You are on page 1of 109

A – Lời Nói đầu

Hiện nay, thời đại của chúng ta là thời đại mang xu


hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá. Hoà nhập với không
khí này, Việt nam vừa gia nhập và là thành viên của tổ chức
thương mại thế giới WTO. Khi được trở thành viên của tổ
chức thương mại thế giới thì đồng nghĩa Việt Nam cũng gặp
nhiều khó khăn và đồng thời cũng gặt hái được nhiều thành
công. Để thu được kết quả tốt từ quá trình hội nhập chúng
ta phải đánh giá, nhận định về cơ hội cũng như là thách
thức đang đặt ra, chúng ta phải biết đâu là thế mạnh mình
phải phát huy và đâu là điểm yếu cần phải khắc phục. Và
đặc biệt hơn nữa chúng ta phải nhận định được xu hướng đi
chung của Thế giới, những yếu tố nào các nước đang chú
trọng.
Chính vì điều đó, mà em thấy rằng thị trường chứng
khoán trên thế giới hiện nay là một thị trường nóng bỏng và
có nhiều triển vọng đi lên. Nó không chỉ là một kênh huy
động vốn có hiệu quả cho hoạt động đầu tư trong nền kinh
tế mà còn là nhân tố thúc đẩy hoạt động của nền kinh tế
diễn ra suôn xẻ hơn. Cho nên em chọn đề tài môn học của
mình là “Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam
và giải pháp nâng cao hoạt động của thị trường này”.
Đối tượng của đề tài
Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam , hoạt
động đầu tư chứng khoán và một số giải pháp nhằm nâng
cao hoạt động của thị trường chứng khoán.

1
Mục đích nghiên cứu
Thấy được thực trạng của thị trường chứng khoán Việt
Nam, vẫn đang là thị trường non yếu. Nhưng nó là nhân tố
quan trọng để thúc đẩy kinh tế Việt Nam đi lên hoà nhập với
xu hướng chung của Thế giới. Và từ đó tìm ra giải pháp
thích hợp cho thị trường chứng khoán nước ta.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận cơ bản
về thị trường chứng khoán, nghiên cứu thống kê, phân tích
số liệu, nắm bắt thông tin từ các phương tiện thông tin đại
chúng nhằm tìm ra những thành công và những thất bại của
thị trường chứng khoán Việt Nam.
Nội dung của đề tài môn học bao gồm:
Chương I: Lý luận chung về thị trường chứng khoán.
Chương II: Thực trạng của thị trường chứng khoán ở Việt
Nam
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động
của thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Vì sự hiểu biết và thời gian có hạn cho nên nội dung
đề tài của mình không tránh khỏi những sai xót. Do vậy, em
mong nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo của thầy cô và của bạn
bè để cho đề tài của em thêm hoàn thiện.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn
Hồng Minh thầy đã giúp em hoàn thành tốt đề tài này.

2
B – nội dung

Chương I- lý luận chung về thị trường chứng khoán


I- Tổng quan về thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ


bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại. Người ta có thể
đo lường và dự tính sự phát triển kinh tế qua diễn biến trên
thị trường chứng khoán. Là một bộ phận cấu thành của thị
trường tài chính, thị trường chứng khoán được hiểu một
cách chung nhất, là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao
đổi các chứng khoán- các hàng hoá và dịch vụ tài chính
giữa các chủ thể tham gia. Việc trao đổi mua bán này được
thực hiện theo những quy tắc ấn định trước.

Tổng quan về thị trường chứng khoán có một số nội dung


chính sau:
1- Khái niệm và bản chất của thị trường chứng
khoán.

Hiện nay, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về thị
trường chứng khoán:

Quan điểm thứ nhất, cho rằng thị trường chứng


khoán(TTCK) và thị trường vốn là một, chỉ là tên gọi khác
nhau của cùng một khái niệm: Thị trường tư bản. Nếu xét
về mặt nội dung, thì thị trường vốn biểu hiện các quan hệ
bản chất bên trong của quá trình mua bán các chứng
khoán. TTCK là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch

3
vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể phân biệt,
tách rời nhau mà thống nhất phản ánh các quan hệ bên
trong và bên ngoài của thị trường tư bản.

Quan điểm thứ hai, của đa số các nhà kinh tế cho


rằng: “Thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi thị
trường vốn chứ không phải đồng nhất là một”. Như vậy,
theo quan điểm này, TTCK và thị trường vốn là khác nhau,
trong đó TTCK chỉ giao dịch, mua bán các công cụ tài chính
trung và dài hạn như trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái
phiếu công ty. Các công cụ tài chính ngắn hạn được giao
dịch trên thị trường tiền tệ, không thuộc phạm vi hoạt
động của TTCK.

Quan điểm thứ ba, dựa trên những gì quan sát


được tại đa số các sở giao dịch chứng khoán lại cho rằng
“Thị trường chứng khoán là thị trường cổ phiếu”, hay là nơi
mua bán các cổ phần được các công ty phát hành ra để
huy động vốn. Theo quan điểm này, thị trường chứng
khoán được đặc trưng bởi thị trường mua bán các công cụ
tài chính mang lại quyền tham gia sở hữu.

Các quan điểm trên đều được khái quát trên những
cơ sở thực tiễn và trong điều kiện lịch sử nhất định.

Tuy nhiên, quan điểm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với


sự phát triển chung của TTCK hiện nay, được trình bày
trong giáo trình là:

4
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch
mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Chứng khoán được
hiểu là các loại giấy tờ có giá hay là bút toán ghi sổ, nó cho
phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản
của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu
cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ
theo tính chất sở hữu của chúng.

Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể
diễn ra ở thị trường sơ cấp hay thị trường thứ cấp, tại sở
giao dịch hay thị trường chứng khoán phi tập trung, ở thị
trường giao ngay hay thị trường có kỳ hạn. Các quan hệ
trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và
như vậy, thực chất đây là quá trình vận động của tư bản,
chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.

Thị trường chứng khoán không giống với thị trường


các hàng hoá khác vì hàng hoá của thị trường chứng khoán
là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản.
Loại hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như
vậy có thể nói, bản chất của thị trường chứng khoán là thị
trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu
tư mà ở đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về
chi phí vốn hay giá của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán
là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu
thông hàng hoá.

2. vị trí và cấu trúc của thị trường chứng khoán

2.1. Vị trí của TTCK trong thị trường tài chính

5
Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường
tài chính. Vị trí của thị trường chứng khoán trong tổng thể
thị trường tài chính thể hiện:

- Thị trường chứng khoán là hình ảnh đặc trưng của thị
trường vốn

TT Tiền tệ Thị
trường
Vốn
TTCK

Thời gian đáo hạn 1 năm t


l

Như vậy, trên TTCK giao dịch 2 loại công cụ tài chính:
công cụ tài chính trên thị trường vốn và công cụ tài chính
trên thị trường tiền tệ.

- Thị trường chứng khoán là hạt nhân trung tâm của thị
trường tài chính, nơi diễn ra quá trình phát hành, mua
bán các công cụ Nợ và công cụ Vốn (các công cụ sở
hữu).

TT Nợ TT vốn
cổ phần
TT Trái TT cổ
Phiếu
Phiếu 6
2.2. Cấu trúc của thị trường chứng khoán

Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, cấu trúc của thị
trường chứng khoán có thể phân chia theo nhiều tiêu thức
khác nhau. Tuy nhiên, thông thường, ta có thể xem xét 3
cách thức cơ bản là phân loại theo hàng hoá, phân loại theo
hình thức tổ chức thị trường và phân loại theo quá trình luân
chuyển vốn. Các phân tích sau đây sẽ thể hiện từng cách
thức phân loại đó.

a. phân loại theo hàng hoá

Theo các loại hàng hoá được mua bán trên thị trường,
người ta có thể phân chia thị trường chứng khoán thành thị
trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường dẫn
suất.

Thị trường trái phiếu là thị trường mà hàng hoá được


mua bán tại đó là các trái phiếu. Trái phiếu là công cụ nợ,
mà thực chất của việc phát hành công cụ này là phát hành
đứng ra đi vay theo phương thức có hoàn trả cả gốc và lãi.

7
Khác với thị trường nợ, thị trường cổ phiếu là nơi giao
dịch mua bán, trao đổi các giấy tờ có xác nhận cổ phần
đóng góp của cổ đông. Cổ đông là chủ sở hữu của công ty
và phải chịu trách nhiệm trong phần đóng góp của mình. Cổ
phiếu sẽ cho phép họ có quyền yêu cầu đối với lợi nhuận
sau thuế của công ty cũng như đối với tài sản của công ty,
khi tài sản này được đem bán. Cổ phiếu có thời gian đáo
hạn là không xác định.

Thị trường công cụ dẫn suất là nơi các chứng khoán


phái sinh được mua và bán. Tiêu biểu cho công cụ này là
hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn. Thị trường này
ngày càng trở nên quan trọng đối với các nhà quản lý tài
chính. Nó cung cấp các công cụ phòng vệ hữu hiệu, đồng
thời là công cụ đầu cơ lý tưởng cho các nhà đầu tư.

b. Phân loại theo hình thức luân chuyển vốn

Theo hình thức này, thị trường chứng khoán được


phân thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.

Thị trường sơ cấp hay thị trường cấp I là thị trường


phát hành các chứng khoán hay là nơi mua bán các chứng
khoán lần đầu tiên. Tại thị trường này, giá cả của chứng
khoán là giá phát hành. Việc mua bán chứng khoán trên thị
trường sơ cấp làm tăng vốn cho nhà phát hành. Thông qua
việc phát hành chứng khoán, chính phủ có thêm nguồn thu
để tài trợ cho dự án đầu tư hoặc chi tiêu của chính phủ, các
doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường nhằm tài trợ cho
các dự án đầu tư.

8
Thị trường thứ cấp hay thị trường cấp II là thị trường
giao dịch mua bán, trao đổi những chứng khoán đã được
phát hành nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư
hay di chuyển tài sản xã hội.

Quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp


thể hiện trên các giác độ sau:

Thứ nhất, thị trường thứ cấp làm tăng tính lỏng của
các chứng khoán đã phát hành. Việc này làm tăng tính ưa
chuộng của chứng khoán và làm giảm rủi ro cho các nhà
đầu tư. Các nhà đầu tư sẽ dễ dàng hơn trong việc sàng lọc,
lựa chọn, thay đổi kết cấu danh mục đầu tư, trên cơ sở đó
làm giảm chi phí cho các nhà phát hành trong việc huy
động và sử dụng vốn. Việc tăng tính lỏng của tài sản sẽ tạo
điều kiện tách biệt giữa sở hữu và quản lý, làm cơ sở cho
việc tăng hiệu quả quản lý của doanh nghiệp.

Việc tăng tính lỏng cho các chứng khoán tạo điều kiện
cho việc chuyển đổi thời hạn của vốn, từ vốn ngắn hạn
sang trung hạn và dài hạn. Đồng thời, tạo điều kiện cho việc
phân phối một cách có hiệu quả. Sự di chuyển vốn đầu tư
trong nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế “bàn tay
vô hình”, cơ chế xác định giá chứng khoán và thông qua
hoạt động thâu tóm, sáp nhập doanh nghiệp trên thị trường
thứ cấp.

Thứ hai, thị trường thứ cấp xác định giá của chứng
khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường
thứ cấp được xem là thị trường định giá các công ty.

9
Thứ ba, thông qua việc định giá, thị trường thứ cấp
cung cấp một danh mục chi phí vốn tương ứng với các mức
độ rủi ro khác nhau của từng phương án đầu tư, tạo cơ sở
tham chiếu cho nhà phát hành cũng như các nhà đầu tư
trên thị trường sơ cấp. Thông qua cơ chế bàn tay vô hình,
vốn sẽ được chuyển đến công ty nào làm ăn có hiệu quả
nhất, qua đó làm tăng hiệu quả kinh tế xã hội.

Tóm lại, thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có


quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau. Về bản chất, mối quan
hệ giữa thị trường chứng khoán sơ cấp và thứ cấp là mối
quan hệ nội tại, biện chứng. Nếu không có thị trường sơ cấp
sẽ không có thị trường thứ cấp, đồng thời, thị trường thứ
cấp lại tạo điều kiện phát triển cho thị trường sơ cấp.

c. Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường

Thị trường chứng khoán có thể được tổ chức theo hai


cách sau:

Cách thứ nhất, được tổ chức thành sở giao dịch, tại


đây, người mua và người bán( hoặc đại lý, môi giới của họ)
gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch
mua bán, trao đổi chứng khoán. Chính vì vậy, người ta còn
gọi sở giao dịch chứng khoán là sở giao dịch tập trung, nơi
giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán của các công
ty lớn, hoạt động có hiệu quả. Sở giao dịch chứng khoán
được quản lý chặt chẽ bởi Uỷ ban chứng khoán quốc gia,
các giao dịch chịu điều tiết của luật chứng khoán và thị
trường chứng khoán. Những thị trường chứng khoán tiêu

10
biểu được biết đến là sở giao dịch chứng khoán Luân đôn,
Sở giao dịch chứng khoán Mỹ, Sở giao dịch chứng khoán
Pari

Cách thứ hai, khác với thị trường tập trung, thị
trường giao dịch qua quầy hay thị trường giao dịch phi tập
trung (OTC: Over- The- Counter Market) là thị trường giao
dịch của các nhà buôn, những người tạo thị trường( Market
Makers).

Ngoài hai thị trường nói trên, người ta còn nói đến thị
trường thứ ba, thị trường dành cho các chứngkhoán không
đủ tiêu chuẩn để giao dịch trên thị trường tập trung và thị
trường OTC. Ngoài ra, người ta còn phân loại thị trường
chứng khoán thành thị trường mở và thị trường đàm phán,
thị trường giao ngay và thị trường kỳ hạn. Việc phân loại thị
trường chứng khoán sẽ giúp việc phân tích cụ thể hơn vai
trò của thị trường chứng khoán.

3. Các chủ thể trên thị trường chứng khoán

Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng


khoán có thể được chia thành 3 nhóm sau: chủ thể phát
hành, chủ thể đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng
khoán.

3.1. Chủ thể phát hành

Chủ thể phát hành là người cung cấp các chưng


khoán- hàng hóa của thị trường chứng khoán. Các chủ thể
phát hành bao gồm: Chính phủ, các doanh nghiệp và một

11
số tổ chức khác như: Quỹ đầu tư, tổ chức tài chính trung
gian...

• Chính phủ và chính quyền địa phương là chủ thể phát


hành các chứng khoán: Trái phiếu Chính phủ; Trái phiếu
địa phương; trái phiếu công trình; tín phiếu kho bạc.
• Công ty là chủ thể phát hành các cổ phiếu và trái phiếu
công ty.
• Các tổ chức tài chính là chủ thể phát hành các công cụ
tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ hưởng thụ... phục
vụ cho mục tiêu huy động vốn và phù hợp với đặc thù
hoạt động của họ theo luật định.
3.2. Nhà đầu tư

Chủ thể đầu tư là những người có tiền, thực hiện việc


mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán để
tìm kiếm lợi nhuận. Nhà đầu tư có thể được chia thành hai
loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.

- Các nhà đầu tư cá nhân

Nhà đầu tư cá nhân là các cá nhân và hộ gia đình,


những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán
trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi
nhuận. Tuy nhiên, trong đầu tư thì lợi nhuận lại luôn gắn với
rủi ro, kỳ vọng lợi nhuận càng cao thì mức độ chấp nhận rủi
ro phải càng lớn và ngược lại. Chính vì vậy các nhà đầu tư
cá nhân luôn phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp
với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của mình.

12
- Các nhà đầu tư có tổ chức

Nhà đầu tư có tổ chức là các định chế đầu tư, thường


xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị
trường. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên thị
trường chứng khoán là các ngân hàng thương mại, công ty
chứng khoán, công ty đầu tư, các công ty bảo hiểm, quỹ
tương hỗ, các quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội
khác. Đầu tư thông qua các tổ chức đầu tư có ưu điểm là đa
dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được
thực hiện bởi các chuyên gia có chuyên môn và có kinh
nghiệm.

3.3. Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng


khoán

a- Cơ quan quản lý và giám sát hoạt động


TTCK

Cơ quan quản lý và giám sát hoạt động TTCK được


hình thành dưới nhiều mô hình tổ chức hoạt động khác
nhau, có nước do tổ chức tự quản thành lập, có nước cơ
quan này trực thuộc Chính phủ, nhưng có nước lại có sự kết
hợp quản lý giữa các tổ chức tự quản và Nhà nước. Nhưng
tựu chung lại, cơ quan quản lý Nhà nước về TTCK do chính
phủ của các nước thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích của
người đầu tư và đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt
động lành mạnh, an toàn và phát triển bền vững.

13
Cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán
có thể có những tên gọi khác nhau, tuỳ thuộc từng nước và
nó được thành lập để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước
đối với thị trường chứng khoán.

b- Sở giao dịch chứng khoán

Sở giao dịch chứng khoán thực hiện vận hành thị


trường chứng khoán thông qua bộ máy tổ chức và hệ thống
các quy định, văn bản pháp luật về giao dịch chứng khoán
trên cơ sở phù hợp với các quy định của luật pháp và Uỷ
ban chứng khoán.

c- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán

Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức


tự quản của các công ty chứng khoán và một số thành viên
khác hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành lập
với mục đích bảo vệ lợi ích cho các thành viên và các nhà
đầu tư trên thị trường.

Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán thường là


một tổ chức tự quản, thực hiện một số chức năng sau:

- Đào tạo, nghiên cứu trong lĩnh vực chứng khoán.

- Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng


khoán

- Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên
cơ sở các quy định pháp luật về chứng khoán hiện hành.

- Giải quyết tranh chấp giữa các thành viên.

14
- Tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong
ngành chứng khoán.

- Hợp tác với chính phủ và các cơ quan khác để giải


quyết các vấn đề có tác động đến hoạt động kinh doanh
chứng khoán.

d- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứngkhoán

Là tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành


các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng
khoán. Các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán
đáp ứng đủ điều kiện của Uỷ ban chứng khoán sẽ thực hiện
dịch vụ lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán.

e- Các tổ chức hỗ trợ

Là các tổ chức được thành lập với mục đích khuyến


khích mở rộng và tăng cường của thị trường chứng khoán
thông qua các hoạt động như: cho vay tiền để mua cổ phiếu
và cho vay chứng khoán để bán trong các giao dịch bảo
chứng. Các tổ chức hỗ trợ chứng khoán ở các nước khác
nhau có đặc điểm khác nhau, có một số nước không cho
phép thành lập các tổ chức này.

f- Các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm

Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là công ty chuyên


cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản
vốn gốc và lãi đúng thời hạn và tiềm lực tài chính của tổ
chức phát hành theo những điều khoản đã cam kết của tổ
chức phát hành cụ thể.

15
Hệ số tín nhiệm có thể biểu hiện bằng các chữ cái hay
chữ số, tuỳ theo quy định của từng công ty xếp hạng.

Các nhà đầu tư có thể dựa vào các hệ số tín nhiệm về


tổ chức phát hành do các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm
cung cấp để cân nhắc đưa ra quyết định đầu tư của mình

Các công ty đánh giá (xếp hạng) hệ số tín nhiệm có


vai trò quan trọng trong việc phát hành các chứng khoán,
đặc biệt là phát hành các chứng khoán quốc tế.

4. Vai trò của thị trường chứng khoán

Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực với sự ra


đời của tổ chức Thương mại thế giới (WTO), của liên minh
Châu Âu, của các khối thị trường chung, đòi hỏi các quốc
gia phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu quả
cao. Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới
đã khẳng định vai trò quan trọng của thị trường chứng
khoán trong phát triển kinh tế:

Thứ nhất, thị trường chứng khoán, với việc tạo ra các
công cụ tài chính có tính thanh khoản cao, có thể tích tụ,
tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế.

Yếu tố thông tin và yếu tố cạnh tranh trên thị trường


sẽ đảm bảo cho việc phân phối vốn một cách có hiệu quả.
Thị trường tài chính là nơi tiên phong áp dụng công nghệ
mới và nhạy cảm với môi trường thường xuyên thay đổi.
Thực tế trên thị trường chứng khoán, tất cả các thông tin

16
được cập nhật và được chuyển tải tởi tất cả các nhà đầu
tư, nhờ đó, họ có thể phân tích và định giá cho các chứng
khoán. Chỉ những công ty có hiệu quả và bền vững mới có
thể nhận được vốn với chi phí rẻ trên thị trường.

Thị trường chứng khoán tạo ra một sự cạnh tranh có


hiệu quả trên thị trường tài chính, điều này buộc các ngân
hàng thương mại và các tổ chức tài chính phải quan tâm tới
hoạt động của chính họ và làm giảm chi phí tài chính.

Việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán có thể
làm tăng vốn tự có của các công ty và giúp họ tránh các
khoản vay có chi phí cao cũng như sự kiểm soát chặt chẽ
của các ngân hàng thương mại. TTCK khuyến khích sự cạnh
tranh của các công ty trên thị trường. Sự tồn tại của thị
trường chứng khoán cũng là yếu tố quyết định để thu hút
vốn đầu tư nước ngoài. Đây chính là các yếu tố đảm bảo
cho sự phân bố có hiệu quả các nguồn lực trong một quốc
gia cũng như trong phạm vi quốc tế.

Thứ hai, TTCK góp phần thực hiện tái phân phối
công bằng hơn, thông qua việc buộc các tập đoàn gia đình
trị phát hành chứng khoán ra công chúng, giải toả sự tập
trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn, song vẫn tập
trung vốn cho phát triển kinh tế. Việc tăng cường tầng lớp
trung lưu trong xã hội, tăng cường sự giám sát của xã hội
đối với quá trình phân phối đã giúp nhiều nước tiến xa hơn
tới một xã hội công bằng và dân chủ. Việc giải toả tập trung

17
quyền lực kinh tế cũng tạo điều kiện cạnh tranh công bằng
hơn, qua đó tạo hiệu quả và tăng trưởng kinh tế.

Thứ ba, thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho
việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp. Khi quy
mô của doanh nghiệp tăng lên, môi trường kinh doanh trở
lên phức tạp hơn, nhu cầu về quản lý chuyên trách cũng
tăng theo. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc
tiết kiệm vốn và chất xám, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình
cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Cơ chế thông tin
hoàn hảo tạo khả năng giám sát chặt chẽ của thị trường
chứng khoán đã làm tác động của các tiêu cực trong quản
lý, tạo điều kiện kết hợp hài hoà giữa lợi ích của chủ sở hữu,
nhà quản lý và những người làm công.

Thứ tư, hiệu quả của quốc tế hoá thị trường chứng
khoán. Việc mở cửa của thị trường chứng khoán làm tăng
tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều này
cho phép các các công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ
hơn, tăng cường đầu tư nguồn tiết kiệm bên ngoài, đồng
tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và mở rộng các cơ
hội kinh doanh của các công ty trong nước.

Hàn Quốc, Singapore, Thailand, Malaysia là những


minh chứng điển hình về việc tận dụng các cơ hội do thị
trường chứng khoán mang lại. Tuy nhiên, chúng ta cũng
phải xem xét các tác động tiêu cực có thể xảy ra như việc
tăng cung tiền quá mức, áp lực của lạm phát, vấn đề chảy

18
máu vốn, hoặc sự thâu tóm của người nước ngoài trên thị
trường chứng khoán.

Thứ năm, thị trường chứng khoán tạo cơ hội cho


chính phủ huy động các nguồn tài chính mà không tạo áp
lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực
hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ.

Thứ sáu, thị trường chứng khoán cung cấp một dự


báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh trong tương lai. Việc
thay đổi giá chứng khoán có xu hướng đi trước chu kỳ kinh
doanh cho phép chính phủ cũng như các công ty đánh giá
kế hoạch đầu tư cũng như việc phân bổ các nguồn lực của
họ. Thị trường chứng khoán cũng tạo điều kiện tái cấu trúc
nền kinh tế.

Ngoài những tác động tích cực trên đây, thị trường
chứng khoán cũng có những tác động tiêu cực nhất định.
Thị trường chứng khoán hoạt động trên cơ sở thông tin hoàn
hảo. Song ở các thị trường mới nổi, thông tin được chuyển
đổi tới các nhà đầu tư không đầy đủ và không giống nhau.
Việc quyết định giá cả, mua bán chứng khoán của các nhà
đầu tư không dựa trên cơ sở thông tin và xử lý thông tin.
Như vậy giá cả chứng khoán không phản ánh giá trị kinh tế
cơ bản của công ty và không trở thành cơ sở để phân phối
một cách có hiệu quả các nguồn lực .

Một số tiêu thức khác của thị trường chứng khoán như
hiện tượng đầu cơ, hiện tượng xung đột quyền lực làm thiệt
hại quyền lợi của các cổ đông thiểu số, việc mua bán nội

19
gián, thao túng thị trường làm nản lòng các nhà đầu tư và
như vậy, sẽ tác động tiêu cực tới tiết kiệm và đầu tư.
Nhiệm vụ của nhà quản lý thị trường là giảm thiểu các tiêu
cực của thị trường nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu
tư và đảm bảo tính hiệu quả của thị trường.

Như vậy, vai trò của thị trường chứng khoán thể hiện
trên nhiều khía cạnh khác nhau. Song vai trò tích cực hay
tiêu cực của thị trường chứng khoán có thực sự phát huy
hay hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia
thị trường và sự quản lý của nhà nước.

II- Chứng khoán và việc phát hành chứng khoán


1. Chứng khoán và phân loại chứng khoán

a- Khái niệm và đặc điểm của chứngkhoán

Chứng khoán là những giấy tờ có giá và có khả năng


chuyển nhượng, xác định số vốn đầu tư( tư bản đầu tư);
chứng khoán có xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ
hợp pháp, bao gồm các điều kiện về thu nhập và tài sản
trong một thời hạn nào đó.

Thuật ngữ “giấy tờ có giá” có nghĩa rộng hơn là thuật


ngữ là chứng khoán. Chứng khoán là một tài sản tài chính
có các đặc điểm cơ bản sau:

Tính thanh khoản( tính lỏng): Tính lỏng của tài sản là
khả năng chuyển tài sản đó thành tiền mặt. Khả năng này
cao hay thấp phụ thuộc vào khoảng thời gian và chi phí cần

20
thiết cho việc chuyển đổi và rủi ro của việc sút giá trị của
tài sản đó do việc chuyển đổi. Chứng khoán có tính lỏng cao
hơn so với các tài sản khác

Tính rủi ro: Chứng khoán là tài sản tài chính mà giá trị
của nó chịu tác động lớn của rủi ro, bao gồm rủi ro có hệ
thống và rủi ro không có hệ thống. Rủi ro có hệ thống hay
là rủi ro thị trường là loại rủi ro tác động tới toàn bộ hoặc
hầu hết các tài sản. Loại rủi ro này chịu tác động của các
điều kiện kinh tế chung như: lạm phát, sự thay đổi tỷ giá hối
đoái, lãi suất... Rủi ro không có hệ thống là loại rủi ro chỉ tác
động đến một tài sản hay một nhóm nhỏ các tài sản. Loại
rủi ro này thường liên quan tới điều kiện của nhà phát hành.

Tính sinh lợi: Chứng khoán là một tài sản tài chính mà
khi sở hữu nó, nhà đầu tư muốn nhận được một thu nhập
lớn hơn trong tương lai. Thu nhập này được bảo đảm bằng
lợi tức được phân chia hàng năm và việc tăng giá chứng
khoán trên thị trường. Khả năng sinh lợi bao giờ cũng quan
hệ chặt chẽ với rủi ro của tài sản, thể hiện nguyên lý – mức
độ chấp nhận rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng
lớn.

Hình thức của chứng khoán. Hình thức của chứng


khoán có thu nhập ( cố định hoặc biến đổi) thường bao gồm
phần bìa và phần bên trong. Ngoài bìa ghi rõ quyền đòi nợ
hoặc quyền tham gia góp vốn. Số tiền ghi trên chứng
khoán được gọi là mệnh giá của chứng khoán. Đối với giấy

21
tờ có giá với lãi suất cố định bên trong có phiếu ghi lợi tức
(Coupon) – ghi rõ lãi suất hoặc lợi tức sẽ được hưởng.

b- Phân loại chứng khoán

Tuỳ theo cách chọn tiêu thức, người ta có thể phân


loại chứng khoán thành nhiều loại khác nhau. Tuy nhiên ở
đây, chứng khoán được chia thành ba tiêu thức chủ yếu, đó
là theo tính chất của chứng khoán, theo khả năng chuyển
nhượng và theo khả năng thu nhập.

Cách phân chia này tạo điều kiện cho người đầu tư
nhận biết dễ dàng các loại chứng khoán đang được lưu
thông và giúp họ lựa chọn cách thức đầu tư phù hợp.

b.1. Phân loại chứng khoán theo tính chất

Theo tính chất của chứng khoán, các loại chứng khoán
được phân thành: Chứng khoán vốn; chứng khoán nợ và
chứng khoán phái sinh.

* Chứng khoán vốn:

Chứng khoán vốn là chứng thư xác nhận sự góp vốn và


quyền sở hữu phần vốn góp và các quyền hợp pháp khác
đối với tổ chức phát hành. Đại diện cho chứng khoán vốn là
cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư.

Cổ phiếu là một loại chứng khoán vốn được phát hành


dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền
sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với tài sản hoặc vốn của công

22
ty cổ phần. Cổ phiếu là công cụ tài chính có thời hạn thanh
toán là vô hạn.

* Chứng khoán nợ:

Chứng khoán nợ, điển hình là trái phiếu, tín phiếu là


một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát
hành (người đi vay) phải trả cho người đứng tên sở hữu
chứng khoán ( người cho vay) một khoản tiền nhất định bao
gồm gốc và lãi trong thời gian cụ thể.

Đặc trưng cơ bản của trái phiếu:

+ Mệnh giá và lãi suất của trái phiếu

+Thời gian đáo hạn

* Chứng khoán phái sinh

Chứng khoán phái sinh là các công cụ tài chính có


nguồn gốc từ chứng khoán và có quan hệ chặt chẽ với các
chứng khoán gốc.

Các chứng khoán phái sinh được hình thành do nhu


cầu giao dịch của người mua và người bán và phát triển phụ
thuộc vào mức độ phát triển của thị trường chứng khoán. Có
thể phân loại chứng khoán phái sinh thành các loại như
sau:

Thứ nhất là: Quyền mua trước

Quyền mua trước hay là đặc quyền mua là một quyền


ưu đãi được gắn với một cổ phiếu đang lưu hành, do công ty
phát hành ra cổ phiếu đó để huy động thêm vốn cổ phần,

23
quyền mua trước cho phép người sở hữu những cổ phần
đang lưu hành được mua một số nhất định cổ phiếu trong
đợt phát hành mới của công ty, tại một mức giá xác định
thấp hơn mức giá chào bán ra công chúng trong một thời
hạn nhất định.

Thứ hai là: Chứng kế

Chứng kế hay còn gọi là bảo chứng phiếu (cam kết


bán) là một loại chứng khoán được phát hành cùng với trái
phiếu hay cổ phiếu ưu đãi mà người sở hữu nó có quyền
được mua một số lượng chứng khoán nhất định tại một mức
giá xác định và trong một thời hạn nhất định.

Thứ ba là: Hợp đồng kỳ hạn

Hợp đồng kỳ hạn là một thoả thuận giữa người mua và


người bán thực hiện một giao dịch hàng hoá ở một thời
điểm chắc chắn trong tương lai với mức giá và khối lượng
xác định.

Thứ tư là: Hợp đồng tương lai

Hợp đồng tương lai là một thoả thuận để mua hoặc


bán một tài sản vào thời điểm chắc chắn trong tương lai
với mức giá xác định.

Thứ năm là: Quyền chọn

Hợp đồng quyền chọn là một hợp đồng cho phép người
nắm giữ được mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc được bán
(nếu là quyền chọn bán) một khối lượng hàng hoá cơ sở

24
nhất định tại một mức giá xác định trong một thời gian nhất
định.

b.2. Phân loại chứng khoán theo khả năng chuyển


nhượng

Theo cách thức này chứng khoán được phân thành


chứng khoán ghi danh và chứng khoán vô danh

Chứng khoán vô danh là giấy xác nhận quyền sở hữu


hoặc quyền đòi nợ không ghi tên chủ sở hữu

Chứng khoán ghi danh là giấy xác nhận quyền sở hữu


hoặc quyền đòi nợ có ghi tên chủ sở hữu. Loại chứng khoán
này được phép chuyển nhượng nhưng phải tuân theo những
quy định pháp lý cụ thể.

b.3. Phân loại chứng khoán theo thu nhập

Tuỳ theo loại thu nhập chứng khoán được chia thành
các loại sau:

Thứ nhất là: Chứng khoán có thu nhập cố định.

Chứng khoán có thu nhập cố định là loại chứng khoán


có quyền yêu cầu thu nhập cố định không phụ thuộc vào
kết quả hoạt động của nhà phát hành. Nó có thể là chứng
khoán vô danh hoặc chứng khoán đích danh, có thể là tín
phiếu, trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi. Thông thường, việc
phát hành các loại chứng khoán có thu nhập cố định phải
kèm theo những quy định pháp lý cụ thể nhằm bảo vệ lợi
ích của nhà đầu tư.

25
Thứ hai là chứng khoán có thu nhập biến đổi

Cổ phiếu thường đại diện cho loại chứng khoán có thu


nhập biến đổi. Thu nhập do việc cổ phiếu mang lại gọi là cổ
tức (hay lợi tức cổ phần), nó biến động theo kết quả kinh
doanh của công ty.

Thứ ba là hình thức hỗn hợp của chứng khoán

Hình thức hỗn hợp của chứng khoán vừa mang tính
chất của chứng khoán có thu nhập cố định, vừa mang tính
chất của chứng khoán có thu nhập biến đổi. Việc phát hành
loại chứng khoán này nhằm để thích ứng với nhu cầu đặc
biệt của thị trường vốn.

2. Phát hành chứng khoán

2.1. Các chủ thể phát hành

Thứ nhất là Chính phủ.

Mục đích phát hành của chính phủ là bù đắp sự thiếu


hụt của ngân sách và huy động vốn để tài trợ cho các công
trình, dự án lớn và quan trọng. Chính phủ phát hành các loại
chứng khoán bao gồm: Trái phiếu Chính phủ, Trái phiếu
công trình và Tín phiếu kho bạc.

Thứ hai là các doanh nghiệp

Các doanh nghiệp phát hành ra chứng khoán để huy


động vốn và tăng vốn cho sản xuất kinh doanh bên cạnh
nguồn vốn đi vay từ các ngân hàng thương mại. Trong nền
kinh tế thị trường chỉ có các công ty cổ phần và doanh

26
nghiệp cổ phần hoá là tổ chức được phép phát hành cả trái
phiếu và cổ phiếu.

Thứ ba là các quỹ đầu tư

Quỹ đầu tư là những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp,


được hình thành bằng vốn góp của các nhà đầu để tiến
hành đầu tư vào chứng khoán và các loại hình đầu tư khác.
Mục đích của thành lập quỹ đầu tư là tập hợp và thu hút
những nhà đầu tư nhỏ, lẻ tham gia kinh doanh.

2.2. Các phương thức phát hành chứng khoán

Thứ nhất: Phân loại theo đợt phát hành

Theo tiêu thức này, người ta phân chia phương thức


phát hành thành phát hành chứng khoán lần đầu và phát
hành các đợt tiếp theo.

Thứ hai: Phân loại theo đối tượng mua bán chứng
khoán

Theo đối tượng mua bán chứng khoán, phương thức


phát hành được phân chia thành:

Phát hành riêng lẻ: là việc phát hành trong đó chứng


khoán được bán trong phạm vi một số người nhất định
(thông thường là nhà đầu tư có tổ chức), với những điều
kiện hạn chế và khối lượng phát hành phải đạt một mức
nhất định.

Phát hành ra công chúng: là hình thức phát hành


trong đó chứng khoán được phát hành rộng rãi ra công

27
chúng cho một số lượng lớn các nhà đầu tư nhất định,
trong đó phải đảm bảo một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ.
Ngoài ra tổng khối lượng phát hành chứng khoán cũng phải
đạt một tỷ lệ theo quy định.

Việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải được


cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán cấp giấy phép
hoặc chấp thuận. Sau khi phát hành trên thị trường sơ cấp,
chứng khoán sẽ được giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán
khi đã đáp ứng được các quy định về niêm yết chứng khoán
của sở giao dịch chứng khoán. Tổ chức phát hành chứng
khoán ra công chúng phải thực hiện một chế độ báo cáo,
công bố thông tin công khai và chịu sự quản lý, giám sát
riêng theo quy định của pháp luật về chứng khoán và thị
trường chứng khoán.

Việc phát hành ra công chúng được phân biệt thành


hai hình thức: phát hành cổ phiếu ra công chúng và phát
hành trái phiếu ra công chúng.

- Trường hợp phát hành cổ phiếu ra công chúng,


việc phát hành được tiến hành theo một trong hai phương
thức sau:

+ Phát hành lầnđầu ra công chúng (IPO): là việc phát


hành trong đó cổ phiếu của công ty lần đầu tiên được bán
rộng rãi cho các công chúng đầu tư. Nếu cổ phần được bán
lần đầu cho công chúng nhằm tăng vốn thì đó là IPO sơ
cấp, còn khi cổ phần được bán lần đầu từ số cổ phần hiện
hữu thì đó là IPO thứ cấp.

28
+ Chào bán sơ cấp (phân phối sơ cấp): là đợt phát
hành cổ phiếu bổ sung của công ty cho rộng rãi các công
chúng đầu tư.

Trường hợp phát hành trái phiếu ra công chúng, việc


phát hành được thực hiện bằng phương thức duy nhất, đó
là chào bán sơ cấp.

3. Cách thức đầu tư chứng khoán

Nhà đầu tư có thể tham gia đầu tư vào thị trường


chứng khoán trên hai thị trường thị trường sơ cấp và thị
trường thứ cấp: Nhà đầu tư tham gia đấu giá cổ phần tại
các trung tâm giao dịch chứng khoán, hoặc công ty chứng
khoán làm đại lý nhận lệnh (thường là công ty làm tư vấn
phát hành cho công ty cổ phần). Thị trường thứ cấp: Nhà
đầu tư không đến trực tiếp các trung tâm giao dịch mà mở
tài khoản tại các công ty chứng khoán để thực hiện giao
dịch theo nguyên tắc trung gian đối với chứng khoán niêm
yết và đăng ký giao dịch. Còn đối với các chứng khoán chưa
niêm yết hoặc chưa đăng ký giao dịch thì không cần điều
kiện này.

3.1. Thị trường sơ cấp

a- Đầu tư thông qua đấu giá cổ phần

Khi tham gia đấu giá nhà đầu tư thực hiện thông qua
các bước sau:

Bước 1: Nhà đầu tư tìm kiếm thông tin về đợt đấu giá:
công bố trên các website: www.ssc.gov.vn,

29
www.hastc.org.vn, www.vafi.org.vn,...; Bao gồm bản công
bố thông tin: tóm tắt tình hình hoạt động của doanh nghiệp,
và bản quy chế đấu giá: Quy định về thời gian đăng ký nộp
tiền đặt cọc, và thời gian bỏ giá.

Bước 2: Nhà đầu tư đến địa điểm tổ chức đấu giá: nộp
tiền đặt cọc, được nhận về phiếu đấu giá.

Bước 3: Đến buổi đấu giá nhà đầu tư bỏ phiếu đấu giá
vào hòm. Sau đó tổ chức đấu giá sẽ đóng hòm và mở phiếu
tham dự đấu giá, nhập từng lệnh của nhà đầu tư (theo mã
số) trên bảng điện tử. Giá đấu sẽ được tính từ cao xuống
thấp.

Bước 4: Nhà đầu tư nếu chúng sẽ nộp phần tiền còn


lại. Nếu không chúng sẽ nhận tiền đặt cọc về. Bốn bước trên
được tóm tắt trên hình sau:

Các bước đầu tư thông qua đấu giá cổ phiếu


Tìm hiểu thông tin về đợt
đấu giá

đăng ký đấu giá

Tham gia đấu giá

Nhận tiền đặt cọc Nộp phần tiền còn


lại

30
(Đấu giá không thành công) (Đấu giá thành công)

b- Đầu tư thông qua đấu thầu trái phiếu

Khi tham gia đấu thầu nhà đầu tư thực hiện thông qua các
bước sau:
Bước 1: Tìm hiểu thông tin về đợt đấu thầu trái phiếu trên
các trang website: www.sse.gov.vn, www.hastc.org.vn,
www.vse.org.vn,...
Bước 2: Nộp tiền đặt cọc và nhận phiếu đấu thầu
Bước 3: Tham dự đấu thầu và bỏ thầu. Lãi suất bỏ thầu
thấp sẽ trúng giá, bỏ lãi suất cao sẽ không trúng giá. Các
bước tham dự đấu thầu được thể hiện thông qua hình sau:
Các bước tham gia đấu thầu trái phiếu

Tìm hiểu thông tin về đợt


đấu thầu

Nộp tiền đặt cọc

Tham dự đấu thầu

Nhận tiền đặt cọc Nộp phần tiền còn lại

(Đấu thầu không thành công) (Đấu thầu thành công)

31
3.2. Thị trường thứ cấp

a-Đầu tư thông qua thị trường niêm yết và đăng ký


giao dịch

Đầu tư trên thị trường niêm yết (trung tâm GDCK


HCM) và đăng ký giao dịch (trung tâm GDCK HN) được thể
hiện qua minh hoạ và các bước sau:

Các bước tham gia đầu tư trên thị trường niêm yết và đăng
ký giao dịch
Mở tài khoản tại các công
ty CK
Nghjên cứu hồ sơ các công ty trên
thị trường
Có thể tham khảo ý kiến
tư vấn

Đặt lệnh mua, bán

Bước 1: Các nhà đầu tư muốn mua bán chứng khoán trên
hai trung tâm này phải tuân thủ theo nguyên tắc trung
gian: Tức là phải tiến hành mở tài khoản tại các công ty
chứng khoán là thành viên của trung tâm giao dịch, thông
thường tất cả 14 công ty chứng khoán hiện đang hoạt động
trên thị trường đều là thành viên của hai trung tâm giao
dịch.

32
Bước 2: Nghiên cứu hồ sơ các công ty có trên thị trường để
đầu tư: Có thể qua các bản tin chứng khoán hàng ngày, qua
hồ sơ lưu trữ tại các công ty chứng khoán, hoặc qua các
trang thông tin mạng: www.vietstock.com.vn,
www.vse.org.vn, www.hastc.org.vn, www.sse.gov.vn,
www.vafi.org.vn,... Và các trang website của quỹ đầu tư
nước ngoài: www.mekongcapital.com.vn,
www.vinafund.com, www.dragoncapital.com,
www.pxpam.com,... Hoặc các trang website của công ty
niêm yết, hoặc đăng ký giao dịch.

Bước 3: Tham khảo ý kiến tư vấn của các công ty chứng


khoán, trong trường hợp này nhà đầu tư phải trả phí tư vấn,
Công ty chứng khoán, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn miễn khoản phí tư vấn này cho các nhà đầu tư
khi giao dịch tại công ty

Bước 4: Đặt lệnh mua, bán. Sau khi lệnh được đặt sẽ được
đưa vào để chờ khớp. Nếu lệnh khớp được thì sau thời gian
quy định nhà đầu tư sẽ có chứng khoán mua, hoặc tiền do
bán chứng khoán.

b-Đầu tư cổ phiếu ngoài sàn (OTC)

Cách thức tham gia đầu tư: Có thể mua trực tiếp giữa
các nhà đầu tư, hoặc qua các nhân viên môi giới. Sau đây
là các bước cụ thể:

Đầu tư cổ phiếu ngoài sàn giữa các nhà đầu tư

Gọi điện cho nhà đầu tư khác thoả


thuận giá

33
Nhận cổ phiếu hoặc quyền mua theo
thoả thuận

Hiện tại, nhà nước cho phép mua bán cổ phiếu theo
hình thức này, nhằm nâng tính thanh khoản cho các cổ
phiếu, và đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá.

Đầu tư cổ phiếu ngoài sàn thông qua môi giới

Gọi điện cho môi giới thoả thuận


giá

Đặt cọc 10% giá trị cổ phiếu muốn mua


hay bán

Nhận cổ phiếu hoặc tiền theo thoả


thuận

Cả người mua hoặc người muốn bán đều phải đặt cọc 10% cho
các môi giới.

Hiện nay, chưa có quy định nào áp dụng cho loại hình
mua bán như trên, song các môi giới để đảm bảo, thường
bắt nhà đầu tư muốn mua, hoặc bán phải đặt cọc, rồi sau
đó các môi giới sẽ đi tìm người mua bán khác, hoặc thông
qua các môi giới khác, và hưởng chênh lệch giá ở giữa.

III- Niêm yết chứng khoán

34
1. Khái niệm , chức năng của sở giao dịch chứng
khoán

* Khái niệm: Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) từ xưa


đến nay vẫn được hiểu là một địa điểm họp chợ có tổ chức,
tại đó các chứng khoán niêm yết được những thành viên
giao dịch theo những quy định nhất định về phương thức
giao dịch, thời gian và địa điểm cụ thể. Trong đó, các thành
viên giao dịch chính là các nhà môi giới hưởng hoa hồng
hoặc kinh doanh chứng khoán cho chính mình tham gia giao
dịch trên sàn hoặc thông qua hệ thống giao dịch đã được
điện toán hoá.

Sở giao dịch chứng khoán là thị trường giao dịch


chứng khoán được thực hiện tại một địa điểm tập trung gọi
là sàn giao dịch hoặc thông qua hệ thống máy tính. Các
chứng khoán được niêm yết giao dịch tại SGDCK thông
thường là chứng khoán của các công ty lớn, có danh tiếng
và đã trải qua thử thách trên thị trường và đáp ứng được
các tiêu chuẩn niêm yết (gồm các tiêu chuẩn định tính và
định lượng) do SGDCK đặt ra.

* Chức năng của SGDCK

Việc thiết lập một thị trường giao dịch chứng khoán có
tổ chức, vận hành liên tục với các chứng khoán được chọn
lựa là một trong những chức năng quan trọng nhất của
SGDCK. Mặc dù hoạt động của SGDCK không mang lại vốn
trực tiếp cho tổ chức phát hành, nhưng thông qua SGDCK
các chứng khoán phát hành được giao dịch liên tục, làm

35
tăng tính thanh khoản và khả mại cho các chứng khoán.
Các tổ chức phát hành có thể phát hành tăng vốn qua thị
trường chứng khoán, các nhà đầu tư có thể dễ dàng mua
hoặc bán chứng khoán niêm yết một cách dễ dàng và
nhanh chóng.

Chức năng xác định giá cả công bằng là cực kỳ quan


trọng trong việc tạo ra một thị trường liên tục. Giá cả không
do SGDCK hay thành viên SGDCK áp đặt mà được SGDCK
xác định trên cơ sở khớp các lệnh mua và bán chứng khoán.

2. Tổ chức và hoạt động của SGDCK

Mặc dù thị trường chứng khoán các quốc gia trên thế
giới có thời điểm ra đời khác nhau, theo mô hình cổ điển
hay mô hình mới nổi và hình thức sở hữu khác nhau (cổ
phần, thành viên, nhà nước), nhưng SGDCK đều có cấu trúc
như sau:

Đại hội đồng cổ


đông
(Hội đồng thành
viên)
Hội đồng quản trị

Ban giám đốc

Các phòng chức


năng

p. kế P.
Phòn Phòn P. P.
P. toán công Văn
g g giá 36 n/c
giao kiểm nghệ phòn
thành niêm m phát
dịch tin g
viên yết sát triển
toán học
* Hội đồng quản trị

Hội đồng quản trị (HĐQT) là cơ quan quản lý cấp cao


nhất, HĐQT có các thành viên đại diện là những người có
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến thị trường chứng
khoán. Thành viên HĐQT gồm: đại diện của công ty chứng
khoán thành viên; một số đại diện không phải là thành viên
như tổ chức niêm yết; giới chuyên môn; nhà kinh doanh;
chuyên gia luật và thành viên đại diện cho Chính phủ.

Các đại diện của công ty chứng khoán thành viên


được xem là thành viên quan trọng nhất của HĐQT. Các
công ty chứng khoán thành viên có nhiều kinh nghiệm và
kiến thức trong việc điều hành thị trường chứng khoán.

37
Quyết định của HĐQT có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt
động kinh doanh của các thành viên. Vì vậy, các đại diện
của các thành viên nên được bày tỏ các ý kiến của mình tại
HĐQT.

Quyền hạn của Hội đồng quản trị:

Hội đồng quản trị SGDCK ra các quyết nghị về các lĩnh
vực chính sau:

- đình chỉ và rút giấy phép thành viên


- Chấp thuận, đình chỉ và huỷ bỏ niêm yết chứng khoán
- Chấp thuận kế hoạch và ngân sách hàng năm của
SGDCK
- Ban hành và sửa đổi các quy chế hoạt động của SGDCK
- Giám sát hoạt động của thành viên
- Xử phạt các hành vi, vi phạm quy chế của SGDCK.
Ngoài ra HĐQT có thể trao một số quyền cho tổng giám đốc
SGDCK trong điều hành.

* Ban giám đốc điều hành

Ban giám đốc điều hành chịu trách nhiệm về hoạt


động của SGDCK, giám sát các hành vi giao dịch của các
thành viên, dự thảo các quy định quy chế của SGDCK. Ban
giám đốc hoạt động một cách độc lập nhưng chịu sự chỉ đạo
trực tiếp từ HĐQT.

* Các phòng ban

Các chức năng của SGDCK càng nhiều, cơ quan quản


trị cần phải chia thành nhiều ban, các ban này có chức năng

38
tư vấn, hỗ trợ cho HĐQT và ban giám đốc điều hành trên cơ
sở đưa ra các ý kiến đề xuất thuộc lĩnh vực của ban. Ngoài
ra, ở một số SGDCK còn thành lập một số ban đặc biệt để
giải quyết các vấn đề đặc biệt về quản lý, tư vấn hoặc xử
phạt. Tất cả hoặc một số thành viên của Ban là thành viên
HĐQT và nằm trong số các thành viên bên trong hoặc thành
viên bên ngoài SGDCK.

3. Thành viên sở giao dịch chứng khoán.

SGDCK có các thành viên giao dịch chính là các nhà


môi giới hưởng hoa hồng hoặc kinh doanh chứng khoán cho
chính mình tham gia giao dịch trên sàn hoặc thông qua hệ
thống giao dịch đã được điện toán hoá. Công ty chứng
khoán là thành viên của SGDCK và được hưởng các quyền,
cũng như nghĩa vụ do SGDCK quy định. Chuẩn mực kinh
doanh của các thành viên theo quy định do SGDCK đặt ra,
nhằm đảm bảo quyền lợi cho khách hàng và duy trì một thị
trường hoạt động công bằng, hiệu quả.

- Phân loại thành viên

Thành viên được phân loại theo quyền của thành viên
đó là thành viên chính và thành viên đặc biệt. Trong đó
thành viên chính là thành viên thường tham gia ngay từ khi
mới thành lập SGDCK và được biểu quyết và được phân chia
tài sản của SGDCK. Còn thành viên đặc biệt là thành viên
mới gia nhập SGDCK sau này, nhằm giảm bớt gánh nặng về
tài chính cho các thành viên cũ và tăng quy mô hoạt động
của thị trường.

39
Đối với thị trường phát triển, ví dụ như tại SGDCK New
York, thành viên được phân chia làm nhiều loại dựa trên các
chức năng của mình, như thành viên là các chuyên gia thị
trường, nhà môi giới của công ty thành viên, nhà môi giới
độc lập, nhà tạo lập thị trường, và người giao dịch cạnh
tranh, các nhà môi giới trái phiếu.

- Tiêu chuẩn thành viên

+ Yêu cầu về tài chính: đáp ứng vốn góp cổ đông, vốn
điều lệ và tổng tài sản có thể được quy định như là các yêu
cầu tài chính bắt buộc đối với các thành viên SGDCK.

+Quy định về nhân sự: Số lượng và chất lượng của


ban điều hành, các nhà phân tích chứng khoán và các
chuyên gia khác phải được quy định trong quy chế nhân sự.

+Điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật: Công ty xin làm


thành viên phải có trụ sở chính, các chi nhánh, văn phòng
giao dịch cũng như cơ sở vật chất, trang thiết bị phải đáp
ứng được yêu cầu của kinh doanh như các trạm đầu cuối để
nhận lệnh, xác nhận lệnh, các bảng hiển thị điện tử.

- Thủ tục kết nạp thành viên


Thảo luận sơ bộ
Quy trình và thủ tục kết nạp thành viên bao gồm các
bước sau: Nộp hồ sơ xin kết
nạp

Thẩm định

HĐQT ra quyết
định

Thanh toán các


khoản phí
40

Kết nạp
4. Niêm yết chứng khoán

* Khái niệm: Niêm yết chứng khoán là quá trình định


danh các chứng khoán đáp ứng đủ tiêu chuẩn được giao
dịch trên SGDCK. Cụ thể, đây là quá trình SGDCK chấp
thuận cho công ty phát hành có chứng khoán được phép
niêm yết và giao dịch trên SGDCK nếu công ty đáp ứng đầy
đủ các tiêu chuẩn về định lượng cũng như định tính mà
SGDCK đề ra.

* Mục tiêu của việc niêm yết

-Thiết lập quan hệ hợp đồng giữa SGDCK với tổ chức


phát hành có chứng khoán niêm yết, từ đó quy định trách

41
nhiệm và nghĩa vụ của tổ chức phát hành trong việc công
bố thông tin, đảm bảo tính trung thực, công khai và công
bằng.

- Nhằm mục đích hỗ trợ thị trường hoạt động ổn định,


xây dựng lòng tin của công chúng đối với thị trường chứng
khoán bằng cách lựa chọn các chứng khoán có chất lượng
cao để giao dịch.

- Cung cấp cho các nhà đầu tư những thông tin về


các tổ chức phát hành.

- Giúp cho việc xác định giá chứng khoán được công
bằng trên thị trường đấu giá vì thông qua việc niêm yết
công khai, giá chứng khoán được hình thành dựa trên sự
tiếp xúc hiệu quả giữa cung và cầu chứng khoán.

* Vai trò của việc niêm yết chứng khoán đối với tổ
chức phát hành

- Thuận lợi:

+ Công ty dễ dàng trong việc huy động vốn: Niêm yết


nhằm mục đích huy động vốn thông qua việc phát hành
chứng khoán. Công ty có thể thu hút vốn dài hạn thông qua
phát hành chứng khoán với chi phí thấp.

+ Tác động đến công chúng: Niêm yết góp phần “tô
đẹp” thêm hình ảnh của công ty trong các nhà đầu tư, các
chủ nợ, người cung ứng,...

42
+ Nâng cao tính thanh khoản cho các chứng khoán:
Khi các chứng khoán được niêm yết, chúng có thể nâng cao
tính thanh khoản, mở rộng phạm vi chấp nhận làm vật thế
chấp và dễ dàng được sử dụng cho mục đích tài chính, thừa
kế và các mục đích khác.

+ Ưu đãi về thuế

- Hạn chế:

+ Nghĩa vụ báo cáo như là một công ty đại chúng:


Công ty niêm yết phải có nghĩa vụ công bố thông tin một
cách đầy đủ, chính xác và kịp thời liên quan đến các mặt
hoạt động của công ty cũng như các biến động có ảnh
hưởng đến giá cả chứng khoán niêm yết. Nghĩa vụ công bố
thông tin đại chúng trong một số trường hợp làm ảnh
hưởng đến bí quyết, bí mật kinh doanh và gây phiền hà cho
công ty.

+ Những cản trở trong thâu tóm và sáp nhập:

Niêm yết chứng khoán bộc lộ nguồn vốn và phân chia


quyền biểu quyết của công ty cho những người mua là
những người có thể gây bất tiện cho những cổ đông chủ
chốt và công việc quản lý điều hành hiện tại của công ty.
Công ty có thể gặp nhiều cản trở trong việc thực hiện mục
tiêu thâu tóm hay sap nhập của mình.

Nói tóm lại, chứng khoán và thị trường chứng khoán là


một vấn đề có nhiều lý luận. Nhưng tựu chung lại thì những

43
đặc điểm mà tôi vừa nêu trên là những nội dung căn bản
mà tôi muốn trình bày trong đề tài của mình.

Chương II- Thực trạng thị trường chứng khoán việt


nam
I-Thị trường sơ cấp .
Đầu tư thông qua thị trường sơ cấp có hai hình thức chính
là đầu tư vào cổ phiếu và đầu tư vào trái phiếu.

1. Đầu tư vào cổ phiếu.

Thực trạng của đầu tư vào cổ phiếu ở Việt Nam được


thể hiện thông qua một số điểm sau:

Thứ nhất là Doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ


phần hoá bán đấu giá qua các tổ chức trung gian tài chính.

Trong 5 năm qua, từ 2001- 2005, theo quy định của


nghị định số 187/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về chuyển công ty
nhà nước thành công ty cổ phần, chúng ta đã cổ phần hoá
được 2.188 doanh nghiệp, đưa tổng số doanh nghiệp Nhà
nước CPH lên gần 2.900 doanh nghiệp. Chúng ta sắp xếp lại
3.450 doanh nghiệp nhà nước trong tổng số 5.655 doanh
nghiệp nhà nước có vào đầu năm 2001.Vốn của nhà nước
là 33.863 tỷ đồng, bằng 12% tổng vốn nhà nước đầu tư ở
các doanh nghiệp nhà nước (280.000 tỷ đồng). Có thể nói
rằng kết thúc năm 2005 đã cơ bản hoàn thành cơ cấu lại
doanh nghiệp nhà nước, đã giảm mạnh các doanh nghiệp

44
nhà nước nhỏ, thua lỗ, DNNN tập trung hơn vào những lĩnh
vực then chốt; Việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà
nước thực hiện theo đúng tinh thần nghị quyết TW3. Nhìn
một các tổng thể và toàn diện các nhiệm vụ Trung ương đặt
ra, bao gồm sắp xếp,đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà
nước, đồng thời doanh nghiệp nhà nước phải nắm giữ những
lĩnh vực quan trọng trọng yếu của nền kinh tế.

Nghị định 187/2004/NĐ-CP là một bước tiến mạnh bạo


trong việc chuyển công ty nhà nước sang công ty cổ phần.
Sở dĩ nói là mạnh bạo là vì chúng ta vừa qua thời kỳ cơ chế
thị trường quan liêu bao cấp. Các doanh nghiệp nhà nước
chủ yếu hoạt động phụ thuộc vào ngân sách nhà nước chưa
thực sự có tính tự hạch toán kinh tế. Do đó, chúng ta có thể
nói rằng việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước là
một bước tiến lớn và rất hợp lý với tình hình kinh tế của
chúng ta hiện nay.

Nội dung của nghị định 187/2004/NĐ-CP Quy định như


sau: đối với doanh nghiệp bán đấu giá cổ phần có giá trị
dưới 1 tỷ có thể thực hiện trong nội bộ công ty. Đối với
doanh nghiệp bán đấu giá cổ phần có giá trị trên 1 tỷ đến
10 tỷ phải thực hiện thông qua các trung gian tài chính, chủ
yếu là qua các công ty chứng khoán. Đối với doanh nghiệp
bán đấu giá cổ phần có giá trị trên 10 tỷ phải thực hiện
thông qua các trung tâm giao dịch chứng khoán: Hà Nội và
TP Hồ Chí Minh. Các doanh nghiệp ở trường hợp 2 ( từ 1-10
tỷ) cũng có thể đấu giá theo hình thức này nếu muốn.

45
Năm 2005 là năm đầu tiên thực hiện hình thức bán
đấu giá cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước thực hiện
cổ phần hoá qua các trung tâm giao dịch chứng khoán. Hai
trung tâm giao dịch chứng khoán là trung tâm giao dịch
chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và trung tâm giao dịch
chứng khoán Hà Nội trong năm 2005 đã thực hiện 243 đợt
đấu giá cổ phần, so với tổng số lượng cổ phần chào bán, và
số lượng cổ phần được bán như sau:

1 Tổng số đợt đấu giá đã thực đợt 243


hiện
2 Tổng số cổ phần chào bán Cổ 352554154
phần
3 Tổng số cổ phần bán được Cổ 310499094
phần
4 Tỷ lệ cổ phần bán được so với % 88,07
chào bán
( Nguồn Tạp chí chứng khoán Việt Nam số 1+2 Năm 2006)

Nhờ có việc bán đấu giá cổ phần mà thị trường chứng


khoán Việt Nam đã trở nên sôi động. Đặc biệt là thị trường
sơ cấp, thị trường sơ cấp từ con số không trong các năm
trước nhưng đến năm 2005 đã thực sự tạo ra một sự ấn
tượng trong thị trường chứng khoán. Có tới 234 doanh
nghiệp đã thực hiện đấu giá qua hai trung tâm giao dịch với
số lượng cổ phần chào bán là 352 nghìn cổ phần tương
đương với 3520 tỷ đồng (tính theo mệnh giá chào bán là
10.000 VNĐ). Trong khi đó giá trị bán đấu giá cổ phần thu
được là 4573,3 tỷ VNĐ. Thu lợi cho nhà nước là 1468 tỷ

46
đồng (giá trị thặng dư của các đợt phát hành mà nhà đầu tư
đã trả cao hơn so với giá khởi điểm).

Bảng giá trị thặng dư của các đợt phát hành mà nhà
đầu tư đã trả cao hơn so với giá khởi điểm – năm 2005.

ĐV: Tỷ VNĐ
1 Tổng giá trị cổ phần ở mức giá khởi 3105
điểm
2 Tổng giá trị cổ phần bán được 4573,6
3 Thu lợi cho nhà nước 1468,6
(Nguồn: Tạp chí chứng khoán Việt Nam số 1 + 2 năm 2006).

So sánh số lượng cổ phần mua được với đăng ký mua


của các nhà đầu tư thì tỷ lệ này thấp, đạt tỷ lệ 66,05%, và
tính trên mỗi nhà đầu tư thì con số mua được là khoảng 53
nghìn cổ phần tương đương với 530 triệu đồng (theo mệnh
giá).

Bảng tỷ lệ cổ phần các nhà đầu tư mua được trên số lượng


cổ phần đăng ký mua – năm 2005.
1 Tổng số nhà đầu tư đăng ký Nhà đầu 582
tham gia đấu giá tư
2 Tổng số cổ phần đăng ký Cổ phần 470.072.200
mua
3 Tổng số cổ phần mua được Cổ phần 310.499.095
4 Tỷ lệ cổ phần mua được so % 66,02
với cổ phần chào bán (4=3:2)
( Nguồn: tạp chí chứng khoán Việt Nam số 1+ 2 năm 2006).

47
Qua bảng số liệu này cho ta thấy: sự phản ánh sự
tham gia tích cực của các nhà đầu tư vào thị trường này. Và
kỳ vọng những con số lớn hơn trong các năm tới.

Qua đây cho chúng ta thấy việc bán đấu giá cổ phần
góp phần chính làm sôi động thị trường sơ cấp giúp cho thị
trường chứng khoán Việt Nam có thêm những bước tiến mới
trong lĩnh vực thị trường chứng khoán.

Thứ hai là tình hình các nhà đầu tư nước ngoài tham
gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam.

Thị trường chứng khoán Việt Nam đã được 6 năm hình


thành và phát triển. Tuy nhiên, tư khi chính phủ ban hành
quyết định 238/2005/QĐ-TTg nới rộng tỷ lệ tham gia của
bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam từ
30% lên 49%, thị trường đã có những chuyển biến tích cực.

Mặc dù vậy, khoảng cách của Việt Nam với các nước
trong khu vực còn khá xa. Đặc biệt về độ lớn của thị trường
và số lượng chứng khoán niêm yết. Toàn bộ giá trị thị
trường với chứng khoán niêm yết hiện nay khoảng 5,3 tỷ
USD. Và với thói quen tích luỹ của người Việt Nam hiện
nay. Trên thực tế, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện
nay chủ yếu là sân chơi của các nhà đầu tư nhỏ lẻ, thiếu
kinh nghiệm phân tích, mua bán trên thị trường thường có
những biến động theo “cảm xúc” và những tin đồn. Số
lượng các công ty quản lý quỹ ở Việt Nam hiện nay còn ít vì
thủ tục gia nhập thị trường vốn Việt Nam khá phức tạp, đặc
biệt là khâu xin mã giao dịch.

48
Mặc dù vậy thì thị trường chứng khoán Việt Nam là
một điểm sáng để thu hút đầu tư nước ngoài. Điều đáng
mừng là chính phủ Việt Nam đã và đang có những chuyển
biến tích cực để thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp, như
việc đẩy mạnh việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước,
đưa các doanh nghiệp mạnh lên niêm yết.

Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển


sang hình thức công ty cổ phần thực hiện bán đấu giá qua
các trung gian tài chính hoặc qua các trung tâm giao dịch.

Chúng ta có thể thấy rằng, việc tham gia của các nhà
đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam
chưa nhiều. Chúng ta cần cải thiện nhiều hơn nữa về môi
trường đầu tư cho hợp lý. Đặc biệt hơn cả là hệ thống thủ
tục pháp lý.

2.Đầu tư vào trái phiếu.

Theo bộ tài chính, đến cuối năm 2005, cả nước đã


phát hành 70.000 tỷ đồng trái phiếu ra thị trường. Trong đó,
tổng số vốn huy động thông qua phát hành trái phiếu trái
phiếu chính phủ đạt gần 60.000 tỷ đồng, các tỉnh thành phố
phát hành gần 7.000 tỷ đồng (gồm thành phố Hồ Chí Minh,
Hà Nội và Đồng Nai) và các doanh nghiệp phát hành trên
2000 tỷ đồng. Bộ tài chính có kế hoạch sẽ phát hành
khoảng 18.000 tỷ đồng trái phiếu vào năm 2006 với nhiều
mục đích khác nhau, nhưng cơ bản là vì xây dựng cơ sở hạ
tầng của Việt Nam đang trong tình trạng xuống cấp như:

49
thuỷ điện Sơn La, đường biên giới, giáo dục đào tạo, các
công trình trọng điểm...

Bảng giá trị phát hành trái phiếu đã phát hành tính
đến năm 2005.

ĐV: Tỷ VNĐ
Trái phiếu CP Trái phiếu Trái phiếu DN
CQĐP
Tính đến 60.000 7.000 2.000
2005
Qua bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, trái phiếu là
một công cụ hữu hiệu để nhà nước sử dụng trong việc huy
động vốn trong nhân dân. Đối với Việt Nam thì trái phiếu
chính phủ là một công cụ an toàn tiện lợi mọi người dân
không ưa mạo hiểm thì có thể cho vay vốn của mình thông
qua hình thức này.

Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán năm
2006 có nhiều sự thay đổi.

Hoạt động đấu thầu trái phiếu chính phủ tai trung tâm
giao dịch chứng khoán theo thông tư 21/2004/TT-BTC ngày
24/3/2004 của bộ tài chính hướng dẫn việc đấu thầu trái
phiếu chính phủ, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, trái
phiếu chính quyền địa phương qua thị trường chứng khoán
giao dịch tập trung. Theo thông tư 21/BTC, trái phiếu đấu
thầu tại trung tâm giao dịch chứng khoán bao gồm: trái
phiếu kho bạc, trái phiếu công trình trung ương, trái phiếu
công trình địa phương, trái phiếu đầu tư, trái phiếu được

50
chính phủ bảo lãnh. Và các loại trái phiếu này sau khi đấu
thầu qua trung tâm giao dịch chứng khoán, được niêm yêt/
đăng ký giao dịch trên trung tâm giao dịch chứng khoán.
Song hành với việc đấu thầu trái phiếu chính phủ tại trung
tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, tính đên
ngày 30/6/2006, sau hơn một năm chính thức đi vào hoạt
động, trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã tổ chức
được 9 đợt đấu thầu trái phiếu, huy động được 1.115 tỷ
đồng. Tuy nhiên, với quyết định 2276/QĐ-BTC của bộ tài
chính ban hành ngày 20/6/2006 (Quyết định 2276/QĐ-BTC),
từ ngày 1/7/2006 hoạt động đấu thầu trái phiếu chính phủ
đã chính thức chuyển giao cho trung tâm giao dịch chứng
khoán Hà Nội đảm trách. Với mốc ngày 1/7 cho tới ngày
31/8, trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã tổ chức 5
đợt đấu thầu trái phiếu chính phủ thành công, huy động
được 1.385 tỷ đồng. Cụ thể, đợt 1 phát hành được 175 tỷ
đồng/200 tỷ đồng gọi thầu trái phiếu đô thị cho quỹđầu tư
phát triển đô thị thành phố Hồ Chí Minh (Hifu), bao gồm 100
tỷ đồng là loại cổ phiếu có kỳ hạn 5 năm và 75 tỷ đồng là
loại có kỳ hạn 10 năm; Đợt 2, huy động được 300 tỷ
đồng/300 tỷ đồng trái phiếu chính phủ kỳ hạn 5 năm gọi
thầu của kho bạc nhà nước, với mức lãi suất trúng thầu đạt
8,63%; Đợt 3, phát hành 500 tỷ đồng/500 tỷ đồng trái phiếu
chính phủ kỳ hạn 5 năm của kho bạc nhà nước phát hành,
với lãi suất 8,25%; Đợt 4, ngày 28/8 tổ chức đấu thầu 500 tỷ
đồng trái phiếu chính phủ do kho bạc nhà nước phát hành
có kỳ hạn 5 năm phát hành ngày 30/8/2006, với khối lượng

51
trái phiếu bán được là 200 tỷ đồng, lãi suất trúng thầu vẫn
là 8,25%; Và đợt 5, ngày 29/8/2006 tổ chức đấu thầu 260 tỷ
đồng trái phiếu đô thị do Quỹ Hifu phát hành, kết quả huy
động được 210 tỷ đồng. Trong đó, 110 tỷ đồng trái phiếu kỳ
hạn 10 năm lãi suất 9,25% và 100 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn
15 năm lãi suất 9,55%.

Bảng số liệu về tình hình phát hành trái phiếu:


Các đợt Loại trái Kỳ hạn Lãi suất đạt được (tỷ
phiếu đồng)
đợt 1 Trái phiếu 5 100
đô
thị 10 75
đợt 2 TPCP 5 8,63% 300
đợt 3 TPCP 5 8,25% 500
đợt 4 TPCP 5 8,25% 200
đợt 5 Trái phiếu 10 9,25% 110
đô
thị 15 9,55% 100
( Nguồn: Tạp chí chứng khoán Việt Nam số 10 năm 2006).

Chỉ nói riêng đến thị trường trái phiếu chính phủ. Tính
từ ngày 31/7/2006 đến ngày 11/9/2006, trung tâm giao dịch
chứng khoán Hà Nội đã tổ chức thành công 4 phiên đấu
thầu trái phiếu chính phủ. Tổng khối lượng trái phiếu gọi
thầu là 1.500 tỷ đồng. Tổng khối lượng trái phiếu đăng ký
tham gia đấu thầu là 4.183 tỷ đồng (gấp 2,87 lần khối lượng
gọi thầu). Kết quả khối lượng trái phiếu trúng thầu đạt
1.200 tỷ đồng. Tính đến ngày 11/9/2006, số trái phiếu phát
hành theo phương thức bảo lãnh phát hành của Kho bạc
nhà nước và Ngân hàng phát triển Việt Nam đăng ký giao

52
dịch trên trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội có 38
loại, với tổng giá trị đạt 7.027 tỷ đồng, trong đó có 8 loại
của kho bạc nhà nước (3.042 tỷ đồng) và có 30 loại của
ngân hàng phát triển Việt Nam (3.985 tỷ đồng).

Năm 2006, Kho bạc nhà nước có nhiệm vụ huy động


vốn thông qua phát hành các loại trái phiếu, công trái là
54.500 tỷ đồng, trong đó huy động cho ngân sách nhà nước
33.000 tỷ đồng, cho các công trình giao thông thuỷ lợi
15.500 tỷ đồng, công trái giáo dục 2.500 tỷ đồng và cho các
mục đích khác là 3.500 tỷ đồng. Tính đến hết ngày
15/9/2006, Kho bạc nhà nước đã huy động được gần 40.000
tỷ đồng, trong đó 6.197 tỷ đồng được huy động qua 18
phiên đấu thầu qua 2 trung tâm giao dịch chứng khoán Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Dự kiến từ nay đến cuối năm
2006, kho bạc nhà nước sẽ huy động 2.000 – 3.000 tỷ đồng
thông qua đấu thầu tại trung tâm giao dịch chứng khoán .
Năm 2007 sẽ huy động 12.000 tỷ đồng qua trung tâm giao
dịch chứng khoán trong tổng số 63.500 tỷ đồng huy động
cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển.

Qua những con số trên cho chúng ta thấy. Tình hình


phát hành trái phiếu hiện nay là khác xa so với trước đây,
khi trên 50% số phiên đấu thầu tại trung tâm giao dịch
chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh là không thành công
hoặc thành công ở mức hạn chế. Trong khi đó, việc tập
trung trái phiếu chính phủ đưa về trung tâm giao dịch
chứng khoán Hà Nội để đấu thầu thì thấy không những tỷ lệ
thành công của các đợt đấu thầu cao hơn mà lãi suất trúng

53
thầu có xu hướng thấp xuống. Việc triển khai Quyết định
2276/BTC hơi chậm, nhưng trên thực tế kết quả thu được là
rất lớn và tạo ra nền tảng phát triển bền vững. Và việc tập
trung đấu thầu trái phiếu chính phủ về một nơi tạo tiền đề
cho việc tổ chức một thị trường thứ cấp hiệu quả hơn. Như
vậy chúng ta có thể nói rằng việc đấu thầu trái phiếu chính
phủ của chúng ta trong thời gian qua có nhiều bước tiến
lớn. Đây là thành tựu chúng ta đáng ghi nhận.

Việc phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc
tế. Năm 2005, được coi là năm thành công cho việc huy
động vốn đầu tư nước ngoài, cũng là năm đánh dấu một sự
kiện việc phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường
quốc tế thành công ngoài mong đợi.

Bảng số liệu về: Một vài thông số của đợt phát hành
trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế:

Tiêu chí đơn vị Giá trị


Dự kiến phát hành Tỷ USD 0,5
Số lượng đăng ký mua Tỷ USD 4,5
Khối lượng bán ra Tỷ USD 0,75
Số lượng nhà đầu tư Nhà đầu 255

Lãi suất % 0,7125
(Nguồn: Website: www.ssc.gov.vn)

Qua bảng trên ta thấy lần đầu tiên chính phủ Việt Nam
phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế đã
thành công rực rỡ. Số lượng các nhà đầu tư quốc tế tham
gia mua trái phiếu đạt mức khá cao trên 255 nhà đầu tư.

54
Tổng số lượng nhu cầu các nhà đầu tư đặt mua lên tới 4,5 tỷ
USD, gấp 6 lần lượng trái phiếu chính phủ Việt Nam phát
hành. Tất cả các nhà đầu tư quan trọng, có uy tín lớn trên
thị trường tài chính thế giới từ Châu á, Châu Âu và Châu Mỹ
đều quan tâm tham gia đặt mua trái phiếu của chính phủ
Việt Nam với số lượng lớn.

Theo tạp chí đầu tư chứng khoán số 44 ngày


30/10/2006 Chính phủ dự định phát hành 500 triệu USD trái
phiếu chính phủ ra thị trường vốn quốc tế, song bộ trưởng
bộ tài chính Vũ Văn Ninh cũng cho biết, việc phát hành trái
phiếu quốc tế như đã từng thực hiện vào cuối năm 2005 hay
không, có dự án đầu tư hiệu quả hay không. “Nếu hai điều
kiện này đảm bảo thì Chính phủ sẵn sàng phát hành trái
phiếu quốc tế, thu hút vốn cho doanh nghiệp sử dụng hoặc
tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự phát hành”, ông Ninh
phát biểu. Vẫn theo người đứng đầu ngành tài chính, nếu
điều kiện đã chín muồi thì việc phát hành trái phiếu quốc tế
càng sớm càng tốt, bởi trái phiếu quốc tế Việt Nam phát
hành năm 2005 cho Vinashin sử dụng đầu tư vào ngành
công nghiệp đóng tàu biển xuất khẩu đang được giao dịch
tốt trên thị trường vốn quốc tế. “Dự án nào muốn sử dụng
nguồn vốn này phải đảm bảo hiệu quả, đồng thời phải cần
vốn ngay trong khi các nguồn vốn khác không đủ. Quan
trọng nhất là phát hành xong là phải sử dụng được ngay,
nếu không sẽ dẫn tới lãng phí”, ông Ninh nói.

Trong giai đoạn 2006- 2010, tổng công ty điện lực Việt
Nam (EVN) dự kiến tổng mức đầu tư trung bình mỗi năm là

55
50.000 tỷ đồng. “Để đáp ứng nhu cầu này, EVN đã báo cáo
thủ tướng chính phủ và các bộ, ngành đồng ý cho EVN được
huy động bằng nhiều phương thức, ngoài việc phát hành
trái phiếu trong nước, còn phát hành trái phiếu quốc tế.
EVN dự tính, trong giai đoạn 2006-2010, bình quân mỗi năm
phát hành 2.000 – 3.000 tỷ đồng trái phiếu trên thị trường
vốn trong nước và từ 300 triệu đến 500 triệu USD trên thị
trường vốn quốc tế”, một quan chức EVN cho biết. Cũng
theo vị quan chức này, ngay trong năm 2006, EVN đã đăng
ký với bộ tài chính phương án phát hành trái phiếu quốc tế
giá trị khoảng 500 triệu USD. Trưởng đoàn phát hành trái
phiếu quốc tế (TPQT) năm 2005, bà Lê Thị Băng Tâm khẳng
định, EVN, Petrovietnam... hay bất cứ tổng công ty nào có
nhu cầu phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế, Bộ
tài chính sẽ tạo điều kiện giúp đỡ. “Nhưng bộ tài chính sẽ
không đứng ra trả nợ lãi và gốc đến hạn thay cho doanh
nghiệp. Doanh nghiệp nào phát hành thì phải có trách
nhiệm trả nợ cho nhà đầu tư”, bà Tâm khẳng định.

Kết luận: Từ đây chúng ta có thể kết luậnđược rằng,


việc đầu tư chứng khoán thông qua việc đấu thầu trái phiếu
đã giúp cho chúng ta huy động một lượng vốn lớn. Đặc biệt
hơn cả là nó giúp cho chính phủ Việt Nam có một nguồn thu
lớn để đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Và nó là một nhân tố quan
trọng giúp cho thị trường chứng khoán Việt Nam lớn mạnh
so với thị trường chứng khoán quốc tế.

II- Thị trường thứ cấp

56
Sau khi chứng khoán được phát hành ở thị trường sơ
cấp, thì các chứng khoán này trước hết được diễn ra mua
bán trên thị trường sơ cấp. Đây là lần đầu chứng khoán
được giao dịch do đó chúng ta gọi là thị trường sơ cấp.
Nhưng công việc mua bán chứng khoán không chỉ dừng lại
ở đây. Sau quá trình mua bán trao đổi lần thứ nhất thì
chứng khoán tiếp tục được chuyển đổi chủ sở hữu, gọi là lần
giao dịch thứ cấp hay còn gọi đây là thị trường thứ cấp.
Không có thị trường sơ cấp hay việc phát hành chứng
khoán ở thị trường sơ cấp thì không có thị trường thứ cấp.
Nhưng mặt khác, thị trường thứ cấp tạo tiền đề cho thị
trường sơ cấp phát triền mạnh và tạo điều kiện thuận lợi
cho việc phát hành chứng khoán ở thị trường thứ cấp lần
tiếp theo.

Trước khi nói đến việc đầu tư chứng khoán ở thị


trường thứ cấp thì chúng ta nên nói tới tình hình niêm yết
chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. Vì nhờ có việc niêm yết
chứng khoán mà các nhà đầu tư chứng khoán yên tâm hơn
khi mua các chứng khoán của các đơn vị phát hành chứng
khoán.

1. Thực trạng niêm yết chứng khoán ở Việt Nam hiện


nay.

Việt Nam có hai trung tâm giao dịch chứng khoán là


trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và trung tâm giao
dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh.

57
Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội mới đi vào
hoạt động được một năm, còn trung tâm giao dịch chứng
khoán thành phố Hồ Chí Minh đã hoạt động được sáu năm.

Thứ nhất: Trung tâm giao dịch chứng khoán thành


phố Hồ Chí Minh:

Nhà đầu tư tham gia vào thị trường niêm yết tại trung
tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh có thể
đầu tư vào 3 loại chứng khoán: Cổ phiếu, chứng chỉ quỹ và
trái phiếu.

Tính đến năm 2005, số lượng doanh nghiệp đi vào


niêm yết còn rất nhỏ bé, đặc biệt là các loại cổ phiếu. Để
chỉ ra rõ tình hình thay đổi giá trị chứng khoán của thị
trường niêm yết chúng ta có bảng số liệu dưới đây:

1 Năm 200 2001 2002 2003 2004 2005


0
2 Cổ phiếu 320 500 990 1120 1330 3713
3 Chứng chỉ 300 300
quỹ
4 Tổng giá 320 500 990 1120 1630 4013
trị
Qua số liệu trên cho ta thấy thị trường chứng khoán có
xu hướng ngày một đi lên. Giá trị niêm yết tăng qua các
năm. Giai đoạn 2000- 2004 có sự tăng trưởng chậm chạp.
Nhưng riêng năm 2005 là năm thị trường chứng khoán có
bước tăng trưởng nhảy vọt. Đây có thể nói là điểm khởi sắc
của thị trường chứng khoán Việt Nam. Nó đóng vai trò
không nhỏ để nói lên rằng Việt Nam đang đi trên con đường

58
cùng cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Và đặc biệt hơn nữa thị trường chứng khoán Việt Nam đang
được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm .

Mặc dù, năm 2005 là năm có bước đột phá về thị


trường chứng khoán. Nhưng nói riêng đển trung tâm giao
dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh mới chỉ có 10
doanh nghiệp tham gia niêm yết chứng khoán. Đưa tổng số
có 35 loại cổ phiếu của 35 doanh nghiệp lên sàn. Nếu so
sánh 35 doanh nghiệp với con số 3000 doanh nghiệp đã
được cổ phần hoá và 2000 doanh nghiệp sắp được cổ phần
hoá thì con số 35 doanh nghiệp này là rất nhỏ bé.

Bảng các loại cổ phiếu tham gia niêm yết ( Trung tâm
giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh):

stt Mã Tên doanh nghiệp Vốn điều lệ


CK
1 BBT Công ty cổ phần Bông 68.400.000.000
Bạch Tuyết
2 GIL Công ty cổ phần sản xuất 25.550.000.000
kinh doanh XNK Bình
Thạnh
3 KHA Công ty cổ phần xuất 30.350.000.000
nhập khẩu Khánh Hội
4 PNC Công ty cổ phần Văn hoá 20.000.000.000
Phương Nam
5 REE Công ty cổ phần cơ điện 225.000.000.000
lạnh
6 TNA Công ty cổ phần thương 13.000.000.000
mại xuất nhập khẩu Thiên

59
Nam
7 BT6 Công ty cổ phần Bê tông 58.826.900.000
620 Châu Thới
8 BTC Công ty cổ phần cơ khí và 12.613.458.431
xây dựng Bình triệu
9 DHA Công ty cổ phần Hoá An 35.000.000.000
10 HAS Công ty cổ phần xây lắp 16.000.000.000
bưu điện Hà Nội
11 NHC Công ty cổ phần Gạch 13.360.610.000
ngói Nhị Hiệp
12 TYA Công ty cổ phần Dây và 182.676.270.000
Cáp điện Taya Việt Nam
13 PMS Công ty cổ phần cơ khí 32.000.000.000
xăng dầu
14 SFC Công ty cổ phần Nhiên 17.000.000.000
liệu Sài Gòn
15 BBC Công ty cổ phần bánh kẹo 56.000.000.000
Biên Hoà
16 CAN Công ty cổ phần đồ hộp 35.000.000.000
Hạ Long
17 KDC Công ty cổ phần Kinh Đô 250.000.000.000
18 LAF Công ty cổ phần chế biến 19.098.400.00
hàng xuất khẩu Long An 0
19 NKD Công ty cổ phần chế biến 50.000.000.000
thực phẩm Kinh Đô Miền
Bắc
20 SSC Công ty giống cây trồng 60.000.000.000
Miền Nam
21 TRI Công ty cổ phần nước giải 45.483.600.000
khát Sài Gòn
22 VNM Công ty cổ phần sữa Việt 1.590.000.000.000
Nam
23 SAV Công ty cổ phần hợp tác 45.000.000.000

60
kinh tế và Xuất Nhập
khẩu Savimex
24 SGH Công ty cổ phần khách 17.663.000.000
sạn Sài Gòn
25 BPC Công ty cổ phần Bao bì 38.000.000.000
Bỉm Sơn
26 HAP Công ty cổ phần giấy Hải 32.502.510.000
Phòng
27 DPC Công ty cổ phần Nhựa Đà 15.872.800.000
Nẵng
28 AGF Công ty cổ phần xuất 41.791.300.000
nhập khẩu thuỷ sản An
Giang
29 TS4 Công ty cổ phần thuỷ sản 15.000.000.000
số 4
30 SAM Công ty cổ phần cáp và 180.000.000.000
vật liệu Viễn Thông
31 VTC Công ty cổ phần Viễn 17.977.400.000
thông VTC
32 GMD Công ty cổ phần Đại lý 200.000.000.000
liên hiệp vận chuyển
33 HTV Công ty cổ phần vận tải 48.000.000.000
Hà tiên
34 MHC Công ty cổ phần Hàng Hải 120.000.000.000
Hà Nội
35 TMS Công ty cổ phần 33.000.000.000
Tránimax-Sài Gòn
Cơ cấu ngành nghề niêm yết trên trung tâm giao dịch
chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh được thể hiện qua
bảng sau:

Bảng Phân loại cổ phiếu theo ngành nghề:

61
(ĐV:%)
1 Hoá chất, nhựa 43
2 Vật liệu xây dựng 8,7
3 Năng lượng 1,34
4 Đồ ăn, uống 57,54
5 Đồ gia dụng 1,23
6 Thương mại 10,45
7 Giấy, bao bì 1,93
8 Viễn thông 5,41
9 Hải sản 1,55
10 Vận tải 10,96
11 Khách sạn, giải trí 0,46
( nguồn: www.bsc.com.vn)

Bảng dưới đây thể hiện bảng giá trị niêm yết theo ngành
nghề

stt Ngành nghề Giá trị


1 Thương mại 382.300.000.000
2 Vật liệu xây dựng 318.477.238.341
3 Năng lượng 49.000.000.000
4 Đồ ăn, uống 2.105.582.000.000
5 Đồ gia dụng 45.000.000.000
6 Khách sạn, giải trí 17.663.000.000
7 Giấy, bao bì 70.502.510.000
8 Hoá chất, nhựa 15.872.800.000
9 Hải sản 56.791.300.000
10 Vận tải 401.000.000.000
11 Viễn thông 197.977.400.000
( Nguồn: website. Bsc. Com.vn)

Dưới đây là biểu đồ thể hiện rõ những số liệu bảng


trên

Qua biểu đồ này cho chúng ta biết rằng: thị trường


chứng khoán đã phát triển ở mức độ nhất định nhưng không

62
đồng đều. Một điều tất yếu là thị trường chứng khoán có cơ
hội phát triển lớn nhất ở ngành dịch vụ và công nghiệp, còn
riêng lĩnh vực nông nghiệp thì thị trường chứng khoán quá
khó để thâm nhập vào. Vì ngành này ở nước ta còn qua lạc
hậu không đủ điều kiện để tham gia niêm yết trên thị
trường chứng khoán. Hay nói một cách khác, ngành nông
nghiệp của Việt Nam còn quá lạc hậu chưa cả được hiện đại
hoá bằng máy móc thiết bị.

Do đó, điều tất yếu là thị trường chứng khoán chỉ có


thể tập trung vào ngành công nghiệp và dịch vụ.

co cau nganh nghe

2.5E+12
2E+12
gia tri

1.5E+12 stt
1E+12 gia tri
5E+11
0
11
1

stt

63
Biểu đồ này là một minh chứng cho sự mất cân đối
ngành nghề trên thị trường chứng khoán cũng như trong
nền kinh tế quốc dân.

Thứ hai: Trung tâm giao dịch chưng khoán Hà Nội

Tình hình hoạt động của trung tâm giao dịch chứng
khoán Hà Nội do mới được hình thành hơn một năm nên mới
có 10 doanh nghiệp tham gia niêm yết chứng khoán, con
số này tuy nhỏ nhưng nó có thể nói nên rằng, mặc dù thị
trường này mới được thành lập chậm hơn so với thành phố
Hồ Chí Minh 5 năm thì con số này quả là một con số đáng
khích lệ.

Các loại cổ phiếu trên thị trường đăng ký giao dịch


( trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội)

Đơn vị: VNĐ


stt Mã Tên công ty Vốn điều lệ
CK
1 BBS Công ty cổ phần xi măng 40.000.000.000
Bút Sơn
2 CID Cty cổ phần xây dựng và 5.410.000.000
phát triển cơ sở hạ tầng
3 DXP Công ty cổ phần cảng 35.000.000.000
Đoạn Xá
4 GHA Công ty cổ phần giấy 12.894.800.000

64
Hải Âu
5 HSC Công ty cổ phần Hacinco 5.800.000.000
6 ILC Công cổ phần hợp tác lao 6.000.000.000
động nước ngoài
7 KHP Công ty cổ phần điện lực 152.522.600.000
Khánh Hoà
8 CID Tổng công ty cổ phần tái 343.000.000.000
bảo hiểm Quốc gia Việt
Nam
9 VSH Công ty cổ phần Thuỷ 1.225.000.000.000
điện Vĩnh Sơn Sông Hinh
10 VTL Công ty cổ phần Thăng 18.000.000.000
Long
( nguồn: website.hastc.org.vn)

Do thị trường này là mới được thành lập vào tháng


3/2005 do đó, khối lượng giao dịch các loại chứng khoán
này là rất thấp. Không tương xứng với quy mô và tiềm năng
của thị trường. Và đặc biệt về chất lượng giao dịch kém xa
so với trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí
Minh.

Thứ ba: Tình hình hoạt động của niêm yết chứng
khoán tính đến 30/10/2006.

Uỷ ban chứng khoán nhà nước (UBCK) đã cấp phép


niêm yết cho thêm 2 doanh nghiệp; Chấp thuận về nguyên
tắc cho 4 doanh nghiệp và đang xem xét hồ sơ xin niêm yết
của 19 doanh nghiệp khác. Trước sự hưởng ứng mạnh mẽ
của giới doanh nghiệp đối với việc niêm yết cuối tuần qua.

65
UBCK đã có thông báo lưu ý về tiến độ chuẩn bị hồ sơ đối
với cả doanh nghiệp và công ty chứng khoán tư vấn.

Theo UBCK Công văn số 12601/BTC- VP của bộ tài


chính mới đây quy định, các tổ chức niêm yết, đăng ký giao
dịch được hưởng ưu đãi thuế kể từ thời điểm cổ phiếu chính
thức được giao dịch trên trung tâm giao dịch chứng khoán
TP. HCM hoặc Hà Nội ( chứ không phải là thời điểm nhận
giấy phép niêm yết, đăng ký giao dịch) và ưu đãi này sẽ
hoàn toàn bị bãi bỏ kể từ ngày 1/1/2007. UBCK cho rằng, để
có thể chính thức niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng
khoán, doanh nghiệp cần có khoảng 2 tháng kể từ ngày nộp
hồ sơ (trong trường hợp hồ sơ đầy đủ và hợp lệ). Do thời
gian xét duyệt hồ sơ niêm yết theo quy định là 45 ngày,
cộng với thời gian doanh nghiệp phải hoàn thành thủ tục từ
khi cấp giấy phép niêm yết cho đến khi chính thức niêm yết
thông thường cần 20- 30 ngày (Công bố báo chí, chốt danh
sách cổ đông, lưu ký, chốt ngày giao dịch đầu tiên...). Vì
vậy, UBCK đề nghị các doanh nghiệp cân nhắc kỹ thời gian
tối thiểu cần thiết kể từ khi nộp hồ sơ cho đến khi chính
thức giao dịch.

Mặc dù vẫn tiếp nhận hồ sơ xin niêm yết theo đúng


quy định hiện hành, nhưng UBCK cho rằng, những công ty
nộp hồ sơ sau ngày 31/10/2006, đặc biệt sau ngày
15/11/2006 sẽ khó kịp giao dịch ngày 1/1/2007 để được
hưởng thuế ưu đãi.

66
Theo tạp chí chứng khoán Việt Nam có thêm 4 doanh
nghiệp được niêm yết trên thị trường chứng khoán: Thứ
nhất là Công ty cổ phần Tấm lợp vật liệu xây dựng Đồng
Nai, giấy phép niêm yết số 60/UBCK-GPNY, cấp ngày
21/9/2006, có trụ sở đóng tại đường số 4, Khu công nghiệp
Biên Hoà 1, tỉnh Đồng Nai; Vốn điều lệ là 120.973.460.000
đồng; Tổng số lượng chứng khoán được niêm yết là
12.097.346 cổ phiếu phổ thông, mã chứng khoán DCT,
tương ứng với tổng giá trị niêm yết là 120,973 tỷ đồng;
ngày niêm yết có hiệu lực: 21/9/2006; ngày chính thức giao
dịch: 10/10/2006.

Thứ hai là công ty cổ phần Thực phẩm Quốc tế


(INTERFOOD), Giấy phép niêm yết số 61/UBCK-GPNY, cấp
ngày 29/9/2006, có trụ sở đóng tại khu công nghiệp Tam
Phước, Long Thành, Đồng Nai; vốn điều lệ: 242.841.600.000
đồng; tổng số lượng cổ phiếu được niêm yết là 5.729.472 cổ
phiếu phổ thông; tương ứng với tổng giá trị cổ phiếu niêm
yết theo mệnh giá là 57,294 tỷ đồng.

Thứ ba là Công ty cổ phần đầu tư thương mại SMC,


Giấy phép niêm yết số 62/UBCK-GPNY, cấp ngày 29/9/2006,
có trụ sở chính đóng tại quận Bình Thạnh Tp. Hồ Chí Minh;
vốn điều lệ là 60.000.000.000 đồng; tổng số lượng chứng
khoán được niêm yết là 6000.000 cổ phiếu phổ thông,
tương ứng với tổng giá trị niêm yết là 60 tỷ đồng; ngày giao
dịch dự kiến: 30/10/2006.

67
Thứ tư là Công ty cổ phần văn hoá Tân Bình (ALTA),
Giấy phép niêm yết cổ phiếu số 63/UBCK-GPNY, cấp ngày
5/10/2006, có trụ sở chính tại Khu công nghiệp Tân Bình,
phường Tây Thạnh, Quận Tân Phú, Tp. HCM; tổng số lượng
cổ phiếu được niêm yết là 1.334.700 cổ phiếu; tương ứng
tổng giá trị cổ phiếu niêm yết theo mệnh giá là 13,347 tỷ
đồng. Công ty có vốn điều lệ 13.3470.000.000 đồng.

Tóm lại tình hình niêm yết chứng khoán được thể hiện ở
bảng sau:
Stt Tên Doanh nghiệp Vốn điều lệ Tình trạng hồ

1 CTCP GAS Pẻrolimex 200 tỷ đã được cấp
đồng giấy phép niêm
yết
2 CTCP thực phẩm Sao Ta 60 tỷ đồng Chấp thuận
nguyên tắc
việc niêm yết
3 CTCP cơ khí - điện Lữ 10 tỷ đồng đang xem xét
Gia
4 CTCP đầu tư và thương 32 tỷ đồng đang xem xét
mại DIC
5 CTCP Dược phẩm - đang xem xét
lmexpharm
6 CTCP Cáp treo nú bà 15,98 tỷ đang xem xét
Tây Ninh đồng
7 CTCP Cảng rau quả 38,8 tỷ đang xem xét
đồng
8 CTCP khoan và dịch vụ 680 đang xem xét
dầu khí tỷđồng
9 CTCP bao bì nhựa Tân 106,55 tỷ đang xem xét

68
Tiến đồng
10 CTCP khu công nghiệp 500 tỷ Chấp thuận về
Tân Tạo đồng nguyên tắc
11 CTCP Bóng đèn phích 79,15 tỷ Chấp thuận về
nước Rạng Đông đồng nguyên tắc
12 CTCP Pin ắc quy Miền 102,63 tỷ đã đủ theo quy
nam đồng định
13 CTCP bao bì dầu thực 76 tỷ đồng đang xem xét
vật
14 CTCP Vận tải xăng dầu 351 tỷ đang xem xét
VIPCO đồng
15 CTCP Phát triển nhà Thủ - đang xem xét
Đức
16 CTCP Cát Lợi 84 tỷ đồng đã được cấp
phép niêm yết
17 CTCP Cảng Đoạn Xá 35 tỷ đồng đang xem xét
18 CTCP Lương thực thực 27 tỷ đồng đang xem xét
phẩm SAFOCO
19 CTCP Đại lý vận tải SAFI 11,38 đang xem xét
tỷđồng
20 CTCP VITALY 40 tỷ đồng đang xem xét
21 CTCP Gốm sứ công 50 tỷ đồng đang xem xét
nghiệp Taicera
22 CTCP cao su Đà Nẵng 92,47 tỷ đang xem xét
đồng
23 CTCP Cavico Khai thác 31 tỷ đồng đang xem xét
mỏ và xây dựng
24 CTCP XD&KD địa ốc Hoà 56,4 tỷ đang xem xét
Bình đồng
25 CTCP giống cây trồng 14,12 tỷ Chấp thuận
Trung ương đồng phát hành và
niêm yết
(nguồn: tạp chí Đầu tư chứng khoán số 43 năm 2006)

69
Qua bảng số liệu trên cho chúng ta thấy tình hình
niêm yết của thị trường chứng khoán năm 2006 không co
tiến triển về số lượng là mấy so với năm 2005. Mặc dù số
doanh nghiệp đăng ký tham gia niêm yết cũng tương đối
nhiều nhưng số doanh nghiệp được niêm yết thì lại rất ít.
Không như mong đợi của chung ta.

2. kết quả giao dịch của thị trường chứng khoán


trong thời gian vừa qua

Sau đây là kết quả giao dịch của một số tháng gần
đây, những kết quả này muốn nói nên tính sối động của thị
trường chứng khoán trong những tháng gần đây.

Nhìn một cách tổng thể, tháng 7,8, và 9 năm 2006 thị
trường chứngkhoán Việt Nam nằm trong xu hướng tăng
trưởng, mặc dù diễn biến của các phiên giao dịch không
đồng đều, nhiều phiên tăng mạnh tới 40% khối lượng và giá
trị giao dịch so với phiên trước, nhưng cũng ngay sau đó lại
sụt giảm mạnh với khối lượng tương ứng. Tuy nhiên, quy mô
khớp lệnh của các phiên giao dịch có xu hướng tăng. Đến
5/9/2006 tổng số loại cổ phiếu và chứng chỉ quỹ giao dịch
trên thị trường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh lên 50
loại. Trong tháng 8 tổng cầu của toàn thị trường
là97.860.290 cổ phiếu, chứng chỉ quỹ; trong khi tổng cung
là92.222.120 cổ phiếu, chứng chỉ quỹ. Trong tháng 9 cung
cầu thị trường gần như ở vào thế cân bằng, ổn định cung:
82.732.430 cổ phiếu; cầu: 81.985.560 cổ phiếu. Kỷ lục khớp
lệnh của tháng 8 là 3,23 triệu cổ phiếu, trị giá 184 tỷ đồng

70
đã bị phá vỡ ngay trong phiên giao dịch đầu tiên của tháng
9 (phiên 6/9, với 3,7 triệu cổ phiếu, trị giá 209 tỷ đồng).
Càng về những phiên cuối tháng, thị trường càng sôi động.
Những cổ phiếu tạo nên diện mạo diễn biến thị trường vẫn
là những là những cổ phiếu nằm trong nhóm Bluchip gồm:
STB, SJS, REE, GMD, VNM, VSH, BMP. Xu hướng chung là cổ
phiếu là tăng giá. Đó là những thông tin chủ yếu về trung
tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Còn
trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội thì đến tháng 8 và
9 cũng có những khởi sắc, đến tháng 9 trung tâm giao dịch
chứng khoán Hà Nội có thêm 2 loại cổ phiếu đưa vào giao
dịch vào ngày 20/9/2006, gồm 1000.000 cổ phiếu VTS của
công ty cổ phần Gốm Từ Sơn và 750.000 cổ phiếu DAC của
công ty cổ phần Gốm xây dựng Đông Anh, nâng tổng số
loại cổ phiếu giao dịch trên trung tâm giao dịch chứng
khoán Hà Nội lên 14 loại. Qua các phiên giao dịch cổ phiếu
PPC luôn giữ vị chí cao nhất về khối lượng và giá trị giao
dịch (trên 50% quy mô giao dịch của thị trường) nên trở
thành cổ phiếu dẫn dắt thị trường.

Nói tóm lại tình hình giao dịch trên thị trường chứng
khoán trong thời gian vừa qua diễn ra khá sôi động. Và thị
trường chứng khoán trong năm 2006 có đặc điểm khác biệt
lớn nhất trong hoạt động 9 tháng đầu năm của các công ty
niêm yết là việc phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho
các dự án đầu tư mới thay vì chỉ vay vốn của các ngân
hàng. Phong trào khai thác lợi thế đất để tạo ra lợi nhuận
của nhà đầu tư trong 2 năm 2004- 2005 đang chuyển dần

71
sang xu hướng đầu tư tài chính. Tuy nhiên, chiến lược trở
thành vấn đề lớn đối với sự phát triển của các doanh
nghiệp. Có thể thấy, những doanh nghiệp đã tiến hành
chuẩn bị cho mô hình tập đoàn và cải tiến chất lượng quản
trị như REE, SAM, Gemadept... đang gặt hái nhiều kết quả,
trong khi nhiều doanh nghiệp khác phải đối mặt với hiệu
quả kinh doanh giảm dần.

3.Đầu tư cổ phiếu ngoài sàn OTC.

Trong nghiên cứu và công bố vào tháng 9/2006, HSBC


nhận định, tại Việt Nam, một số loại cổ phiếu giao dịch trên
OTC có tính thanh khoản cao và hấp dẫn hơn các cổ phiếu
niêm yết. Số liệu của công ty chứng khoán Sài Gòn (SSI) cho
thấy, hiện có gần 40 loại cổ phiếu được giao dịch thường
xuyên trên thị trường OTC. Tổng giá trị vốn hoá của các
loại cổ phiếu này lên tới 3,9 tỷ USD, trong khi toàn thị
trường niêm yết có tổng giá trị vốn hoá chỉ khoảng 3 tỷ
USD. Nếu bổ sung một cách đầy đủ, giá trị vốn hoá của thị
trường OTC có thể nên tới 5-6 tỷ USD, tức là gần gấp đôi thị
trường chính thức.

Đóng vai trò chủ đạo của thị trường OTC là 9 loại cổ
phiếu có mức vốn hoá trên 100 triệu USD (phần lớn là ngân
hàng: ABC, Techcombank, Eximbank, Đông á, PNB,
VPBank...). Trên thị trường chính thức, số cổ phiếu có mức
vốn hoá trên 100 triệu USD chỉ có 5 loại.

Quy mô lớn chưa phản ánh đầy đủ sự hấp dẫn của các
cổ phiếu OTC, mà còn thể hiện qua doanh số giao dịch trên

72
thị trường OTC một ngày khoảng 7,5 đến 30 triệu USD (cao
hơn từ 1,5 đến 6 lần doanh số trên thị trường niêm yết và
gần bằng doanh số trung bình/ngày trên thị trường
Philippines – khoảng 38 triệu USD – từ tháng 1 đến tháng 6
năm 2006).

Nếu tập hợp các cổ phiếu đang “hot” nhất ( trong số


hàng trăm loại đang được giao dịch) của 3 thị trường (tại Hà
Nội, Tp. HCM và OTC) thì chỉ có 13 loại có mức vốn hoá trên
100 triệu USD, trong đó có 4 loại có mức vôn hoá trên 500
triệu USD (ACB, Vinamilk, Sacombank, Nhiệt điện Phả Lại);
5 loại có mức vốn hoá từ 200 triệu đến 500 triệu USD
(Techcombank, Eximbank, Đông á, Thuỷ điện Vĩnh Sơn-
Sông Hinh, Khoan và dịch vụ dầu khí); Vị trí tiếp theo là
VPBank (gần 200 triệu USD), Gemadept, Kinh Đô, REE (gần
150 triệu USD).

Tính hấp dẫn của thị trường OTC.

Cũng theo số liệu của HSBC, chỉ số P/E (thị giá trên thu
nhập) của thị trường niêm yết khoảng 22,1 lần trong năm
2005 và 16,1 lần tính cho 4 quý gần đây. Con số này cao
hơn mức trung bình năm 2005 của Châu á (ngoại trừ Nhật
Bản) đạt khoảng 14,3 lần và tương đương với thị trường ấn
Độ- đạt khoảng 21,8 lần. P/B (thị giá trên giá trị sổ sách –
book value) tại thị trường niêm yết Việt Nam khoảng 3,8
lần.

Nhiều nhà quản lý quỹ dự báo rằng, trong năm 2006,


lợi nhuận ròng bình quân của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ

73
tăng khoảng 20- 25% và lợi nhuận trên cổ phiếu (EPS) sẽ
đạt khoảng 10- 15%. Tính riêng trong khối ngân hàng, P/E
trung bình của các ngân hàng đạt khoảng 29 lần, P/B đạt
khoảng 6 lần (cao hơn mức trung bình của các ngân hàng
Châu á, ví dụ P/B trung bình của các ngân hàng Trung Quốc
chỉ có 2,6 lần). ROE (lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu) của các
ngân hàng Việt Nam đạt khá cao, khoảng từ 13% đến 31%,
lợi nhuận ròng hàng năm tăng 50%, trong số đó các ngân
hàng có ROE trên 20% gồm ACB, Eximbank, Techcombank,
VPBank...

Các đánh giá của Vina Capital, Merrill Lynch hay một
số tổ chức đầu tư quốc tế khác cho thấy, cổ phiếu ngân
hàng vẫn là loại cổ phiếu được chú ý nhiều nhất trong số
các lĩnh vực được quan tâm gồm: thực phẩm đồ uống, viễn
thông, dầu và khí đốt, khoáng sản,... Cổ phiếu ngân hàng
còn có sức hút đặc biệt, bởi chính sách cổ tức và chia cổ
phiếu khá hấp dẫn với cổ đông. Ngoài ra, cổ tức mà các
ngân hàng đã chia trong năm 2005 và báo hiệu sẽ chia
trong năm 2006 đều đạt mức trên dưới 30%.

Kết luận: Như trên chúng ta đã thấy thị trường OTC


của chúng ta đang hoạt động tốt. Nói cách khác nó là nhân
tố quan trọng thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam đi
lên. Nhưng nói tóm lại thì chúng ta nên có nhiều biện pháp
khuyến khích các doanh nghiệp tham gia niêm yết chứng
khoán, để tạo cho thị trường giao dịch chính thức phát triển
mạnh mẽ. Có như vậy thị trường chứng khoán Việt Nam mới

74
nhanh chóng cải thiện về bộ mặt của mình. Phát huy tốt
trên thị trường quốc tế.

Chúng ta có thể khẳng định lại một lần nữa thị trường
chứng khoán Việt Nam tuy mới xuất hiện nhưng tính cho
đến thời điểm này thì đã đạt được nhiều kết quả tốt. Và đặc
biệt hơn nữa Thị trường chứng khoán trong năm 2005 đã có
bước phát triển khá vững chắc, hoạt động thị trường khá sôi
động, tạo niềm tin và hứng khởi cho các nhà đầu tư trong
nước cũng như nước ngoài. Đồng thời nó là cơ sở để cho thị
trường chứng khoán năm 2006 và những năm tiếp theo tiếp
tục phát huy thế mạnh đó.

III- Đánh giá chung.

1. Những thành tựu đạt được.

Thứ nhất tích tụ và tập trung vốn cho đầu tư:

Thông qua việc phát hành chứng khoán thì các khoản
vốn manh mún, rải rác trong dân cư và các tổ chức kinh tế
có thể được huy động nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư và
phát triển sản xuất kinh doanh của đơn vị phát hành. Việc
thu hút vốn qua thị trường vốn có thể được thực hiện bằng
cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, trái phiếu
doanh nghiệp, trái phiếu chính quyền địa phương, chứng chỉ
quỹ...

Thị trường chứng khoán Việt Nam đã bắt đầu được 6


năm và tính đến tháng 7 năm 2006 đã có 47 doanh nghiệp
tham gia niêm yết. Tổng số vốn huy động được là 8000 tỷ

75
VNĐ so với tổng quy mô vốn là 365 000 tỷ VNĐ. Nhưng thị
trường chứng khoán diễn ra khá sôi động ở tháng 8 và 9
năm 2006. Tháng 8, thị trường có 3 loại cổ phiếu mới được
đưa vào giao dịch, gồm: 3,4 triệu cổ phiếu COM của công ty
cổ phần Vật tư xăng dầu (Comeco), trị giá 34 tỷ đồng chính
thức giao dịch ngày 7/8; 4 triệu cổ phiếu TTC của công ty cổ
phần Gạch men Thanh Thanh, trị giá 40 tỷ đồng, chính thức
giao dịch ngày 8/8; 1,4 triệu cổ phiếu SHC của công ty cổ
phần Hàng Hải Sài Gòn, trị giá 14 tỷ đồng, chính thức giao
dịch ngày 15/8. Nói chung tháng 8 trung bình mỗi phiên
đạt 2,4 triệu cổ phiếu, trị giá 114 tỷ đồng, trong khi tháng 7
trung bình mỗi phiên có 1,4 triệu cổ phiếu, trị giá 82 tỷ
đồng. Sang đến tháng 9 thì khối lượng giao dịch toàn thị
trường qua trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ
Chí Minh đạt 95.209.531 chứng khoán, trị giá 6.856 tỷ đồng,
giảm 9% về khối lượng và giảm 8,8% về giá trị so với tháng
8/2006.

Nói riêng đến thị trường OTC, có tới 40 loại cổ phiếu


được giao dịch trên thị trường này. Tổng giá trị vốn hoá của
gần 40 loại cổ phiếu này lên tới 3,9 tỷ USD. Nếu bổ sung
một cách đầy đủ thì giá trị vốn hoá của thị trường OTC có
thể lên tới 5-6 tỷ USD.

Tình hình về phát hành trái phiếu tính đên năm 2005
thì trái phiếu chính phủ đạt khoảng 60.000 tỷ VNĐ, trái
phiếu chính quyền địa phương đạt 7.000 tỷ VNĐ, trái phiếu
doanh nghiệp đạt 2.000 tỷ VNĐ. Sang đến năm 2006 tình
hình có nhiều thay đổi, Bộ tài chính ban hành quyết định

76
2276/QĐ-BTC về việc tập trung đấu thầu trái phiếu chính
phủ tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội ngày
20/6/2006. Tính từ ngày 31/7/2006 đến ngày 11/9/2006,
Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã tổ chức thành
công 4 phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ. Tổng khối lượng
trái phiếu gọi thầu là 1.500 tỷ đồng. Tổng khối trái phiếu
đăng ký tham gia đấu thầu là 4.183 tỷ đồng (gấp 2,78 lần
khối lượng gọi thầu). Kết quả khối lượng trái phiếu trúng
thầu đạt 1.200 tỷ đồng. Tính đến ngày 11/9/2006, số trái
phiếu phát hành theo phương thức bảo lãnh phát hành của
kho bạc nhà nước và ngân hàng phát triển Việt Nam đăng
ký giao dịch trên trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội
có 38 loại, với tổng giá trị đạt 7.027 tỷ đồng, trong đó có 8
loại của kho bạc nhà nước và 30 loại của ngân hàng phát
triển Việt Nam. Năm 2006, Kho bạc nhà nước có nhiệm vụ
huy động vốn thông qua phát hành các loại trái phiếu, công
trái là 54.500 tỷ đồng.

Thứ hai là tạo lập cơ chế đầu tư và thúc đẩy quá trình
sử vốn có hiệu quả:

Việc huy động vốn thông qua thị trường vốn (thông
qua cơ chế thị trường) đều phải trả gốc và lãi suất tương
ứng với quyền sử dụng đồng vốn đó. Do đó chủ sử dụng
nguồn vốn đó phải có trách nhiệm trước đồng vốn đó đối với
chủ sở hữu nó. Phải trả gốc và lãi đúng hạn. Chính vì vậy
chủ sử dụng đồng vốn đó luôn phải cân nhắc kỹ cơ hội đầu
tư, việc sử dụng vốn như thế nào là có hiệu quả nhất tiết
kiệm nhất, có như vậy chủ sử dụng đồng vốn đó mới trả cho

77
chủ sở hữu nó được đúng thời hạn quy định. Nếu sử dụng
đồng vốn không hợp lý thì chủ sử dụng đồng vốn đó dẫn
đến hậu quả là không thể trả nợ được có thể bị truy cứu
trách nhiệm pháp lý hoặc ít nhất thì cũng đã đánh mất lòng
tin của các chủ sở hữu đồng vốn. Điều này có thể dẫn tới
người này muốn kinh doanh nhưng không thể huy động
được vốn bằng bất cứ hình thức nào thông qua thị trường
vốn.

Thị trường vốn luôn yêu cầu tính minh bạch công khai
ở mức độ cao, và tính tự giám sát hoạt động của mình. Tính
minh bạch công khai ở thị trường chứng khoán Việt Nam
còn chưa tốt còn có nhiều bất cập. Nhưng cuối cùng chúng
ta có thể đi tới tính minh bạch, công khai, tự giám sát một
cách cao hơn. Nhờ có đặc tính này của thị trường chứng
khoán mà các chủ sở hữu vốn yên tâm hơn khi bỏ tiền vào
để đầu tư vào chứng khoán. Tính minh bạch, công khai, tự
giám sát giúp các đơn vị kinh tế muốn phát hành công cụ
vay nợ thông qua thị trường chứng khoán thì phải xây dựng
tốt hình ảnh của mình trong mắt công chúng, hay nói cách
khác thì họ trước hết phải có kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh tốt hơn các đối thủ cạnh tranh, có đội ngũ cán
bộ giỏi. Do đó đồng vốn sẽ được điều tiết một cách hợp lý
hơn.

Tới đây chúng ta có thể nói rằng thị trường vốn như
một cái van an toàn, nó tạo lập cơ chế phân bổ vốn từ nơi
vốn thừa đến nơi vốn thiếu, từ nơi đồng vốn sử dụng kém
hiệu quả đến nơi sử dụng có hiệu quả. Chính vì điều này nó

78
thúc đẩy các nhà đầu tư sử dụng đồng vốn mà mình có
được một cách sáng suốt hơn, để tránh đầu tư không hợp lý
không hiệu quả. Nói một cách khác các nhà đầu tư khi sử
dụng động vốn chịu ảnh hưởng của các quy luật kinh tế:
quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu... Nếu họ sử dụng
đồng vốn không có hiệu quả thì họ sẽ bị đào thải. Chính vì
sự sống còn của mình mà họ càng có thêm nhiều nỗ lực để
đưa hiệu quả kinh tế của họ đạt mức cao nhất.

Thứ ba là thu hút vốn đầu tư nước ngoài có tính cơ


động cao:

Thị trường chứng khoán là một thị trường bao hàm


trong nó là yếu tố mạo hiểm và đặc biệt hơn nữa nó đòi hỏi
phải có nhiều kinh nghiệm. Do đó, các chủ thể đầu tư nước
ngoài đặc biệt là những nước có nền kinh tế phát triển lâu
đời thì kinh nghiệm của họ về thị trường chứng khoán đã có
rất nhiều. Đối với Việt Nam là một nước kinh tế đang phát
triển thì với họ đầu tư vào đây là thu được lợi nhuận cao và
an toàn. Do đó chúng ta nên tận dụng là một nước đang
phát triển.

Năm 2005 được đánh dấu là năm đạt mức cao nhất về
thu hút đầu tư nước ngoài kể từ sau khủng hoảng tài chính
khu vực diễn ra năm 1997 với tổng số vốn đầu tư mới đạt
được khoảng 6,338 tỷ USD, tăng 39,8% so với năm 2004,
vượt 40,8% so với mục tiêu đề ra cho cả nước năm 2005.

Thứ tư là góp phần làm tăng trưởng kinh tế mạnh hơn.

79
Điều này được thể hiện ở chỗ. Những công ty tham gia
niêm yết chứng khoán trên sàn giao dịch thì có thể thu được
lợi nhuận cao hơn qua các năm . Theo báo cáo của kết quả
kinh doanh trong 9 tháng đầu năm 2006 cho thấy các
doanh nghiệp tham gia niêm yết tiếp tục tăng trưởng tốt,
còn một số doanh nghiệp khác thì tụt lùi so với cùng kỳ
2005. Dưới đây là kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của 9 tháng đầu năm 2006:

Thực hiện kế hoạch kinh doanh 9 tháng của một số công ty


niêm yết:
Đơn vị: tỷ đồng
tt Mã Luỹ kế 9 Năm 2006 % so với kế
tháng hoạch Năm
2006
CK Doanh thu LNST Doanh thu LNST
1 AGF 866,0 33,0 102% 121%
2 BBC 235,4 9,7 64% 76%
3 BPC 98,7 5,7 74% 74%
4 BT6 300,1 22,5 105% 120%
5 CAN 129,7 5,7 59% 78%
6 DPC 43,3 2,1 72% 84%
7 HTV 65,5 9,9 84% 112%
8 KDC 727,3 126,0 69% 97%
9 NK 279,8 40,6 70% 102%
D
1 PNC 128,4 3,4 66% 65%
0
1 REE 623,1 171,6 80% 170%
1
1 SFC 475,5 6,1 76% 155%
2

80
1 SSC 111,4 22,5 77% 68%
3
1 TNA 185,1 4,1 99% -
4
1 TS4 84,9 4,3 57% 138%
5
(nguồn: Tạp chí đầu tư chứng khoán số 44, 30 tháng 10
năm 2006)

2. Những tồn tại và nguyên nhân.


a - Những tồn tại

* Tồn tại trong thị trường cổ phiếu

Thứ nhất là thiếu hàng hoá cho hoạt động đầu tư

Thứ hai là hoạt động đầu tư chứng khoán chưa trở


thành hoạt động đầu tư phổ biến trong dân cư

Thứ ba là hoạt động đầu tư của các cá nhân còn thiếu


chiến lược dài hạn, và đầu tư mang tính chất tập trung.

Thứ tư là các doanh nghiệp tham gia niêm yết tăng


trưởng không đồng đều.

Thứ năm là thị trường chứng khoán còn hiện tượng


phát hành cổ phiếu giả ra thị trường trong nước và thị
trường thế giới.

* Những tồn tại ở thị trường trái phiếu:

Thứ nhất vai trò của các nhà tạo lập thị trường chưa
thể hiện rõ cả về nghĩa vụ và quyền lợi.

81
Thứ hai là lãi suất của trái phiếu hiện nay chưa hợp
lý.

Thứ ba là cần xây dựng một thị trường trái phiếu


chuyên biệt: kỳ hạn của trái phiếu chính phủ phát hành
trong thời gian qua còn tương đối đơn điệu, chưa đáp ứng
nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư.

b- Nguyên nhân của những tồn tại trên.

Thứ nhất do hệ thống pháp luật của Việt Nam trong


lĩnh vực này chưa hoàn chỉnh.

Thứ hai do sự giám sát còn lỏng lẻo của các cơ quan
có chức năng đối với thị trường chứng khoán.

Thứ ba do sự hiểu biết của dân cư về thị trường chứng


khoán còn quá ít. Dẫn đến tình trạng hoạt động đầu tư vào
thị trường chứng khoán chưa trở thành hoạt động đầu tư
phổ biến trong dân cư

Thứ tư do thị trường chứng khoán Việt Nam còn thiếu


tính công khai, minh bạch, cơ chế tự giám sát. Do đó không
tạo được lòng tin của dân chúng đối với các đơn vị phát
hành.

Thứ năm là việc triển khai các luật các nghị định về
thị trường chứng khoán còn chậm, chưa hợp lý hoặc không
tuân thủ pháp luật đề ra.

Thứ sáu do kinh nghiệm của các đơn vị kinh tế không


nhiều. Thiếu hiểu biết về thị trường chứng khoán. Không

82
thích cổ phần hoá vì sợ bị mất quyền lực. Dẫn đến tình
trạng các công ty tham gia niêm yết trên thị trường chứng
khoán còn ít.

Nói tóm lại, có nhiều nguyên nhân để dẫn đến tình


trạng hoạtđộng kém của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Nhưng trên đây là một số nguyên nhân khá phổ biến và
thường thấy ở thị trường chứng khoán Việt Nam nó đồng
thời là cơ sở để chúng ta đưa ra một số giải pháp để nâng
cao tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt
Nam trong tương nai.

Chương III- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động của thị trường chứng khoán Việt nam.
I- Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Năm
(2006-2010).
1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt
Nam tới 2010.

Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt


Nam được thể hiện thông qua quyết định 898/2005/QĐ-
TTg.

Thứ nhất: Mở rộng thị trường chứng khoán có tổ


chức, thu hẹp thị trường tự do; phấn đấu đến năm 2010
tổng giá trị vốn hoá thị trường chứng khoán có tổ chức đạt
10-15% GDP.

83
Thứ hai: Nâng cao tính minh bạch của hoạt động thị
trường chứng khoán, áp dụng thông lệ tốt nhất về quản trị
công ty đối với các công ty đại chúng và các tổ chức kinh
doanh chứng khoán.

Thứ ba: Nâng cao quy mô và năng lực của các tổ chức
kinh doanh, dịch vụ chứng khoán đáp ứng yêu cầu phát
triển thị trường chứng khoán.

Thứ tư: Mở cửa thị trường dịch vụ chứng khoán theo lộ


trình hội nhập đã cam kết; áp dụng các nguyên tắc về quản
lý thị trường chứng khoán theo khuyến nghị của tổ chức
quốc tế và các Uỷ ban chứng khoán phù hợp với từng giai
đoạn phát triển thị trường.

2. Định hướng phát triển hoạt động đầu tư chứng


khoán.

Cùng với định hướng phát triển thị trường chứng khoán
trong giai đoạn tới, thì định hướng cho hoạt động đầu tư
chứng khoán cũng được coi trọng theo hướng:

Thứ nhất: tăng cường hoạt động quản lý đầu tư theo


hướng công bằng, công khai, minh bạch và đảm bảo lợi ích
của nhà đầu tư.

Thứ hai: Tăng nguồn hàng cho hoạt động đầu tư


chứng khoán.

Thứ ba: Thu hút ngày càng đông đảo nhà đầu tư, đặc
biệt chú trọng phát triển nhà đầu tư có tổ chức, đầu tư theo
chiến lược dài hạn.

84
Thứ tư: Thu hút đầu tư thông qua việc hợp tác, liên
kết thị trường vốn với quốc tế.

Theo định hướng đến năm 2010 thị trường vốn của
Việt Nam có thể huy động 100.000 tỷ đồng đối với trái
phiếu chính phủ; 100.000 tỷ đồng đối với trái phiếu doanh
nghiệp; 150.000 tỷ đồng đối với chương trình cổ phần hoá
của nhà nước và có thể huy động 100.000 tỷ đồng trong các
doanh nghiệp. Như vậy thị trường vốn Việt Nam có thể cung
cấp một con số 30 tỷ USD, đó là một sự đóng góp khá lớn
không chỉ về lượng mà cả về chất của thị trường vốn đối với
nền kinh tế.

II- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
thị trường chứng khoán Việt Nam.
1. Nhóm giải pháp về tăng cường quản lý hoạt động
đầu tư.

Thứ nhất: Các công ty chứng khoán, các trung tâm


giao dịch chứng khoán giám sát các hoạt động giao dịch
trên thị trường, các hành vi vi phạm trên thị trường để kịp
thời xử lý: như hoạt động mua bán nội gián, hoạt động làm
lũng đoạn thị trường, hoạt động làm thiệt hại đến lợi ích của
nhà đầu tư, hay việc tung ra những thông tin sai sự thật.

Thứ hai: Hoàn thiện khung pháp lý về việc xử lý các


hành vi vi phạm: bằng việc bổ sung trong bộ luật hình sự
các hoạt động sai trái trên thị trường chứng khoán.

85
Thứ ba: Kiểm soát tình trạng cầm cố chứng khoán
trên thị trường. Tránh trường hợp cầm cố làm nhiều lần của
các nhà đầu tư. Và sớm ban hành quy chế chuẩn về hoạt
động cầm cố chứng khoán trên thị trường chứng khoán.

Thứ tư: Đưa ra những lời cảnh báo cho các nhà đầu
tư về rủi ro, về tình trạng diễn biến thị trường, cung cấp
thông tin đầy đủ đến các nhà đầu tư.

Thứ năm: Chú trọng đến việc phát triển cơ sở vật chất
kỹ thuật phục vụ cho công tác giám sát hoạt động giao dịch
chứng khoán, đặc biệt là công tác nghiên cứu, phát triển và
ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giám sát hoạt
động giao dịch. Khi đó công tác quản lý hoạt động đầu tư
mới có thể đạt được hiệu quả như mong muốn.

Thứ sáu: Ban quản lý kinh doanh chứng khoán thuộc


UBCK phải chịu trách nhiệm trực tiếp. Chủ trì xây dựng và
tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, các văn
bản hướng dẫn về tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng
khoán; Chủ trì xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách,
chiến lược, kế hoạch dài hạn, hàng năm, đề án về tổ chức
và hoạt động của các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng
khoán; Chủ trì phối hợp giám sát việc thực hiện các văn
bản quy phạm pháp luật, các quyđịnh về kinh doanh, dịch
vụ chứng khoán; Theo dõi, tổng hợp, đánh giá tình hình
hoạt động của các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng
khoán; Thẩm định hồ sơ, trình chủ tịch Uỷ ban cấp hoặc thu
hồi giấy phép hoạt động đối với các tổ chức kinh doanh,

86
dịch vụ chứng khoán, giấy phép thành lập quỹ đầu tư và
phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư, chứng chỉ hành nghề đối
với các tổ chức, cá nhân hành nghề của các tổ chức kinh
doanh, dịch vụ chứng khoán; Thẩm định hồ sơ, trình Chủ
tịch Uỷ ban cấp hoặc thu hồi giấy phép đặt văn phòng đại
diện các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán nước
ngoài tại Việt Nam; giám sát hoạt động của văn phòng đại
diện theo quy định của pháp luật; Phối hợp tổ chức các kỳ
thi sát hạch cấp lại chứng chỉ hành nghề kinh doanh và dịch
vụ chứng khoán; Phối hợp với các đơn vị thuộc Uỷ ban lựa
chọn công ty kiểm toán thực hiện kiểm toán các tổ chức
kinh doanh, dịch vụ chứng khoán; Tham mưu giúp chủ tịch
Uỷ ban hướng dẫn, hỗ trợ các tổ chức hiệp hội chứng khoán
thực hiện mục đích, tôn chỉ và điều lệ hoạt động của hiệp
hội; Kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật của các
hiệp hội; Phối hợp các tổ chức trong và ngoài nước hỗ trợ
phát triển các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán
theo quy định của bộ trưởng Bộ tài chính và quyết định của
chủ tịch Uỷ ban.

2. Nhóm giải pháp về nâng cao tính minh bạch trên


thị trường chứng khoán Việt Nam.

Thứ nhất: Nhóm giải pháp về hoàn thiện khuân khổ


pháp luật về công bố thông tin.

Luật chứng khoán dành một chương quy định về đối


tượng và phương thức công bố thông tin; nghĩa vụ công bố
thông tin của tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết, công ty

87
đại chúng, công ty chứng khoán (CtyCK), công ty quản lý
quỹ (CtyQLQ), công ty đầu tư chứng khoán và sở giao dịch
chứng khoán (SGDCK), Trung tâm giao dịch chứng khoán
(TTGDCK). Các đối tượng này khi công bố thông tin phải
đồng thời báo cáo Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN)
về nội dung thông tin được công bố. Các thông tin phải thực
hiện theo chuẩn mực chung đảm bảo tính kịp thời, rõ ràng,
chính xác. Công bố thông tin được tiến hành theo chế độ
thường xuyên, liên tục, định kỳ hoặc đột xuất thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng, ấn phẩm của công ty và
các phương tiện thông tin của SGDCK, TTGDCK. Nội dung
và phương thức công bố thông tin của từng đối tượng do Bộ
tài chính quy định.

Luật chứng khoán quy định rõ về hoạt động công bố


thông tin của từng đối tượng cụ thể, các thông tin phải công
bố, thời điểm công bố.

Về nghĩa vụ công bố thông tin của công ty đại chúng,


tại điều 101 Luật chứng khoán quy định: công ty đại chúng
phải công bố thông tin định kỳ về báo cáo tài chính (BCTC)
năm trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có BCTC năm được
kiểm toán. Công ty đại chúng phải công bố thông tin bất
thường trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi xảy ra một trong
các sự kiện như: tài khoản của công ty tại ngân hàng bị
phong toả hoặc tài khoản được phép hoạt động trở lại sau
khi bị phong toả; tạm ngừng kinh doanh; công ty bị thu hồi
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy phép thành
lập và hoạt động hoặc Giấy phép hoạt động... Công ty đại

88
chúng phải công bố thông tin bất thường trong thời hạn 72
giờ, kể từ khi xảy ra một trong các sự kiện như: quyết định
vay hoặc phát hành trái phiếu có giá trị từ 30% vốn thực có
trở lên; quyết định của hội đồng quản trị (HĐQT) về chiến
lược, kế hoạch phát triển trung hạn và kế hoạch kinh doanh
hàng năm của công ty; quyết định thay đổi phương pháp kế
toán áp dụng; công ty nhận được thông báo của Toà án thụ
lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp. Đồng
thời, theo yêu cầu của UBCKNN, công ty đại chúng phải
công bố thông tin khi xảy ra một trong các sự kiện: có
thông tin liên quan đến công ty đại chúng ảnh hưởng
nghiêm trọng đến lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; có thông
tin liên quan đến công ty đại chúng ảnh hưởng lớn đến giá
trị chứng khoán và cần phải xác nhận thông tin đó.

Đối với tổ chức phát hành thực hiện chào bán trái
phiếu ra công chúng, ngoài nghĩa vụ công bố thông tin định
kỳ theo quy định tại khoản 1 Điều 101 của luật, tổ chức
phát hành thực hiện chào bán trái phiếu ra công chúng thì
phải công bố thông tin bất thường trong thời hạn 72 giờ, kể
từ khi xảy ra một trong các sự kiện quy định tại điểm a,b và
c tại khoản 2 và khoản 3 Điều 101 của luật.

Về nghĩa vụ công bố thông tin của tổ chức niêm yết,


tại điều 103 Luật chứng khoán quy định, ngoài nghĩa vụ
công bố thông tin quy định tại điều 101 của Luật này, tổ
chức niêm yết còn phải công bố các thông tin trong thời hạn
24 giờ, kể từ khi bị tổn thất tài sản có giá trị từ 10% vốn chủ
sở hữu trở lên; công bố thông tin về BCTC quý trong thời

89
hạn 5 ngày, kể từ ngày hoàn thành BCTC quý; công bố
thông tin theo quy chế của SGDCK, TTGDCK. Tổ chức niêm
yết khi công bố thông tin phải đồng thời báo cáo SGDCK
hoặc TTGDCK về nội dung thông tin được công bố.

Đối với công ty chứng khoán, CtyQLQ, trong thời hạn


10 ngày, kể từ ngày có BCTC năm được kiểm toán, CtyCK,
CtyQLQ phải công bố thông tin định kỳ về BCTC năm. Luật
chứng khoán cũng quy định trường hợp xảy ra một số sự
kiện như: có quyết định khởi tố một số thành viên HĐQT
hoặc hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc,
Phó Giám đốc hoặc phó Giám đốc, Kế toán trưởng; Đại hội
đồng cổ đông hoặc hội đồng thành viên thông qua hợp đồng
sáp nhập với một công ty khác hoặc công ty bị tổn thất
10% giá trị tài sản trở lên...thì trong thời hạn 24 giờ, CtyCK,
CtyQLQ phải báo cáo SGDCK hoặc TTGDCK để các tổ chức
này công bố thông tin. CtyCK, CtyQLQ phải công bố thông
tin theo yêu cầu của UBCKNN khi có thông tin liên quan đến
công ty ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích hợp pháp của
nhà đầu tư.

Riêng đối với CtyQLQ còn có nghĩa vụ công bố thông


tin định kỳ, bất thường và công bố thông tin theo yêu cầu
của UBCKNN liên quan đến hoạt động của quỹ đại chúng.

Về nội dung công bố thông tin của công ty đầu tư


chứng khoán, tại điều 106 Luật Chứng khoán quy định,
công ty đầu tư chứng khoán chào bán cổ phiếu ra công
chúng có nghĩa vụ thực hiện công bố thông tin như đối với

90
công ty đại chúng. Công ty đầu tư chứng khoán có cổ phiếu
niêm yết tại SGDCK, TTGDCK phải thực hiện công bố thông
tin như đối với các tổ chức niêm yết khác.

Đối với SGDCK, TTGDCK, tại điều 107 quy định SGDCK,
TTGDCK phải công bố các thông tin về giao dịch chứng
khoán tại SGDCK, TTGDCK; thông tin về tổ chức niêm yết tại
SGDCK, TTGDCK; thông tin về CtyCK, CtyQLQ, quỹ đầu tư
chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán và các thông tin
giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán.

Để chuẩn bị cho việc triển khai thi hành luật chứng


khoán có hiệu lực từ ngày 1/1/2007, việc nhanh chóng,
khẩn trương soạn thảo các văn bản hướng dẫn thi hành là
một trong những nhiệm vụ quan trọng để sớm đưa Luật
chứng khoán đi vào cuộc sống. Hiện nay, UBCKNN, Bộ tài
chính đang được giao chủ trì soạn thảo các văn bản này,
trong đó có một số biên bản liên quan đến việc công bố
thông tin, tạo tính minh bạch cho thị trường chứng khoán
như:

Một là nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành một số
điều của luật chứng khoán, Nghị định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng
khoán (hai dự thảo nghị định này dự kiến trình chính phủ
tháng 11/2006);

Hai là thông tư của Bộ tài chính hướng dẫn về công bố


thông tin (Nội dung, phương thức công bố thông tin của tổ
chức phát hành, tổ chức niêm yết, công ty đại chúng,

91
CtyCK, CtyQLQ, công ty đầu tư chứng khoán, SGDCK,
TTGDCK), Thông tư hướng dẫn thi hành một số điều Nghị
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng
khoán và TTCK (hai dự thảo thông tư này dự kiến trình Bộ
tài chính vào tháng 11/2006).

Ba là Quyết định của Bộ trưởng Bộ tài chính về chế độ


báo cáo của Trung tâm lưu ký chứng khoán và thành viên
lưu ký (dự kiến của Bộ tài chính vào tháng 12/2006), Quyết
định của chủ tịch UBCKNN ban hành quy tắc đạo đức nghề
nghiệp ( dự kiến trình tháng 12/2006)...

Việc soạn thảo các văn bản trên sẽ được thực hiện
theo một quy trình chặt chẽ, đảm bảo tiến độ, đảm bảo tính
công khai, lấy ý kiến rộng rãi các thành viên thị trường, các
hiệp hội, tổ chức liên quan, ý kiến góp ý của công chúng
đầu tư, bảo đảm tính minh bạch ngay từ khâu ban hành
chính sách.

Trong các quy định trên, cần thiết phải làm rõ vai trò,
trách nhiệm của từng chủ thể từ cơ quan quản lý nhà nước
về chứng khoán, đến từng chủ thể riêng rẽ trong việc công
khai, minh bạch các thông tin nhằm mục đích cuối cùng là
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư.

Ngoài ra, cũng cần có những đề xuất để xây dựng một


khuân khổ pháp lý thuận lợi cho sự ra đời của công tyđịnh
mức tín nhiệm. Sự ra đời của các tổ chức này là hết sức cần
thiết. Hệ thống định mức tín nhiệm một cách chuẩn mực
đem lại niềm tin cho các nhà đầu tư, mang lại lợi ích to lớn

92
cho thị trường chứng khoán, góp phần tăng thêm tính minh
bạch trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Thứ hai: Nhóm giải pháp hoạt động kế toán, kiểm


toán trên thị trường chứng khoán.

Trong bối cảnh nước ta vừa mới gia nhập WTO và thị
trường chứng khoán rất cấn thu hút sự tham gia của các
nhà đầu tư nước ngoài, hệ thống kiểm toán kế toán là một
trong những trọng điểm cần được cải tiến không ngừng
nhằm nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm pháp lý của
các doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà
đầu tư và góp phần hơn nữa vào việc phát triển thị trường
chứng khoán Việt Nam.

Một là, chuẩn hoá và ban hành đầy đủ hệ thống chuẩn


mực kế toán, kiểm toán Việt Nam theo chuẩn mực quốc tế;

Hai là, cần có giải pháp thiết thực cụ thể để đưa ra các
chuẩn mực kế toán, kiểm toán vào cuộc sống, trở thành văn
hoá kinh doanh của từng doanh nghiệp.

Một khi các doanh nghiệp vẫn còn thấy rằng việc áp
dụng đúng các chế độ kế toán, kiểm toán không phải là bắt
buộc, không tìm thấy ích lợi từ việc tuân thủ theo quy định
chung, thì việc các doanh nghiệp áp dụng đúng chuẩn mực
kế toán, kiểm toán vẫn còn là một “thứ xa xỉ và khó tìm
thấy” trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Một biện pháp cũng đang được đặt ra là nên chăng có


quy định bắt buộc tất cả các doanh nghiệp phải tiến hành

93
kiểm toán (Hiện nay, Luật chứng khoán đã có những yêu
cầu chặt chẽ hơn nhưng không phải là tất cả các doanh
nghiệp đều phải bắt buộc được kiểm toán);

Ba là, có giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán,


lựa chọn các công ty kiểm toán có đủ năng lực, uy tín, đây
chính là cơ sở để các thông tin được cung cấp cho thị trường
chứng khoán có tính chính xác. Bên cạnh đó, việc này cần
được tiến hành song song với việc nâng cao chất lượng đào
tạo, phổ biến kiến thức cho công chúng đầu tư. Đây chính
là tiền đề quan trọng để tiếp tục phát triển thị trường chứng
khoán Việt Nam trong tương lai.

Bốn là, nâng cao chất lượng các tổ chức kiểm toán, vai
trò của các tổ chức tự quản (SGDCK, TTGDCK, và các hiệp
hội) trong việc phối hợp đào tạo, nâng cao các quy chuẩn
đạo đức nghề nghiệp. Việc đào tạo cần được tiến hành dưới
hình thức xã hội hoá, đảm bảo chất lượng, gắn lý luận và
thực tiễn.

Thứ ba: Nhóm giải pháp nâng cao trách nhiệm công
bố thông tin của doanh nghiệp.

Như đã đề cập ở trên, Luật chứng khoán quy định về


công bố thông tin áp dụng không chỉ với tổ chức niêm yết,
CtyCK, CtyQLQ, công ty đầu tư chứng khoán, SGDCK,
TTGDCK, mà còn áp dụng cả đối với tổ chức phát hành,
công ty đại chúng.

94
Như vậy việc cụ thể hoá, chuẩn hoá các quy định của
Luật chứng khoán trong quy chế, Điều lệ cùng với việc xử lý
nghiêm các vi phạm sẽ góp phần nâng cao tính minh bạch
trên thị trường chứng khoán, góp phần bảo vệ quyền lợi của
công chúng đầu tư khi tham gia thị trường chính thức. Việc
áp dụng công bố thông tin được tuân thủ bình đẳng giữa
các công ty niêm yết và chưa niêm yết. Trong văn bản
hướng dẫn, cần quy định rõ ràng việc xây dựng chế độ công
bố thông tin, nội dung, hình thức, thời gian, phương tiện
công bố.

Bên cạnh đó, cần bổ sung một số giải pháp như áp


dụng các quy tắc nghề nghiệp, chuẩn mực kế toán, kiểm
toán, tuyên truyền phổ biến kiến thức nâng cao nhận thức
của các doanh nghiệp và công chúng đầu tư về sự cần thiết
và lợi ích do tính minh bạch của thị trường mang lại, xử phạt
nặng các đối tượng chậm trễ trong việc công bố thông tin
để tạo thói quen và tiền lệ tốt cho thị trường...

Có thể nói, để tạo cơ sở vững chắc cho thị trường


chứng khoán Việt Nam phát triển thì không thể không quan
tâm đến việc nâng cao tính minh bạch của từng chủ thể, đối
tượng, cũng như trong các hoạt động diễn ra trên thị
trường. Chúng ta hi vọng nhiều vào tiềm năng phát triển
của thị trường chứng khoán Việt Nam, nhưng cũng không
thể phủ nhận một thực tế hiện nay là thị trường vẫn còn
thiếu thông tin; việc công khai, minh bạch thông tin đã có
chuyển biến đáng kể nhưng vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu
kém. Tuy nhiên, nhận thức được điều đó và có đánh giá

95
thẳng thắn sẽ giúp chúng ta đề ra những giải pháp hữu hiệu
để khắc phục và nâng cao tính minh bạch trên thị trường
chứng khoán. Đó cũng là mục tiêu động lực của cơ quan
quản lý thị trường, cũng như sự quan tâm, kỳ vọng của công
chúng vào sự phát triển ổn định, vững chắc của thị trường
chứng khoán Việt Nam.

3. Nhóm giải pháp cho thị trường trái phiếu.

Để giải quyết những vấn đề khó khăn đang đặt ra trên


thị trường trái phiếu, đại diện Vietcombank đã đưa ra một
số đề xuất rất thiết thực với thực tế thị trường hiện nay.

Thứ nhất là vấn đề phí giao dịch, cần có quy định cụ


thể về phí bảo lãnh, phí đấu thầu và có cơ chế phí ưu đãi
phí đối với các giao dịch mua bán trái phiếu, giao dịch mua
bán lại (repo) để phát triển nghiệp vụ này; nên đa dạng hoá
kỳ hạn của các loại trái phiếu và thả dần việc điều chỉnh lãi
suất trần để thị trường tự điều tiết.

Thứ hai về cơ chế giao dịch có thể quy định cụ thể


đối với các giao dịch lô lớn là 10 tỷ đồng hoặc 50 tỷ đồng,
và cho phép kéo dài thời gian giao dịch đến 3 giờ chiều thay
vì 11 giờ trưa như hiện nay; cần sớm thống nhất hoạt động
của thị trường trái phiếu về một đầu mối. Đại diện của ngân
hàng Công thương Việt Nam cũng đưa ra đề xuất nâng cao
tính thanh khoản của trái phiếu bằng cách Bộ tài chính và
Ngân hàng Nhà nước ưu tiên cho phép các ngân hàng được
hoạt động trên thị trường mở và có những biện pháp hỗ trợ
về tài chính như được làm các đại lý giao dịch sơ cấp. Hiện

96
nay, Ngân hàng Công thương Việt Nam đang triển khai các
bước để nâng cao vai trò của một nhà tạo lập thị trường,
nhưng cũng đang gặp phải một rủi ro lớn về tính thanh
khoản của trái phiếu.

Sau khi nghe những ý kiến phản hồi từ phía các đối
tượng trực tiếp tham gia vào hoạt động đấu thầu trái phiếu
chính phủ trên TTGDCK Hà Nội, chúng ta có một số giải
pháp như sau:

Về vấn đề kỹ thuật, như thời gian giao dịch có thể cho


phép kéo dài tới 3h chiều. Thời gian thanh toán là T+1 sẽ
tiến tới là T+0. Tuy nhiên, UBCKNN cần phải có thời gian để
điều chỉnh vì điều này còn phụ thuộc vào hệ thống thanh
toán của ngân hàng.

Về phí giao dịch trái phiếu, hiện nay, UBCKNN đang


xây dựng một biểu phí xây dựng trái phiếu riêng và đặc biệt
sẽ có một biểu phí giao dịch lùi cho các giao dịch lô lớn;
đồng thời, nghiên cứu và ban hành các quy định cụ thể cho
các loại hình giao dịch trái phiếu mới như giao dịch kỳ hạn,
giao dịch repo, giao dịch hợp đồng tương lai (future)... để
khuyến khích việc đầu tư và sử dụng trái phiếu; tách biệt
kỳ hạn trái phiếu bảo lãnh và trái phiếu đấu thầu để thành
viên đấu thầu tham gia đấu thầu tích cực hơn thông qua
trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội; có định hướng
chuyển từ bảo lãnh sang đấu thầu để phát huy tính thị
trường của lãi suất trái phiếu chính phủ, tạo tiền đề để xây

97
dựng đường cong lãi suất cho thị trường trái phiếu nói
chung.

Về thống nhất hoạt động của thị trường trái phiếu,


hiện nay vẫn còn tình trạng những trái phiếu niêm yết trước
tháng 3/2006 giao dịch trên trung tâm giao dịch chứng
khoán thành phố Hồ Chí Minh, trái phiếu niêm yết sau tháng
3/2006 giao dịch trên thị trường chứng khoán Hà Nội. Vấn
đề này là do lịch sử để lại nên vẫn tiếp tục thực hiện giao
dịch đối với những trái phiếu niêm yết TTGDCK Tp. HCM cho
đến khi đáo hạn thì kết thúc và thống nhất tập trung giao
dịch về TTGDCK Hà Nội.

Cùng với những giải pháp được đưa ra từ phía


UBCKNN, ông Nguyễn Đình Sơn, Phó tổng giám đốc KBNN
cũng cho biết, để giải quyết những bất cập trên và tạo điều
kiện cho các thành viên đấu thầu và các nhà đầu tư, trong
thời gian tới KBNN, với tư cách là nhà phát hành, sẽ thực
hiện ngay một số việc sau:

Thứ nhất, cùng với UBCKNN xây dựng các mức phí về
đấu thầu trái phiếu, bảo lãnh trái phiếu, phí đối với giao
dịch repo, giao dịch mua thẳng...;

Thứ hai, tạo tính thanh khoản cho trái phiếu thông qua
việc phát hành “lô lớn”, sẽ được thực hiện từ năm 2007.
Đây là một điểm rất mới trong việc phát hành trái phiếu
chính phủ, nghĩa là phát hành một loạt trái phiếu có khối
lượng lớn, theo nhiều đợt, nhưng có cùng ngày đáo hạn và
lãi suất danh nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác

98
quản lý cũng như hoạt động mua bán, giao dịch trái phiếu
trên thị trường thứ cấp, nâng cao tính thanh khoản trái
phiếu và tạo cơ sở cho việc hình thành đường cong lãi suất
chuẩn trên thị trường;

Thứ ba, đa dạng hoá kỳ hạn trái phiếu, bên cạnh loại
trái phiếu kỳ hạn 5 năm hiện nay, sẽ phát hành loại trái
phiếu kỳ hạn 7 năm, 10 năm và từng bước nâng dần kỳ hạn
trái phiếu khi điều kiện cho phép nhằm đáp ứng nhu cầu chi
tiêu của ngân sách Nhà nước và nhu cầu đa dạng hoá các
công cụ đầu tư;

Thứ tư, là thông báo công khai lịch biểu phát hành trái
phiếu chính phủ trong năm vào tháng 1 đầu năm và lịch
biểu phát hành trái phiếu chính phủ hàng quý vào tháng
đầu quý, để giúp các nhà đầu tư chủ động bố trí nguồn vốn
tham gia thị trường;

Về Bộ tài chính và vụ tài chính Ngân hàng cũng cho


biết, Bộ tài chính sẽ thay đổi cơ chế điều hành lãi suất theo
cơ chế thị trường, có chính sách lãi suất trần phù hợp trước
những thay đổi lãi suất trên thị trường vốn, dần tiến tới để
thị trường quyết định theo quy luật cung cầu của thị trường;
sửa đổi sự chưa hợp lý giữa phí đấu thầu và phí bảo lãnh
phát hành.

4. Nhóm giải pháp về tăng cường nguồn hàng cho thị


trường chứng khoán.

99
Thứ nhất là cải tiến phương thức phát hành trái phiếu
chính phủ, đưa trái phiếu công trình, trái phiếu đô thị lên
niêm yết.

Thứ hai là đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh


nghiệp nhà nước gắn với việc phát hành cổ phiếu ra công
chúng và niêm yết trên thị trường.

Về mặt chính sách: Thực tốt nghị định 187/2004/NĐ-CP


về việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang hình thức
công ty cổ phần. Đồng thời đẩy mạnh tiến độ Quyết định
528/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt danh sách các công ty
cổ phần hoá, và cổ phần hoá gắn liền với việc đăng ký giao
dịch, niêm yết trên thị trường.

Tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng: Việc tạo ra


môi trường kinh doanh bình đẳng ở Việt Nam còn tương đối
khó khăn. Vì ở nước ta vẫn còn bị ảnh hưởng của cơ chế thị
trường tập trung quan liêu bao cấp. Do đó, chúng ta cần
sớm có những nghị định, luật quy định về việc đối sử công
bằng giữa các loại doanh nghiệp doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp tư nhân. Để tạo nên một sân chơi bình đẳng
giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.

Về mặt công nghệ của doanh nghiệp: ở nước ta hiện


nay vấn đề về công nghệ là vấn đề hết sức yếu kém. Chính
vì yếu kém cho nên hệ số sử dụng công nghệ là không cao,
dẫn đến tình trạng năng suất sản xuất là rất kém so với khu
vực và trên thế giới. Lý do, mà tình hình công nghệ ở nước
ta yếu kém là vì: thứ nhất chúng ta thiếu người am hiểu, có

100
trình độ khai thác và sử dụng công nghệ, thứ hai là chính vì
chúng ta thiếu các chuyên gia giỏi về yếu tố khoa học công
nghệ nên chúng ta thường mua phải những công nghệ lạc
hậu không phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh hiện
tại. Chính vì những lý do này mà Nhà nước cần có chính
sách đào tạo những lớp cán bộ có trình độ chuyên môn sâu
ở lĩnh vực này.

Về lực lượng lao động: vấn đề lao động ở Việt Nam


hiện tại thì rất dồi dào vì nước ta là nước dân số trẻ chiếm
đa số. Nhưng lao động của nước ta thì trình độ chuyên môn
còn kém, việc đào tạo lực lượng lao động còn mất cân đối
giữa công nhân kỹ thuật, lao động lành nghề và các chuyên
gia.Và đặc biệt hơn nữa lao động nước ta chưa có tác phong
công nghiệp, còn thiếu cả ý thức và trách nhiệm trong lao
động do đó hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao. Do đó
chúng ta cần đổi mới cơ cấu đào tạo lao động và giáo dục
ý thức, trách nhiệm, tác phong của đội ngũ lao động.

Về công tác tuyên truyền giáo dục chính sách: Cổ phần


hoá ở tất cả các doanh nghiệp còn yếu kém, còn mang
nặng tính hình thức chưa đi vào thực chất. Do đó, quá trình
cổ phần hoá của các doanh nghiệp nhà nước chưa mang lại
hiệu quả cao góp phần đẩy mạnh sự phát triển của thị
trường chứng khoán. Do đó chúng ta cần tuyên truyền các
chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước về công cuộc
cổ phần hoá. Đặc biệt hơn là nâng cao ý thức của các cán
bộ làm công tác này.

101
Thứ ba là từng bước đưa các doanh nghiệp lớn, Ngân
hàng thương mại cổ phần tham gia niêm yết trên thị trường
chứng khoán.

5. Nhóm giải pháp thu hút đông đảo nhà đầu tư.

Xuất phát từ nhận định của tạp chí, báo của Trung
Quốc chúng ta muốn thu hút đông đảo nhà đầu tư trong
nước lẫn nhà đầu tư nước ngoài thì cần thực hiện một số
biện pháp sau:

Thứ nhất để thu hút đông đảo nhà đâu tư trong nước
chúng ta cần có giải pháp về đào tạo, nâng cao kiến thức
nhà đầu tư, công chúng và các tổ chức phụ trợ trên thị
trường chứng khoán.

Trung tâm nghiên cứu và đào tạo chứng khoán thuộc


UBCK phối hợp với VAFI (hiệp hội các nhà đầu tư tài chính
Việt Nam), và các trường đại học trên cả nước tiến hành
mở các lớp về đào tạo chứng khoán (ngắn hạn, trung hạn
và dài hạn). Qua đó giúp các nhà đầu tư đánh giá được tiềm
năng cũng như thời cơ mà thị trường chứng khoán mang lại.
Và cũng giúp các tổ chức phụ trợ trên thị trường thực hiện
tốt chức năng của mình.

Thứ hai là tăng tính hấp dẫn của chứng khoán thông
qua chính sách thuế đối với thu nhập từ hoạt động đầu tư
chứng khoán.

Hiện nay, trên thị trường chứng khoán Việt Nam các
khoản thu nhập từ chứng khoán được tạm thời miễn thuế

102
điều này có tác dụng khuyến khích đầu tư chứng khoán rất
nhiều, đặc biệt là trong tình hình các khoản thu nhập từ gửi
tiết kiẹm và mua bán vàng của cá nhân không bị đánh thuế.
Về lâu dài, thì cần có chính sách thuế đối với thu nhập từ
chứng khoán.

Thứ ba tăng số lượng nhà đầu tư có tổ chức, nhà đầu


tư chiến lược.

Phát triển tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp,


khuyến khích các tổ chức này thành lập các công ty quản lý
quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán, phấn đấu tỷ trọng đầu tư
vào thị trường chứng khoán của tổ chức đầu tư chuyên
nghiệp đạt 20-25% tổng giá trị thị trường niêm yết chứng
khoán niêm yết vào năm 2010. Các nhà đầu tư có tổ chức
có vai trò quan trọng trên thị trường chứng khoán so với các
nhà đầu tư cá nhân.

Thứ tư là cải thiện môi trường, cơ sở đầu tư chứng


khoán.

Theo tình hình thực tế cho thấy cơ sở vật chất kỹ thuật


của các trung tâm môi giới chứng khoán vô cùng yếu kém.
Không có đủ diện tích của mặt bằng xây dựng, thiếu thông
tin, bảng điện tử, nhân viên phục vụ không tốt. Do đó,
chúng ta cần chú trọng tới mảng này thì chúng ta mới thu
hút được đông đảo nhà đầu tư.

Để thu hút đông đảo nhà đầu tư nước ngoài chúng ta


cần ổn định chính sách đầu tư. Vì theo tạp chí của Trung

103
Quốc cho rằng ở Việt Nam có tình trạng này. Một ví dụ điển
hình cho thấy khi chỉ cổ phiếu tăng lên đến 570 điểm thì Uỷ
ban chứng khoán sẽ ra chính sách giữ tỷ lệ cổ phiếu, hạn
chế đầu tư nước ngoài. Khi chỉ số chứng khoán giảm mạnh
xuống còn 130 điểm thì Uỷ ban này lại ra chính sách mở
rộng chính sách đầu tư nước ngoài khiến cho cổ phiểu đàn
hồi trở lại con số 280 điểm.

Hai là: theo nhận định của phía nước ngoài. Uỷ ban
chứng khoán Việt Nam yêu cầu các công ty tham gia thị
trường chứng khoán phải công khai tài chính băng tiếng việt
mà không bắt buộc phải dùng tiếng Anh hay tiếng Trung
Quốc. Do đó chúng ta cần có biện pháp hợp lý hoá thủ tục
này để thu hút thêm nhà đầu tư nước ngoài.

Kết luận: thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất
nhiều bất cập, do đó chúng ta cũng có nhiều giải pháp khác
nhau để giải quyết những bất cập đó. Do giới hạn tìm hiểu
của đề tài có hạn. Cho nên tôi chỉ có thể đưa ra một số giải
pháp ở một số lĩnh vực như trên.

104
C- kết luận

Qua bài viết của mình, em có thể thấy rằng: Thị trường
chứng khoán Việt Nam sau 6 năm hoạt động còn yếu kém
về mọi mặt, cả về cơ sở vật chất, kiến thức nhà đầu tư, cả
về vấn đề cổ phần hoá trong doanh nghiệp... Để khắc phục
tình trạng này chúng ta không những cần có những giải
pháp cụ thể là nâng cao tính công khai minh bạch, tăng
cường sự quản lý giám sát của cơ quan nhà nước, hoàn
thiện khuôn khổ pháp luật, nâng cao hiểu biết của mọi tầng
lớp dân cư về thị trường chứng khoán... mà chúng ta cần có
một giải pháp đồng bộ, nâng cao ý thức, trách nhiệm của
mọi cơ quan quản lý nhà nước (Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân
các cấp), các cán bộ quản lý kinh tế, tầng lớp trí thức, nhà
đầu tư, các đơn vị kinh tế nhà nước và tư nhân và và mọi
tầng lớp dân cư đóng sức mình cho sự nghiệp chung của đất
nước, và đặc biệt là thị trường chứng khoán Việt Nam , một
kênh huy động vốn quan trọng. Mục đích cuối cùng của giải
pháp trên là chúng ta tạo ra đất nước ta một thị trường
chứng khoán, công khai, minh bạch, công bằng, bình đẳng
giữa mọi thành phần kinh tế. Và đặc biệt hơn nó phát huy
được chức năng và nhiệm vụ của mình trong nền kinh tế.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn
Hồng Minh đã tận tình giúp em hoàn thành được đề tài này,
và đồng thơi em cũng xin chân thành cảm ơn đội ngũ giáo
viên của trường đại học Kinh Tế Quốc Dân và đặc biệt là

105
các thầy cô giáo bộ môn kinh tế đầu tư đã trang bị kiến thức
cơ bản cho em trong nhiệm vụ học tập và nghiên cứu.

Mục lục

Tên mục lục trang

Chương I – Lý luận chung về thị trường chứng khoán


1
I – Tổng quan về thị trường chứng khoán 1
1. Khái niệm và bản chất của thị trường chứng khoán 1
2. Vị trí và cấu trúc của thị trường chứng khoán 2
2.1. Vị trí của TTCK trong thị trường tài chính 2
2.2. Cấu trúc của thị trường chứng khoán 3
3. Các chủ thể trên thị trường chứng khoán 5
3.1. Chủ thể phát hành 5
3.2. Nhà đầu tư 6
3.3. Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán 6
4. vai trò của thị trường chứng khoán 8
II- Chứng khoán và việc phát hành chứng khoán 10
1. Chứng khoán và việc phân loại chứng khoán 10
2. Phát hành chứng khoán 14
2.1. Các chủ thể phát hành 14
2.2. Các phương thức phát hành chứng khoán 14

106
3. Cách thức đầu tư chứng khoán 15
3.1. Thị trường sơ cấp 15
3.2. Thị trường thứ cấp 17
III – Niêm yết chứng khoán 18
1. Khái niệm chức năng của sở giao dịch chứng khoán 18
2. Tổ chức và hoạt động của sở giao dịch chứng khoán 19
3. Thành viên của sở giao dịch chứng khoán 21
4. Niêm yết chứng khoán 22
Chương II- thực trạng thị trường chứng khoán việt
nam 24
I- thị trường sơ cấp 24
1. Đầu tư vào cổ phiếu 24
2. Đầu tư vào trái phiếu 27
II- Thị trường thứ cấp 31
1. Thực trạng của việc niêm yết chứng khoán ở Việt Nam
hiện nay 31
2. Kết quả giao dịch của thị trường chứng khoán trong
thời gian vừa qua 38
3. Đầu tư cổ phiếu ngoài sàn OTC 39
III- đánh giá chung 41
1. Những thành tựu đạt được 41
2. Những tồn tại và nguyên nhân 44
Chương III- một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt
động của thị trường chứng khoán 45
I- Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt
Nam

107
tới năm 2010 45
1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
tới năm 2010. 45
2. Định hướng phát triển hoạt động đầu tư chứng khoán 46
III- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của
Thị trường chứng khoán 46
1. Nhóm giải pháp về tăng cường quản lý hoạt động đầu tư
46
2. Nhóm giải pháp về nâng cao tính minh bạch trên thị
trường
chứng khoán Việt Nam 48
3. Nhóm giải pháp cho thị trường trái phiếu 52
4. Nhóm giải pháp về tăng cường nguồn hàng cho thị trường
chứng khoán 54
5. Nhóm giải pháp thu hút đông đảo nhà đầu tư 55

108
Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình thị trường chứng khoán
Chủ biên: PGS. TS. Nguyễn Văn Nam
PGS. TS. Vương Trọng Nghĩa.
2. Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 1+2 năm 2006
3. Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 9 năm 2006.
4. Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 10 năm 2006.
5. Tạp chí Đầu tư chứng khoán số 43 ngày 23 tháng 10 năm
2006.
6. Tạp chí Đầu tư chứng khoán số 44 ngày 30 tháng 10 năm
2006.
7. Các trang Website: www. Nyse.com, www.vse.org.VN,
www.hastc.org.vn,....

109

You might also like