38
loại, với tổng giá trị đạt 7.027 tỷ đồng, trong đó có 8 loại
của kho bạc nhà nước (3.042 tỷ đồng) và có 30 loại của
ngân hàng phát triển Việt Nam (3.985 tỷ đồng).
53
thầu có xu hướng thấp xuống. Việc triển khai Quyết định
2276/BTC hơi chậm, nhưng trên thực tế kết quả thu được là
rất lớn và tạo ra nền tảng phát triển bền vững. Và việc tập
trung đấu thầu trái phiếu chính phủ về một nơi tạo tiền đề
cho việc tổ chức một thị trường thứ cấp hiệu quả hơn. Như
vậy chúng ta có thể nói rằng việc đấu thầu trái phiếu chính
phủ của chúng ta trong thời gian qua có nhiều bước tiến
lớn. Đây là thành tựu chúng ta đáng ghi nhận.
Việc phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc
tế. Năm 2005, được coi là năm thành công cho việc huy
động vốn đầu tư nước ngoài, cũng là năm đánh dấu một sự
kiện việc phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường
quốc tế thành công ngoài mong đợi.
Bảng số liệu về: Một vài thông số của đợt phát hành
trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế:
Qua bảng trên ta thấy lần đầu tiên chính phủ Việt Nam
phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế đã
thành công rực rỡ. Số lượng các nhà đầu tư quốc tế tham
gia mua trái phiếu đạt mức khá cao trên 255 nhà đầu tư.
54
Tổng số lượng nhu cầu các nhà đầu tư đặt mua lên tới 4,5 tỷ
USD, gấp 6 lần lượng trái phiếu chính phủ Việt Nam phát
hành. Tất cả các nhà đầu tư quan trọng, có uy tín lớn trên
thị trường tài chính thế giới từ Châu á, Châu Âu và Châu Mỹ
đều quan tâm tham gia đặt mua trái phiếu của chính phủ
Việt Nam với số lượng lớn.
Trong giai đoạn 2006- 2010, tổng công ty điện lực Việt
Nam (EVN) dự kiến tổng mức đầu tư trung bình mỗi năm là
55
50.000 tỷ đồng. “Để đáp ứng nhu cầu này, EVN đã báo cáo
thủ tướng chính phủ và các bộ, ngành đồng ý cho EVN được
huy động bằng nhiều phương thức, ngoài việc phát hành
trái phiếu trong nước, còn phát hành trái phiếu quốc tế.
EVN dự tính, trong giai đoạn 2006-2010, bình quân mỗi năm
phát hành 2.000 – 3.000 tỷ đồng trái phiếu trên thị trường
vốn trong nước và từ 300 triệu đến 500 triệu USD trên thị
trường vốn quốc tế”, một quan chức EVN cho biết. Cũng
theo vị quan chức này, ngay trong năm 2006, EVN đã đăng
ký với bộ tài chính phương án phát hành trái phiếu quốc tế
giá trị khoảng 500 triệu USD. Trưởng đoàn phát hành trái
phiếu quốc tế (TPQT) năm 2005, bà Lê Thị Băng Tâm khẳng
định, EVN, Petrovietnam... hay bất cứ tổng công ty nào có
nhu cầu phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế, Bộ
tài chính sẽ tạo điều kiện giúp đỡ. “Nhưng bộ tài chính sẽ
không đứng ra trả nợ lãi và gốc đến hạn thay cho doanh
nghiệp. Doanh nghiệp nào phát hành thì phải có trách
nhiệm trả nợ cho nhà đầu tư”, bà Tâm khẳng định.
56
Sau khi chứng khoán được phát hành ở thị trường sơ
cấp, thì các chứng khoán này trước hết được diễn ra mua
bán trên thị trường sơ cấp. Đây là lần đầu chứng khoán
được giao dịch do đó chúng ta gọi là thị trường sơ cấp.
Nhưng công việc mua bán chứng khoán không chỉ dừng lại
ở đây. Sau quá trình mua bán trao đổi lần thứ nhất thì
chứng khoán tiếp tục được chuyển đổi chủ sở hữu, gọi là lần
giao dịch thứ cấp hay còn gọi đây là thị trường thứ cấp.
Không có thị trường sơ cấp hay việc phát hành chứng
khoán ở thị trường sơ cấp thì không có thị trường thứ cấp.
Nhưng mặt khác, thị trường thứ cấp tạo tiền đề cho thị
trường sơ cấp phát triền mạnh và tạo điều kiện thuận lợi
cho việc phát hành chứng khoán ở thị trường thứ cấp lần
tiếp theo.
57
Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội mới đi vào
hoạt động được một năm, còn trung tâm giao dịch chứng
khoán thành phố Hồ Chí Minh đã hoạt động được sáu năm.
Nhà đầu tư tham gia vào thị trường niêm yết tại trung
tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh có thể
đầu tư vào 3 loại chứng khoán: Cổ phiếu, chứng chỉ quỹ và
trái phiếu.
58
cùng cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Và đặc biệt hơn nữa thị trường chứng khoán Việt Nam đang
được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm .
Bảng các loại cổ phiếu tham gia niêm yết ( Trung tâm
giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh):
59
Nam
7 BT6 Công ty cổ phần Bê tông 58.826.900.000
620 Châu Thới
8 BTC Công ty cổ phần cơ khí và 12.613.458.431
xây dựng Bình triệu
9 DHA Công ty cổ phần Hoá An 35.000.000.000
10 HAS Công ty cổ phần xây lắp 16.000.000.000
bưu điện Hà Nội
11 NHC Công ty cổ phần Gạch 13.360.610.000
ngói Nhị Hiệp
12 TYA Công ty cổ phần Dây và 182.676.270.000
Cáp điện Taya Việt Nam
13 PMS Công ty cổ phần cơ khí 32.000.000.000
xăng dầu
14 SFC Công ty cổ phần Nhiên 17.000.000.000
liệu Sài Gòn
15 BBC Công ty cổ phần bánh kẹo 56.000.000.000
Biên Hoà
16 CAN Công ty cổ phần đồ hộp 35.000.000.000
Hạ Long
17 KDC Công ty cổ phần Kinh Đô 250.000.000.000
18 LAF Công ty cổ phần chế biến 19.098.400.00
hàng xuất khẩu Long An 0
19 NKD Công ty cổ phần chế biến 50.000.000.000
thực phẩm Kinh Đô Miền
Bắc
20 SSC Công ty giống cây trồng 60.000.000.000
Miền Nam
21 TRI Công ty cổ phần nước giải 45.483.600.000
khát Sài Gòn
22 VNM Công ty cổ phần sữa Việt 1.590.000.000.000
Nam
23 SAV Công ty cổ phần hợp tác 45.000.000.000
60
kinh tế và Xuất Nhập
khẩu Savimex
24 SGH Công ty cổ phần khách 17.663.000.000
sạn Sài Gòn
25 BPC Công ty cổ phần Bao bì 38.000.000.000
Bỉm Sơn
26 HAP Công ty cổ phần giấy Hải 32.502.510.000
Phòng
27 DPC Công ty cổ phần Nhựa Đà 15.872.800.000
Nẵng
28 AGF Công ty cổ phần xuất 41.791.300.000
nhập khẩu thuỷ sản An
Giang
29 TS4 Công ty cổ phần thuỷ sản 15.000.000.000
số 4
30 SAM Công ty cổ phần cáp và 180.000.000.000
vật liệu Viễn Thông
31 VTC Công ty cổ phần Viễn 17.977.400.000
thông VTC
32 GMD Công ty cổ phần Đại lý 200.000.000.000
liên hiệp vận chuyển
33 HTV Công ty cổ phần vận tải 48.000.000.000
Hà tiên
34 MHC Công ty cổ phần Hàng Hải 120.000.000.000
Hà Nội
35 TMS Công ty cổ phần 33.000.000.000
Tránimax-Sài Gòn
Cơ cấu ngành nghề niêm yết trên trung tâm giao dịch
chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh được thể hiện qua
bảng sau:
61
(ĐV:%)
1 Hoá chất, nhựa 43
2 Vật liệu xây dựng 8,7
3 Năng lượng 1,34
4 Đồ ăn, uống 57,54
5 Đồ gia dụng 1,23
6 Thương mại 10,45
7 Giấy, bao bì 1,93
8 Viễn thông 5,41
9 Hải sản 1,55
10 Vận tải 10,96
11 Khách sạn, giải trí 0,46
( nguồn: www.bsc.com.vn)
Bảng dưới đây thể hiện bảng giá trị niêm yết theo ngành
nghề
62
đồng đều. Một điều tất yếu là thị trường chứng khoán có cơ
hội phát triển lớn nhất ở ngành dịch vụ và công nghiệp, còn
riêng lĩnh vực nông nghiệp thì thị trường chứng khoán quá
khó để thâm nhập vào. Vì ngành này ở nước ta còn qua lạc
hậu không đủ điều kiện để tham gia niêm yết trên thị
trường chứng khoán. Hay nói một cách khác, ngành nông
nghiệp của Việt Nam còn quá lạc hậu chưa cả được hiện đại
hoá bằng máy móc thiết bị.
2.5E+12
2E+12
gia tri
1.5E+12 stt
1E+12 gia tri
5E+11
0
11
1
stt
63
Biểu đồ này là một minh chứng cho sự mất cân đối
ngành nghề trên thị trường chứng khoán cũng như trong
nền kinh tế quốc dân.
Tình hình hoạt động của trung tâm giao dịch chứng
khoán Hà Nội do mới được hình thành hơn một năm nên mới
có 10 doanh nghiệp tham gia niêm yết chứng khoán, con
số này tuy nhỏ nhưng nó có thể nói nên rằng, mặc dù thị
trường này mới được thành lập chậm hơn so với thành phố
Hồ Chí Minh 5 năm thì con số này quả là một con số đáng
khích lệ.
64
Hải Âu
5 HSC Công ty cổ phần Hacinco 5.800.000.000
6 ILC Công cổ phần hợp tác lao 6.000.000.000
động nước ngoài
7 KHP Công ty cổ phần điện lực 152.522.600.000
Khánh Hoà
8 CID Tổng công ty cổ phần tái 343.000.000.000
bảo hiểm Quốc gia Việt
Nam
9 VSH Công ty cổ phần Thuỷ 1.225.000.000.000
điện Vĩnh Sơn Sông Hinh
10 VTL Công ty cổ phần Thăng 18.000.000.000
Long
( nguồn: website.hastc.org.vn)
Thứ ba: Tình hình hoạt động của niêm yết chứng
khoán tính đến 30/10/2006.
65
UBCK đã có thông báo lưu ý về tiến độ chuẩn bị hồ sơ đối
với cả doanh nghiệp và công ty chứng khoán tư vấn.
66
Theo tạp chí chứng khoán Việt Nam có thêm 4 doanh
nghiệp được niêm yết trên thị trường chứng khoán: Thứ
nhất là Công ty cổ phần Tấm lợp vật liệu xây dựng Đồng
Nai, giấy phép niêm yết số 60/UBCK-GPNY, cấp ngày
21/9/2006, có trụ sở đóng tại đường số 4, Khu công nghiệp
Biên Hoà 1, tỉnh Đồng Nai; Vốn điều lệ là 120.973.460.000
đồng; Tổng số lượng chứng khoán được niêm yết là
12.097.346 cổ phiếu phổ thông, mã chứng khoán DCT,
tương ứng với tổng giá trị niêm yết là 120,973 tỷ đồng;
ngày niêm yết có hiệu lực: 21/9/2006; ngày chính thức giao
dịch: 10/10/2006.
67
Thứ tư là Công ty cổ phần văn hoá Tân Bình (ALTA),
Giấy phép niêm yết cổ phiếu số 63/UBCK-GPNY, cấp ngày
5/10/2006, có trụ sở chính tại Khu công nghiệp Tân Bình,
phường Tây Thạnh, Quận Tân Phú, Tp. HCM; tổng số lượng
cổ phiếu được niêm yết là 1.334.700 cổ phiếu; tương ứng
tổng giá trị cổ phiếu niêm yết theo mệnh giá là 13,347 tỷ
đồng. Công ty có vốn điều lệ 13.3470.000.000 đồng.
Tóm lại tình hình niêm yết chứng khoán được thể hiện ở
bảng sau:
Stt Tên Doanh nghiệp Vốn điều lệ Tình trạng hồ
sơ
1 CTCP GAS Pẻrolimex 200 tỷ đã được cấp
đồng giấy phép niêm
yết
2 CTCP thực phẩm Sao Ta 60 tỷ đồng Chấp thuận
nguyên tắc
việc niêm yết
3 CTCP cơ khí - điện Lữ 10 tỷ đồng đang xem xét
Gia
4 CTCP đầu tư và thương 32 tỷ đồng đang xem xét
mại DIC
5 CTCP Dược phẩm - đang xem xét
lmexpharm
6 CTCP Cáp treo nú bà 15,98 tỷ đang xem xét
Tây Ninh đồng
7 CTCP Cảng rau quả 38,8 tỷ đang xem xét
đồng
8 CTCP khoan và dịch vụ 680 đang xem xét
dầu khí tỷđồng
9 CTCP bao bì nhựa Tân 106,55 tỷ đang xem xét
68
Tiến đồng
10 CTCP khu công nghiệp 500 tỷ Chấp thuận về
Tân Tạo đồng nguyên tắc
11 CTCP Bóng đèn phích 79,15 tỷ Chấp thuận về
nước Rạng Đông đồng nguyên tắc
12 CTCP Pin ắc quy Miền 102,63 tỷ đã đủ theo quy
nam đồng định
13 CTCP bao bì dầu thực 76 tỷ đồng đang xem xét
vật
14 CTCP Vận tải xăng dầu 351 tỷ đang xem xét
VIPCO đồng
15 CTCP Phát triển nhà Thủ - đang xem xét
Đức
16 CTCP Cát Lợi 84 tỷ đồng đã được cấp
phép niêm yết
17 CTCP Cảng Đoạn Xá 35 tỷ đồng đang xem xét
18 CTCP Lương thực thực 27 tỷ đồng đang xem xét
phẩm SAFOCO
19 CTCP Đại lý vận tải SAFI 11,38 đang xem xét
tỷđồng
20 CTCP VITALY 40 tỷ đồng đang xem xét
21 CTCP Gốm sứ công 50 tỷ đồng đang xem xét
nghiệp Taicera
22 CTCP cao su Đà Nẵng 92,47 tỷ đang xem xét
đồng
23 CTCP Cavico Khai thác 31 tỷ đồng đang xem xét
mỏ và xây dựng
24 CTCP XD&KD địa ốc Hoà 56,4 tỷ đang xem xét
Bình đồng
25 CTCP giống cây trồng 14,12 tỷ Chấp thuận
Trung ương đồng phát hành và
niêm yết
(nguồn: tạp chí Đầu tư chứng khoán số 43 năm 2006)
69
Qua bảng số liệu trên cho chúng ta thấy tình hình
niêm yết của thị trường chứng khoán năm 2006 không co
tiến triển về số lượng là mấy so với năm 2005. Mặc dù số
doanh nghiệp đăng ký tham gia niêm yết cũng tương đối
nhiều nhưng số doanh nghiệp được niêm yết thì lại rất ít.
Không như mong đợi của chung ta.
Sau đây là kết quả giao dịch của một số tháng gần
đây, những kết quả này muốn nói nên tính sối động của thị
trường chứng khoán trong những tháng gần đây.
Nhìn một cách tổng thể, tháng 7,8, và 9 năm 2006 thị
trường chứngkhoán Việt Nam nằm trong xu hướng tăng
trưởng, mặc dù diễn biến của các phiên giao dịch không
đồng đều, nhiều phiên tăng mạnh tới 40% khối lượng và giá
trị giao dịch so với phiên trước, nhưng cũng ngay sau đó lại
sụt giảm mạnh với khối lượng tương ứng. Tuy nhiên, quy mô
khớp lệnh của các phiên giao dịch có xu hướng tăng. Đến
5/9/2006 tổng số loại cổ phiếu và chứng chỉ quỹ giao dịch
trên thị trường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh lên 50
loại. Trong tháng 8 tổng cầu của toàn thị trường
là97.860.290 cổ phiếu, chứng chỉ quỹ; trong khi tổng cung
là92.222.120 cổ phiếu, chứng chỉ quỹ. Trong tháng 9 cung
cầu thị trường gần như ở vào thế cân bằng, ổn định cung:
82.732.430 cổ phiếu; cầu: 81.985.560 cổ phiếu. Kỷ lục khớp
lệnh của tháng 8 là 3,23 triệu cổ phiếu, trị giá 184 tỷ đồng
70
đã bị phá vỡ ngay trong phiên giao dịch đầu tiên của tháng
9 (phiên 6/9, với 3,7 triệu cổ phiếu, trị giá 209 tỷ đồng).
Càng về những phiên cuối tháng, thị trường càng sôi động.
Những cổ phiếu tạo nên diện mạo diễn biến thị trường vẫn
là những là những cổ phiếu nằm trong nhóm Bluchip gồm:
STB, SJS, REE, GMD, VNM, VSH, BMP. Xu hướng chung là cổ
phiếu là tăng giá. Đó là những thông tin chủ yếu về trung
tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Còn
trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội thì đến tháng 8 và
9 cũng có những khởi sắc, đến tháng 9 trung tâm giao dịch
chứng khoán Hà Nội có thêm 2 loại cổ phiếu đưa vào giao
dịch vào ngày 20/9/2006, gồm 1000.000 cổ phiếu VTS của
công ty cổ phần Gốm Từ Sơn và 750.000 cổ phiếu DAC của
công ty cổ phần Gốm xây dựng Đông Anh, nâng tổng số
loại cổ phiếu giao dịch trên trung tâm giao dịch chứng
khoán Hà Nội lên 14 loại. Qua các phiên giao dịch cổ phiếu
PPC luôn giữ vị chí cao nhất về khối lượng và giá trị giao
dịch (trên 50% quy mô giao dịch của thị trường) nên trở
thành cổ phiếu dẫn dắt thị trường.
Nói tóm lại tình hình giao dịch trên thị trường chứng
khoán trong thời gian vừa qua diễn ra khá sôi động. Và thị
trường chứng khoán trong năm 2006 có đặc điểm khác biệt
lớn nhất trong hoạt động 9 tháng đầu năm của các công ty
niêm yết là việc phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho
các dự án đầu tư mới thay vì chỉ vay vốn của các ngân
hàng. Phong trào khai thác lợi thế đất để tạo ra lợi nhuận
của nhà đầu tư trong 2 năm 2004- 2005 đang chuyển dần
71
sang xu hướng đầu tư tài chính. Tuy nhiên, chiến lược trở
thành vấn đề lớn đối với sự phát triển của các doanh
nghiệp. Có thể thấy, những doanh nghiệp đã tiến hành
chuẩn bị cho mô hình tập đoàn và cải tiến chất lượng quản
trị như REE, SAM, Gemadept... đang gặt hái nhiều kết quả,
trong khi nhiều doanh nghiệp khác phải đối mặt với hiệu
quả kinh doanh giảm dần.
Đóng vai trò chủ đạo của thị trường OTC là 9 loại cổ
phiếu có mức vốn hoá trên 100 triệu USD (phần lớn là ngân
hàng: ABC, Techcombank, Eximbank, Đông á, PNB,
VPBank...). Trên thị trường chính thức, số cổ phiếu có mức
vốn hoá trên 100 triệu USD chỉ có 5 loại.
Quy mô lớn chưa phản ánh đầy đủ sự hấp dẫn của các
cổ phiếu OTC, mà còn thể hiện qua doanh số giao dịch trên
72
thị trường OTC một ngày khoảng 7,5 đến 30 triệu USD (cao
hơn từ 1,5 đến 6 lần doanh số trên thị trường niêm yết và
gần bằng doanh số trung bình/ngày trên thị trường
Philippines – khoảng 38 triệu USD – từ tháng 1 đến tháng 6
năm 2006).
Cũng theo số liệu của HSBC, chỉ số P/E (thị giá trên thu
nhập) của thị trường niêm yết khoảng 22,1 lần trong năm
2005 và 16,1 lần tính cho 4 quý gần đây. Con số này cao
hơn mức trung bình năm 2005 của Châu á (ngoại trừ Nhật
Bản) đạt khoảng 14,3 lần và tương đương với thị trường ấn
Độ- đạt khoảng 21,8 lần. P/B (thị giá trên giá trị sổ sách –
book value) tại thị trường niêm yết Việt Nam khoảng 3,8
lần.
73
tăng khoảng 20- 25% và lợi nhuận trên cổ phiếu (EPS) sẽ
đạt khoảng 10- 15%. Tính riêng trong khối ngân hàng, P/E
trung bình của các ngân hàng đạt khoảng 29 lần, P/B đạt
khoảng 6 lần (cao hơn mức trung bình của các ngân hàng
Châu á, ví dụ P/B trung bình của các ngân hàng Trung Quốc
chỉ có 2,6 lần). ROE (lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu) của các
ngân hàng Việt Nam đạt khá cao, khoảng từ 13% đến 31%,
lợi nhuận ròng hàng năm tăng 50%, trong số đó các ngân
hàng có ROE trên 20% gồm ACB, Eximbank, Techcombank,
VPBank...
Các đánh giá của Vina Capital, Merrill Lynch hay một
số tổ chức đầu tư quốc tế khác cho thấy, cổ phiếu ngân
hàng vẫn là loại cổ phiếu được chú ý nhiều nhất trong số
các lĩnh vực được quan tâm gồm: thực phẩm đồ uống, viễn
thông, dầu và khí đốt, khoáng sản,... Cổ phiếu ngân hàng
còn có sức hút đặc biệt, bởi chính sách cổ tức và chia cổ
phiếu khá hấp dẫn với cổ đông. Ngoài ra, cổ tức mà các
ngân hàng đã chia trong năm 2005 và báo hiệu sẽ chia
trong năm 2006 đều đạt mức trên dưới 30%.
74
nhanh chóng cải thiện về bộ mặt của mình. Phát huy tốt
trên thị trường quốc tế.
Chúng ta có thể khẳng định lại một lần nữa thị trường
chứng khoán Việt Nam tuy mới xuất hiện nhưng tính cho
đến thời điểm này thì đã đạt được nhiều kết quả tốt. Và đặc
biệt hơn nữa Thị trường chứng khoán trong năm 2005 đã có
bước phát triển khá vững chắc, hoạt động thị trường khá sôi
động, tạo niềm tin và hứng khởi cho các nhà đầu tư trong
nước cũng như nước ngoài. Đồng thời nó là cơ sở để cho thị
trường chứng khoán năm 2006 và những năm tiếp theo tiếp
tục phát huy thế mạnh đó.
Thông qua việc phát hành chứng khoán thì các khoản
vốn manh mún, rải rác trong dân cư và các tổ chức kinh tế
có thể được huy động nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư và
phát triển sản xuất kinh doanh của đơn vị phát hành. Việc
thu hút vốn qua thị trường vốn có thể được thực hiện bằng
cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, trái phiếu
doanh nghiệp, trái phiếu chính quyền địa phương, chứng chỉ
quỹ...
75
VNĐ so với tổng quy mô vốn là 365 000 tỷ VNĐ. Nhưng thị
trường chứng khoán diễn ra khá sôi động ở tháng 8 và 9
năm 2006. Tháng 8, thị trường có 3 loại cổ phiếu mới được
đưa vào giao dịch, gồm: 3,4 triệu cổ phiếu COM của công ty
cổ phần Vật tư xăng dầu (Comeco), trị giá 34 tỷ đồng chính
thức giao dịch ngày 7/8; 4 triệu cổ phiếu TTC của công ty cổ
phần Gạch men Thanh Thanh, trị giá 40 tỷ đồng, chính thức
giao dịch ngày 8/8; 1,4 triệu cổ phiếu SHC của công ty cổ
phần Hàng Hải Sài Gòn, trị giá 14 tỷ đồng, chính thức giao
dịch ngày 15/8. Nói chung tháng 8 trung bình mỗi phiên
đạt 2,4 triệu cổ phiếu, trị giá 114 tỷ đồng, trong khi tháng 7
trung bình mỗi phiên có 1,4 triệu cổ phiếu, trị giá 82 tỷ
đồng. Sang đến tháng 9 thì khối lượng giao dịch toàn thị
trường qua trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ
Chí Minh đạt 95.209.531 chứng khoán, trị giá 6.856 tỷ đồng,
giảm 9% về khối lượng và giảm 8,8% về giá trị so với tháng
8/2006.
Tình hình về phát hành trái phiếu tính đên năm 2005
thì trái phiếu chính phủ đạt khoảng 60.000 tỷ VNĐ, trái
phiếu chính quyền địa phương đạt 7.000 tỷ VNĐ, trái phiếu
doanh nghiệp đạt 2.000 tỷ VNĐ. Sang đến năm 2006 tình
hình có nhiều thay đổi, Bộ tài chính ban hành quyết định
76
2276/QĐ-BTC về việc tập trung đấu thầu trái phiếu chính
phủ tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội ngày
20/6/2006. Tính từ ngày 31/7/2006 đến ngày 11/9/2006,
Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã tổ chức thành
công 4 phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ. Tổng khối lượng
trái phiếu gọi thầu là 1.500 tỷ đồng. Tổng khối trái phiếu
đăng ký tham gia đấu thầu là 4.183 tỷ đồng (gấp 2,78 lần
khối lượng gọi thầu). Kết quả khối lượng trái phiếu trúng
thầu đạt 1.200 tỷ đồng. Tính đến ngày 11/9/2006, số trái
phiếu phát hành theo phương thức bảo lãnh phát hành của
kho bạc nhà nước và ngân hàng phát triển Việt Nam đăng
ký giao dịch trên trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội
có 38 loại, với tổng giá trị đạt 7.027 tỷ đồng, trong đó có 8
loại của kho bạc nhà nước và 30 loại của ngân hàng phát
triển Việt Nam. Năm 2006, Kho bạc nhà nước có nhiệm vụ
huy động vốn thông qua phát hành các loại trái phiếu, công
trái là 54.500 tỷ đồng.
Thứ hai là tạo lập cơ chế đầu tư và thúc đẩy quá trình
sử vốn có hiệu quả:
Việc huy động vốn thông qua thị trường vốn (thông
qua cơ chế thị trường) đều phải trả gốc và lãi suất tương
ứng với quyền sử dụng đồng vốn đó. Do đó chủ sử dụng
nguồn vốn đó phải có trách nhiệm trước đồng vốn đó đối với
chủ sở hữu nó. Phải trả gốc và lãi đúng hạn. Chính vì vậy
chủ sử dụng đồng vốn đó luôn phải cân nhắc kỹ cơ hội đầu
tư, việc sử dụng vốn như thế nào là có hiệu quả nhất tiết
kiệm nhất, có như vậy chủ sử dụng đồng vốn đó mới trả cho
77
chủ sở hữu nó được đúng thời hạn quy định. Nếu sử dụng
đồng vốn không hợp lý thì chủ sử dụng đồng vốn đó dẫn
đến hậu quả là không thể trả nợ được có thể bị truy cứu
trách nhiệm pháp lý hoặc ít nhất thì cũng đã đánh mất lòng
tin của các chủ sở hữu đồng vốn. Điều này có thể dẫn tới
người này muốn kinh doanh nhưng không thể huy động
được vốn bằng bất cứ hình thức nào thông qua thị trường
vốn.
Thị trường vốn luôn yêu cầu tính minh bạch công khai
ở mức độ cao, và tính tự giám sát hoạt động của mình. Tính
minh bạch công khai ở thị trường chứng khoán Việt Nam
còn chưa tốt còn có nhiều bất cập. Nhưng cuối cùng chúng
ta có thể đi tới tính minh bạch, công khai, tự giám sát một
cách cao hơn. Nhờ có đặc tính này của thị trường chứng
khoán mà các chủ sở hữu vốn yên tâm hơn khi bỏ tiền vào
để đầu tư vào chứng khoán. Tính minh bạch, công khai, tự
giám sát giúp các đơn vị kinh tế muốn phát hành công cụ
vay nợ thông qua thị trường chứng khoán thì phải xây dựng
tốt hình ảnh của mình trong mắt công chúng, hay nói cách
khác thì họ trước hết phải có kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh tốt hơn các đối thủ cạnh tranh, có đội ngũ cán
bộ giỏi. Do đó đồng vốn sẽ được điều tiết một cách hợp lý
hơn.
Tới đây chúng ta có thể nói rằng thị trường vốn như
một cái van an toàn, nó tạo lập cơ chế phân bổ vốn từ nơi
vốn thừa đến nơi vốn thiếu, từ nơi đồng vốn sử dụng kém
hiệu quả đến nơi sử dụng có hiệu quả. Chính vì điều này nó
78
thúc đẩy các nhà đầu tư sử dụng đồng vốn mà mình có
được một cách sáng suốt hơn, để tránh đầu tư không hợp lý
không hiệu quả. Nói một cách khác các nhà đầu tư khi sử
dụng động vốn chịu ảnh hưởng của các quy luật kinh tế:
quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu... Nếu họ sử dụng
đồng vốn không có hiệu quả thì họ sẽ bị đào thải. Chính vì
sự sống còn của mình mà họ càng có thêm nhiều nỗ lực để
đưa hiệu quả kinh tế của họ đạt mức cao nhất.
Năm 2005 được đánh dấu là năm đạt mức cao nhất về
thu hút đầu tư nước ngoài kể từ sau khủng hoảng tài chính
khu vực diễn ra năm 1997 với tổng số vốn đầu tư mới đạt
được khoảng 6,338 tỷ USD, tăng 39,8% so với năm 2004,
vượt 40,8% so với mục tiêu đề ra cho cả nước năm 2005.
79
Điều này được thể hiện ở chỗ. Những công ty tham gia
niêm yết chứng khoán trên sàn giao dịch thì có thể thu được
lợi nhuận cao hơn qua các năm . Theo báo cáo của kết quả
kinh doanh trong 9 tháng đầu năm 2006 cho thấy các
doanh nghiệp tham gia niêm yết tiếp tục tăng trưởng tốt,
còn một số doanh nghiệp khác thì tụt lùi so với cùng kỳ
2005. Dưới đây là kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của 9 tháng đầu năm 2006:
80
1 SSC 111,4 22,5 77% 68%
3
1 TNA 185,1 4,1 99% -
4
1 TS4 84,9 4,3 57% 138%
5
(nguồn: Tạp chí đầu tư chứng khoán số 44, 30 tháng 10
năm 2006)
Thứ nhất vai trò của các nhà tạo lập thị trường chưa
thể hiện rõ cả về nghĩa vụ và quyền lợi.
81
Thứ hai là lãi suất của trái phiếu hiện nay chưa hợp
lý.
Thứ hai do sự giám sát còn lỏng lẻo của các cơ quan
có chức năng đối với thị trường chứng khoán.
Thứ năm là việc triển khai các luật các nghị định về
thị trường chứng khoán còn chậm, chưa hợp lý hoặc không
tuân thủ pháp luật đề ra.
82
thích cổ phần hoá vì sợ bị mất quyền lực. Dẫn đến tình
trạng các công ty tham gia niêm yết trên thị trường chứng
khoán còn ít.
Chương III- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động của thị trường chứng khoán Việt nam.
I- Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Năm
(2006-2010).
1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt
Nam tới 2010.
83
Thứ hai: Nâng cao tính minh bạch của hoạt động thị
trường chứng khoán, áp dụng thông lệ tốt nhất về quản trị
công ty đối với các công ty đại chúng và các tổ chức kinh
doanh chứng khoán.
Thứ ba: Nâng cao quy mô và năng lực của các tổ chức
kinh doanh, dịch vụ chứng khoán đáp ứng yêu cầu phát
triển thị trường chứng khoán.
Cùng với định hướng phát triển thị trường chứng khoán
trong giai đoạn tới, thì định hướng cho hoạt động đầu tư
chứng khoán cũng được coi trọng theo hướng:
Thứ ba: Thu hút ngày càng đông đảo nhà đầu tư, đặc
biệt chú trọng phát triển nhà đầu tư có tổ chức, đầu tư theo
chiến lược dài hạn.
84
Thứ tư: Thu hút đầu tư thông qua việc hợp tác, liên
kết thị trường vốn với quốc tế.
Theo định hướng đến năm 2010 thị trường vốn của
Việt Nam có thể huy động 100.000 tỷ đồng đối với trái
phiếu chính phủ; 100.000 tỷ đồng đối với trái phiếu doanh
nghiệp; 150.000 tỷ đồng đối với chương trình cổ phần hoá
của nhà nước và có thể huy động 100.000 tỷ đồng trong các
doanh nghiệp. Như vậy thị trường vốn Việt Nam có thể cung
cấp một con số 30 tỷ USD, đó là một sự đóng góp khá lớn
không chỉ về lượng mà cả về chất của thị trường vốn đối với
nền kinh tế.
II- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
thị trường chứng khoán Việt Nam.
1. Nhóm giải pháp về tăng cường quản lý hoạt động
đầu tư.
85
Thứ ba: Kiểm soát tình trạng cầm cố chứng khoán
trên thị trường. Tránh trường hợp cầm cố làm nhiều lần của
các nhà đầu tư. Và sớm ban hành quy chế chuẩn về hoạt
động cầm cố chứng khoán trên thị trường chứng khoán.
Thứ tư: Đưa ra những lời cảnh báo cho các nhà đầu
tư về rủi ro, về tình trạng diễn biến thị trường, cung cấp
thông tin đầy đủ đến các nhà đầu tư.
Thứ năm: Chú trọng đến việc phát triển cơ sở vật chất
kỹ thuật phục vụ cho công tác giám sát hoạt động giao dịch
chứng khoán, đặc biệt là công tác nghiên cứu, phát triển và
ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giám sát hoạt
động giao dịch. Khi đó công tác quản lý hoạt động đầu tư
mới có thể đạt được hiệu quả như mong muốn.
86
dịch vụ chứng khoán, giấy phép thành lập quỹ đầu tư và
phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư, chứng chỉ hành nghề đối
với các tổ chức, cá nhân hành nghề của các tổ chức kinh
doanh, dịch vụ chứng khoán; Thẩm định hồ sơ, trình Chủ
tịch Uỷ ban cấp hoặc thu hồi giấy phép đặt văn phòng đại
diện các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán nước
ngoài tại Việt Nam; giám sát hoạt động của văn phòng đại
diện theo quy định của pháp luật; Phối hợp tổ chức các kỳ
thi sát hạch cấp lại chứng chỉ hành nghề kinh doanh và dịch
vụ chứng khoán; Phối hợp với các đơn vị thuộc Uỷ ban lựa
chọn công ty kiểm toán thực hiện kiểm toán các tổ chức
kinh doanh, dịch vụ chứng khoán; Tham mưu giúp chủ tịch
Uỷ ban hướng dẫn, hỗ trợ các tổ chức hiệp hội chứng khoán
thực hiện mục đích, tôn chỉ và điều lệ hoạt động của hiệp
hội; Kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật của các
hiệp hội; Phối hợp các tổ chức trong và ngoài nước hỗ trợ
phát triển các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán
theo quy định của bộ trưởng Bộ tài chính và quyết định của
chủ tịch Uỷ ban.
87
đại chúng, công ty chứng khoán (CtyCK), công ty quản lý
quỹ (CtyQLQ), công ty đầu tư chứng khoán và sở giao dịch
chứng khoán (SGDCK), Trung tâm giao dịch chứng khoán
(TTGDCK). Các đối tượng này khi công bố thông tin phải
đồng thời báo cáo Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN)
về nội dung thông tin được công bố. Các thông tin phải thực
hiện theo chuẩn mực chung đảm bảo tính kịp thời, rõ ràng,
chính xác. Công bố thông tin được tiến hành theo chế độ
thường xuyên, liên tục, định kỳ hoặc đột xuất thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng, ấn phẩm của công ty và
các phương tiện thông tin của SGDCK, TTGDCK. Nội dung
và phương thức công bố thông tin của từng đối tượng do Bộ
tài chính quy định.
88
chúng phải công bố thông tin bất thường trong thời hạn 72
giờ, kể từ khi xảy ra một trong các sự kiện như: quyết định
vay hoặc phát hành trái phiếu có giá trị từ 30% vốn thực có
trở lên; quyết định của hội đồng quản trị (HĐQT) về chiến
lược, kế hoạch phát triển trung hạn và kế hoạch kinh doanh
hàng năm của công ty; quyết định thay đổi phương pháp kế
toán áp dụng; công ty nhận được thông báo của Toà án thụ
lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp. Đồng
thời, theo yêu cầu của UBCKNN, công ty đại chúng phải
công bố thông tin khi xảy ra một trong các sự kiện: có
thông tin liên quan đến công ty đại chúng ảnh hưởng
nghiêm trọng đến lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; có thông
tin liên quan đến công ty đại chúng ảnh hưởng lớn đến giá
trị chứng khoán và cần phải xác nhận thông tin đó.
Đối với tổ chức phát hành thực hiện chào bán trái
phiếu ra công chúng, ngoài nghĩa vụ công bố thông tin định
kỳ theo quy định tại khoản 1 Điều 101 của luật, tổ chức
phát hành thực hiện chào bán trái phiếu ra công chúng thì
phải công bố thông tin bất thường trong thời hạn 72 giờ, kể
từ khi xảy ra một trong các sự kiện quy định tại điểm a,b và
c tại khoản 2 và khoản 3 Điều 101 của luật.
89
hạn 5 ngày, kể từ ngày hoàn thành BCTC quý; công bố
thông tin theo quy chế của SGDCK, TTGDCK. Tổ chức niêm
yết khi công bố thông tin phải đồng thời báo cáo SGDCK
hoặc TTGDCK về nội dung thông tin được công bố.
90
công ty đại chúng. Công ty đầu tư chứng khoán có cổ phiếu
niêm yết tại SGDCK, TTGDCK phải thực hiện công bố thông
tin như đối với các tổ chức niêm yết khác.
Đối với SGDCK, TTGDCK, tại điều 107 quy định SGDCK,
TTGDCK phải công bố các thông tin về giao dịch chứng
khoán tại SGDCK, TTGDCK; thông tin về tổ chức niêm yết tại
SGDCK, TTGDCK; thông tin về CtyCK, CtyQLQ, quỹ đầu tư
chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán và các thông tin
giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán.
Một là nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành một số
điều của luật chứng khoán, Nghị định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng
khoán (hai dự thảo nghị định này dự kiến trình chính phủ
tháng 11/2006);
91
CtyCK, CtyQLQ, công ty đầu tư chứng khoán, SGDCK,
TTGDCK), Thông tư hướng dẫn thi hành một số điều Nghị
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng
khoán và TTCK (hai dự thảo thông tư này dự kiến trình Bộ
tài chính vào tháng 11/2006).
Việc soạn thảo các văn bản trên sẽ được thực hiện
theo một quy trình chặt chẽ, đảm bảo tiến độ, đảm bảo tính
công khai, lấy ý kiến rộng rãi các thành viên thị trường, các
hiệp hội, tổ chức liên quan, ý kiến góp ý của công chúng
đầu tư, bảo đảm tính minh bạch ngay từ khâu ban hành
chính sách.
Trong các quy định trên, cần thiết phải làm rõ vai trò,
trách nhiệm của từng chủ thể từ cơ quan quản lý nhà nước
về chứng khoán, đến từng chủ thể riêng rẽ trong việc công
khai, minh bạch các thông tin nhằm mục đích cuối cùng là
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư.
92
cho thị trường chứng khoán, góp phần tăng thêm tính minh
bạch trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Trong bối cảnh nước ta vừa mới gia nhập WTO và thị
trường chứng khoán rất cấn thu hút sự tham gia của các
nhà đầu tư nước ngoài, hệ thống kiểm toán kế toán là một
trong những trọng điểm cần được cải tiến không ngừng
nhằm nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm pháp lý của
các doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà
đầu tư và góp phần hơn nữa vào việc phát triển thị trường
chứng khoán Việt Nam.
Hai là, cần có giải pháp thiết thực cụ thể để đưa ra các
chuẩn mực kế toán, kiểm toán vào cuộc sống, trở thành văn
hoá kinh doanh của từng doanh nghiệp.
Một khi các doanh nghiệp vẫn còn thấy rằng việc áp
dụng đúng các chế độ kế toán, kiểm toán không phải là bắt
buộc, không tìm thấy ích lợi từ việc tuân thủ theo quy định
chung, thì việc các doanh nghiệp áp dụng đúng chuẩn mực
kế toán, kiểm toán vẫn còn là một “thứ xa xỉ và khó tìm
thấy” trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
93
kiểm toán (Hiện nay, Luật chứng khoán đã có những yêu
cầu chặt chẽ hơn nhưng không phải là tất cả các doanh
nghiệp đều phải bắt buộc được kiểm toán);
Bốn là, nâng cao chất lượng các tổ chức kiểm toán, vai
trò của các tổ chức tự quản (SGDCK, TTGDCK, và các hiệp
hội) trong việc phối hợp đào tạo, nâng cao các quy chuẩn
đạo đức nghề nghiệp. Việc đào tạo cần được tiến hành dưới
hình thức xã hội hoá, đảm bảo chất lượng, gắn lý luận và
thực tiễn.
Thứ ba: Nhóm giải pháp nâng cao trách nhiệm công
bố thông tin của doanh nghiệp.
94
Như vậy việc cụ thể hoá, chuẩn hoá các quy định của
Luật chứng khoán trong quy chế, Điều lệ cùng với việc xử lý
nghiêm các vi phạm sẽ góp phần nâng cao tính minh bạch
trên thị trường chứng khoán, góp phần bảo vệ quyền lợi của
công chúng đầu tư khi tham gia thị trường chính thức. Việc
áp dụng công bố thông tin được tuân thủ bình đẳng giữa
các công ty niêm yết và chưa niêm yết. Trong văn bản
hướng dẫn, cần quy định rõ ràng việc xây dựng chế độ công
bố thông tin, nội dung, hình thức, thời gian, phương tiện
công bố.
95
thẳng thắn sẽ giúp chúng ta đề ra những giải pháp hữu hiệu
để khắc phục và nâng cao tính minh bạch trên thị trường
chứng khoán. Đó cũng là mục tiêu động lực của cơ quan
quản lý thị trường, cũng như sự quan tâm, kỳ vọng của công
chúng vào sự phát triển ổn định, vững chắc của thị trường
chứng khoán Việt Nam.
96
nay, Ngân hàng Công thương Việt Nam đang triển khai các
bước để nâng cao vai trò của một nhà tạo lập thị trường,
nhưng cũng đang gặp phải một rủi ro lớn về tính thanh
khoản của trái phiếu.
Sau khi nghe những ý kiến phản hồi từ phía các đối
tượng trực tiếp tham gia vào hoạt động đấu thầu trái phiếu
chính phủ trên TTGDCK Hà Nội, chúng ta có một số giải
pháp như sau:
97
dựng đường cong lãi suất cho thị trường trái phiếu nói
chung.
Thứ nhất, cùng với UBCKNN xây dựng các mức phí về
đấu thầu trái phiếu, bảo lãnh trái phiếu, phí đối với giao
dịch repo, giao dịch mua thẳng...;
Thứ hai, tạo tính thanh khoản cho trái phiếu thông qua
việc phát hành “lô lớn”, sẽ được thực hiện từ năm 2007.
Đây là một điểm rất mới trong việc phát hành trái phiếu
chính phủ, nghĩa là phát hành một loạt trái phiếu có khối
lượng lớn, theo nhiều đợt, nhưng có cùng ngày đáo hạn và
lãi suất danh nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác
98
quản lý cũng như hoạt động mua bán, giao dịch trái phiếu
trên thị trường thứ cấp, nâng cao tính thanh khoản trái
phiếu và tạo cơ sở cho việc hình thành đường cong lãi suất
chuẩn trên thị trường;
Thứ ba, đa dạng hoá kỳ hạn trái phiếu, bên cạnh loại
trái phiếu kỳ hạn 5 năm hiện nay, sẽ phát hành loại trái
phiếu kỳ hạn 7 năm, 10 năm và từng bước nâng dần kỳ hạn
trái phiếu khi điều kiện cho phép nhằm đáp ứng nhu cầu chi
tiêu của ngân sách Nhà nước và nhu cầu đa dạng hoá các
công cụ đầu tư;
Thứ tư, là thông báo công khai lịch biểu phát hành trái
phiếu chính phủ trong năm vào tháng 1 đầu năm và lịch
biểu phát hành trái phiếu chính phủ hàng quý vào tháng
đầu quý, để giúp các nhà đầu tư chủ động bố trí nguồn vốn
tham gia thị trường;
99
Thứ nhất là cải tiến phương thức phát hành trái phiếu
chính phủ, đưa trái phiếu công trình, trái phiếu đô thị lên
niêm yết.
100
trình độ khai thác và sử dụng công nghệ, thứ hai là chính vì
chúng ta thiếu các chuyên gia giỏi về yếu tố khoa học công
nghệ nên chúng ta thường mua phải những công nghệ lạc
hậu không phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh hiện
tại. Chính vì những lý do này mà Nhà nước cần có chính
sách đào tạo những lớp cán bộ có trình độ chuyên môn sâu
ở lĩnh vực này.
101
Thứ ba là từng bước đưa các doanh nghiệp lớn, Ngân
hàng thương mại cổ phần tham gia niêm yết trên thị trường
chứng khoán.
5. Nhóm giải pháp thu hút đông đảo nhà đầu tư.
Xuất phát từ nhận định của tạp chí, báo của Trung
Quốc chúng ta muốn thu hút đông đảo nhà đầu tư trong
nước lẫn nhà đầu tư nước ngoài thì cần thực hiện một số
biện pháp sau:
Thứ nhất để thu hút đông đảo nhà đâu tư trong nước
chúng ta cần có giải pháp về đào tạo, nâng cao kiến thức
nhà đầu tư, công chúng và các tổ chức phụ trợ trên thị
trường chứng khoán.
Thứ hai là tăng tính hấp dẫn của chứng khoán thông
qua chính sách thuế đối với thu nhập từ hoạt động đầu tư
chứng khoán.
Hiện nay, trên thị trường chứng khoán Việt Nam các
khoản thu nhập từ chứng khoán được tạm thời miễn thuế
102
điều này có tác dụng khuyến khích đầu tư chứng khoán rất
nhiều, đặc biệt là trong tình hình các khoản thu nhập từ gửi
tiết kiẹm và mua bán vàng của cá nhân không bị đánh thuế.
Về lâu dài, thì cần có chính sách thuế đối với thu nhập từ
chứng khoán.
103
Quốc cho rằng ở Việt Nam có tình trạng này. Một ví dụ điển
hình cho thấy khi chỉ cổ phiếu tăng lên đến 570 điểm thì Uỷ
ban chứng khoán sẽ ra chính sách giữ tỷ lệ cổ phiếu, hạn
chế đầu tư nước ngoài. Khi chỉ số chứng khoán giảm mạnh
xuống còn 130 điểm thì Uỷ ban này lại ra chính sách mở
rộng chính sách đầu tư nước ngoài khiến cho cổ phiểu đàn
hồi trở lại con số 280 điểm.
Hai là: theo nhận định của phía nước ngoài. Uỷ ban
chứng khoán Việt Nam yêu cầu các công ty tham gia thị
trường chứng khoán phải công khai tài chính băng tiếng việt
mà không bắt buộc phải dùng tiếng Anh hay tiếng Trung
Quốc. Do đó chúng ta cần có biện pháp hợp lý hoá thủ tục
này để thu hút thêm nhà đầu tư nước ngoài.
Kết luận: thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất
nhiều bất cập, do đó chúng ta cũng có nhiều giải pháp khác
nhau để giải quyết những bất cập đó. Do giới hạn tìm hiểu
của đề tài có hạn. Cho nên tôi chỉ có thể đưa ra một số giải
pháp ở một số lĩnh vực như trên.
104
C- kết luận
Qua bài viết của mình, em có thể thấy rằng: Thị trường
chứng khoán Việt Nam sau 6 năm hoạt động còn yếu kém
về mọi mặt, cả về cơ sở vật chất, kiến thức nhà đầu tư, cả
về vấn đề cổ phần hoá trong doanh nghiệp... Để khắc phục
tình trạng này chúng ta không những cần có những giải
pháp cụ thể là nâng cao tính công khai minh bạch, tăng
cường sự quản lý giám sát của cơ quan nhà nước, hoàn
thiện khuôn khổ pháp luật, nâng cao hiểu biết của mọi tầng
lớp dân cư về thị trường chứng khoán... mà chúng ta cần có
một giải pháp đồng bộ, nâng cao ý thức, trách nhiệm của
mọi cơ quan quản lý nhà nước (Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân
các cấp), các cán bộ quản lý kinh tế, tầng lớp trí thức, nhà
đầu tư, các đơn vị kinh tế nhà nước và tư nhân và và mọi
tầng lớp dân cư đóng sức mình cho sự nghiệp chung của đất
nước, và đặc biệt là thị trường chứng khoán Việt Nam , một
kênh huy động vốn quan trọng. Mục đích cuối cùng của giải
pháp trên là chúng ta tạo ra đất nước ta một thị trường
chứng khoán, công khai, minh bạch, công bằng, bình đẳng
giữa mọi thành phần kinh tế. Và đặc biệt hơn nó phát huy
được chức năng và nhiệm vụ của mình trong nền kinh tế.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn
Hồng Minh đã tận tình giúp em hoàn thành được đề tài này,
và đồng thơi em cũng xin chân thành cảm ơn đội ngũ giáo
viên của trường đại học Kinh Tế Quốc Dân và đặc biệt là
105
các thầy cô giáo bộ môn kinh tế đầu tư đã trang bị kiến thức
cơ bản cho em trong nhiệm vụ học tập và nghiên cứu.
Mục lục
106
3. Cách thức đầu tư chứng khoán 15
3.1. Thị trường sơ cấp 15
3.2. Thị trường thứ cấp 17
III – Niêm yết chứng khoán 18
1. Khái niệm chức năng của sở giao dịch chứng khoán 18
2. Tổ chức và hoạt động của sở giao dịch chứng khoán 19
3. Thành viên của sở giao dịch chứng khoán 21
4. Niêm yết chứng khoán 22
Chương II- thực trạng thị trường chứng khoán việt
nam 24
I- thị trường sơ cấp 24
1. Đầu tư vào cổ phiếu 24
2. Đầu tư vào trái phiếu 27
II- Thị trường thứ cấp 31
1. Thực trạng của việc niêm yết chứng khoán ở Việt Nam
hiện nay 31
2. Kết quả giao dịch của thị trường chứng khoán trong
thời gian vừa qua 38
3. Đầu tư cổ phiếu ngoài sàn OTC 39
III- đánh giá chung 41
1. Những thành tựu đạt được 41
2. Những tồn tại và nguyên nhân 44
Chương III- một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt
động của thị trường chứng khoán 45
I- Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt
Nam
107
tới năm 2010 45
1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
tới năm 2010. 45
2. Định hướng phát triển hoạt động đầu tư chứng khoán 46
III- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của
Thị trường chứng khoán 46
1. Nhóm giải pháp về tăng cường quản lý hoạt động đầu tư
46
2. Nhóm giải pháp về nâng cao tính minh bạch trên thị
trường
chứng khoán Việt Nam 48
3. Nhóm giải pháp cho thị trường trái phiếu 52
4. Nhóm giải pháp về tăng cường nguồn hàng cho thị trường
chứng khoán 54
5. Nhóm giải pháp thu hút đông đảo nhà đầu tư 55
108
Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình thị trường chứng khoán
Chủ biên: PGS. TS. Nguyễn Văn Nam
PGS. TS. Vương Trọng Nghĩa.
2. Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 1+2 năm 2006
3. Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 9 năm 2006.
4. Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 10 năm 2006.
5. Tạp chí Đầu tư chứng khoán số 43 ngày 23 tháng 10 năm
2006.
6. Tạp chí Đầu tư chứng khoán số 44 ngày 30 tháng 10 năm
2006.
7. Các trang Website: www. Nyse.com, www.vse.org.VN,
www.hastc.org.vn,....
109