You are on page 1of 52

Nhóm 1 _Đề Tài _

_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__


LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây ngày càng có nhiều công ty,doanh nghiệp quan
tâm đến vấn đề đạo đức kinh doanh để định hướng cho các hành vi của mình và đảm
bảo rằng những họat động của họ phù hợp với những tiêu chuẩn trong nước
cũng như quốc tế.Nhiều giả thuyết đã được đưa ra để thiết lập một hệ thống các
tiêu chuẩn đạo đức toàn cầu nói chung. Khi áp dụng cho kinh doanh trong nước
hay trong kinh doanh toàn cầu, các giá trị chung như : trung thực, liêm chính, công
bằng, và vô tư … góp phần tạo nên một hệ thống đạo đức. Khái niệm đạo đức
thương trường đã có nền móng tự hàng nghìn năm trước.

Đạo đức kinh doanh điều chỉnh hành vi đạo đức của tất cả các thành viên
trong các tổ chức kinh doanh (hộ gia đình, công ty, xí nghiệp, tập đoàn) như : Ban
giám đốc, các thành viên Hội đồng quản trị, công nhân viên chức. Sự điều chỉnh này
chủ yếu thông qua công tác lãnh đạo, quản lý trong mỗi tổ chức đó. Đạo đức kinh
doanh được gọi là đạo đức nghề nghiệp của họ.

Đạo đức kinh doanh là khái niệm tưởng như rất xa xỉ nhưng thực tế lại rất đời
thường. Một doanh nghiệp có đạo đức kinh doanh là một doanh nghiệp không kiếm
lời bằng sự lừa dối khách hàng, bằng sự hủy hoại môi trường, hay bằng sự bóc lột
người lao động… Sự hủy hoại môi trường rất dễ bị phát hiện bởi người dân và các cơ
quan chức năng. Sự bóc lột người lao động cũng dễ bị phanh phui và phản ứng bởi
công đoàn và chính người lao động. Tuy nhiên, hành vi lừa dối khách hàng lại thường
được doanh nghiệp thực hiện một cách hết sức tinh vi và được che đậy thông qua
nhiều phương tiện hiện đại mà khách hàng rất khó nhận biết, hoặc dẫu có nhận biết
thì cũng đã muộn vì đã lỡ mất tiền, không thể đòi lại được. Nếu như chuyện lừa dối
trong các hoạt động kinh doanh sản phẩm, dịch vụ phục vụ tiêu dùng đáng bị lên án
thì hành vi lừa dối trong kinh doanh giáo dục và đào tạo càng là điều không thể chấp
nhận được. Hiện có nhiều cơ sở chiêu sinh, mở lớp đào tạo về quản lý, trong đó có
chủ đề Văn hóa doanh nghiệp – một phần không tách rời của đạo đức kinh doanh. Lẽ
đương nhiên, ai cũng nghĩ, một doanh nghiệp đã đi dạy cho người khác làm văn hóa
doanh nghiệp thì không lý nào doanh nghiệp đó lại không xây dựng cho mình văn hóa
trước. Và khi đã có văn hóa doanh nghiệp rồi, vấn đề đạo đức kinh doanh hẳn sẽ được
đặt lên hàng đầu. Thế nhưng, thực tế không phải lúc nào cũng như nhiều người vẫn
tưởng.

Bài tiểu luận này chúng tôi muốn đề cập đến vấn đề nóng hổi hiện nay là đạo
đức kinh doanh của các các DN Việt Nam , cũng như các công ty tập đoàn đa quốc
gia .Liệu đạo đức kinh doanh có cần thiết ? tại sao phải xây dựng triết lý kinh
doanh ,đạo đức kinh doanh ,văn hóa kinh doanh ?

-1-
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

Phần I
CÁC KHÁI NIỆM , ĐẠO ĐỨC KINH DOANH VÀ
CƠ SỞ HÌNH THÀNH ĐẠO ĐỨC KINH
DOANH
Khái niệm đạo đức kinh doanh.

Đạo đức kinh doanh là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng
điều chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh chính là phạm trù đạo đức được vận dụng vào trong hoạt động
kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh là một dạng đạo đức nghề nghiệp .
Đạo đức kinh doanh có tính đặc thù của hoạt động kinh doanh - do kinh doanh là hoạt
động gắn liền với các lợi ích kinh tế, do vậy khía cạnh thể hiện trong ứng xử về đạo
đức không hoàn toàn giống các hoạt động khác: Tính thực dụng, sự coi trọng hiệu quả
kinh tế là những đức tính tốt của giới kinh doanh nhưng nếu áp dụng sang các lĩnh
vực khác như giáo dục, y tế... hoặc sang các quan hệ xã hội khác như vợ chồng, cha
mẹ con cái thì đó lại là những thói xấu bị xã hội phê phán. Song cần lưu ý rằng đạo
đức kinh doanh vẫn luôn phải chịu sự chi phối bởi một hệ giá trị và chuẩn mực đạo
đức xã hội chung

I-Các nguyên tắc và chuẩn mực của đạo đức kinh doanh.

1.Tính trung thực.

Không dùng các thủ đoạn gian dối, xảo trá để kiếm lời. Giữ lời hứa, giữ chữ tín
trong kinh doanh. Nhất quán trong nói và làm. Trung thực trong chấp hành luật pháp
của nhà nước, không làm ăn phi pháp như trốn thuế, lậu thuế, không sản xuất và buôn
bán những mặt hàng quốc cấm, thực hiện những dịch vụ có hại cho thuần phong mỹ
tục. Trung thực trong giao tiếp với bạn hàng (giao dịch, đàm phán, ký kết) và người
tiêu dùng: Không làm hàng giả, khuyến mại giả, quảng cáo sai sự thật, sử dụng trái
phép những nhãn hiệu nổi tiếng, vi phạm bản quyền, phá giá theo lối ăn cướp. Trung
thực ngay với bản thân, không hối lộ, tham ô, thụt két, "chiếm công vi tư"

2.Tôn trọng con người.

Đối với những người cộng sự và dưới quyền, tôn trọng phẩm giá, quyền lợi chính
đáng, tôn trọng hạnh phúc, tôn trọng tiềm năng phát triển của nhân viên, quan tâm
đúng mức, tôn trọng quyền tự do và các quyền hạn hợp pháp khác.

-2-
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
Đối với khách hàng,tôn trọng nhu cầu, sở thích và tâm lý khách hàng.
Đối với đối thủ cạnh tranh, tôn trọng lợi ích của đối thủ .Gắn lợi ích của doanh
nghiệp với lợi ích của khách hàng và xã hội, coi trọng hiệu quả gắn với trách nhiệm
xã hội.
Bí mật và trung thành với các trách nhiệm đặc biệt.
Đối tượng điều chỉnh của đạo đức kinh doanh là chủ thể hoạt động kinh doanh.
Theo nghĩa rộng, chủ thể hoạt động kinh doanh gồm tất cả những ai là chủ thể của các
quan hệ và hành vi kinh doanh: Tầng lớp doanh nhân làm nghề kinh doanh.
Khách hàng của doanh nhân: Khi là người mua hàng thì hành động cuả họ đều xuất
phát từ lợi ích kinh tế của bản thân, đều có tâm lý muốn mua rẻ và được phục vụ chu
đáo. Tâm lý này không khác tâm lý thích "mua rẻ, bán đắt" của giới doanh nhân, do
vậy cũng cần phải có sự định hướng của đạo đức kinh doanh. Tránh tình trạng khách
hàng lợi dụng vị thế "Thượng đế" để xâm phạm danh dự, nhân phẩm của doanh nhân,
làm xói mòn các chuẩn mực đạo đức. Khẩu hiệu "Bán cái thị trường cần chứ không
phải bán cái mình có" chưa hẳn đúng!!

3.Phạm vi áp dụng của đạo đức kinh doanh.

Đó là tất cả những thể chế xã hội, những tổ chức, những người liên quan, tác động
đến hoạt động kinh doanh: thể chế chính trị, chính phủ, công đoàn, nhà cung ứng,
khách hàng, cổ đông, chủ doanh nghiệp, người làm công.
Chức năng cơ bản của đạo đức là: đạo đức điều chỉnh hành vi của con người theo
các chuẩn mực và quy tắc đạo đức đã được xã hội thừa nhận bằng sức mạnh của sự
thôi thúc lương tâm cá nhân, của dư luận xã hội, của tập quán truyền thống và của
giáo dục
Từ "đạo đức" có gốc từ latinh Moralital (luân lý) - bản thân mình cư xử và gốc từ Hy
lạp Ethigos (đạo lý) - người khác muốn ta hành xử và ngược lại ta muốn họ. ở Trung
Quốc, "đạo" có nghĩa là đường đi, đường sống của con người, "đức" có nghĩa là đức
tính, nhân đức, các nguyên tắc luân lý.
Đạo đức là tập hợp các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh, đánh
giá hành vi của con người đối với bản thân và trong quan hệ với người khác, với xã
hội.
Từ giác độ khoa học, “đạo đức là một bộ môn khoa học nghiên cứu về bản chất tự
nhiên của cái đúng -cái sai và phân biệt khi lựa chọn giữa cái đúng - cái sai, triết lý về
cái đúng - cái sai, quy tắc hay chuẩn mực chi phối hành vi của các thành viên cùng
một nghề nghiệp” (từ điển Điện tử American Heritage Dictionary).
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có đặc điểm:

• Đạo đức có tính giai cấp, tính khu vực, tính địa phương.
• Nội dung các chuẩn mực đạo đức thay đổi theo điều kiện lịch sử cụ thể.

-3-
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
• Chức năng cơ bản của đạo đức là đạo đức điều chỉnh hành vi của con người
theo các chuẩn mực và quy tắc đạo đức đã được xã hội thừa nhận bằng sức
mạnh của sự thôi thúc lương tâm cá nhân, của dư luận xã hội, của tập quán
truyền thống và của giáo dục.

Đạo đức quy định thái độ, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người đối với bản thân cũng
như đối với người khác và xã hội. Vì thế đạo đức là khuôn mẫu, tiêu chuẩn để xây
dựng lối sống, lý tưởng mỗi người.
Những chuẩn mực và quy tắc đạo đức gồm: Độ lượng, khoan dung, chính trực khiêm
tốn, dũng cảm, trung thực, tín, thiện, tàn bạo, tham lam, kiêu ngạo, hèn nhát, phản bội,
bất tín, ác…
Đạo đức khác với pháp luật ở chỗ:

• Sự điều chỉnh hành vi của đạo đức không có tính cưỡng bức, cưỡng chế mà
mang tính tự nguyện, các chuẩn mực đạo đức không được ghi thành văn bản
pháp quy.

Phạm vi điều chỉnh và ảnh hưởng của đạo đức rộng hơn pháp luật. Pháp luật chỉ điều
chỉnh những hành vi liên quan đến chế độ xã hội, chế độ nhà nước; còn đạo đức bao
quát mọi lĩnh vực của thế giới tinh thần. Pháp luật chỉ làm rõ những mẫu số chung
nhỏ nhất của các hành vi hợp lẽ phải, hành vi đạo lý đúng đắn tồn tại bên trên luật .

4.Lắng nghe khách hàng.

Để biết rõ họ sẽ phản ứng như thế nào luôn là một công cụ hữu hiệu khi doanh
nghiệp muốn sản phẩm hay kế hoạch xúc tiến kinh doanh trở nên hiệu quả hơn.
Việc lắng nghe khách hàng còn mang lại cho công ty lợi ích khác là giải quyết những
phàn nàn của khách hàng một cách sáng tạo cũng chính là một trong những cách phát
hiện các ý tưởng mới về sản phẩm hay dịch vụ, cơ hội cải tiến.
Bên cạnh đó, lắng nghe ý kiến của nhân viên là điều rất quan trọng nếu muốn lắng
nghe khách hàng. Hãy tổ chức các cuộc họp với nhân viên bàn về các khách hàng
quan trọng của công ty và họ sẽ đóng góp nhiều ý kiến để có thêm nhiều cơ hội cải
tiến.

5.Chăm sóc khách hàng.

Là tất cả những gì cần thiết mà doanh nghiệp phải làm để thoả mãn nhu cầu và
mong đợi của khách hàng, tức là phục vụ khách hàng theo cách mà họ mong muốn

được phục vụ và làm những việc cần thiết thiết để giữ các khách hàng đang có. Khách
hàng mong muốn dịch vụ cốt lõi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thực
sự đáp ứng nhu cầu của họ. Khách hàng luôn mong đợi dịch vụ hậu mãi sau bán hàng
của doanh nghiệp thực sự tiện lợi.
-4-
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
Để doanh nghiệp tồn tại và phát triển, hãy xây dựng một môi trường kinh doanh
thực sự chú trọng cung cấp các dịch vụ tốt nhất cho khách hàng. Đây là cách tốt nhất
để tăng cường lợi thế cạnh tranh của mình. Cạnh tranh hiện nay không chỉ là cạnh
tranh về sản phẩm mà còn phải làm tốt công tác chăm sóc khách hàng.
Chăm sóc khách hàng không chỉ là nhiệm vụ của nhân viên bán hàng mà bất kỳ cá
nhân nào trong doanh nghiệp cũng phải thực hiện nhiệm vụ nào đó cho một số người
khác trong doanh nghiệp của mình, tức là ai cũng có khách hàng và đó là khách hàng
nội bộ của doanh nghiệp.
Việc chăm sóc khách hàng phải bắt nguồn từ sự cam kết của lãnh đạo cấp cao nhất
và nhất quán trong mọi phòng ban. Sau đây là sáu bí quyết giúp chăm sóc khách hàng
tốt nhất:
 Sự thân thiện và nồng ấm trong giao tiếp với khách hàng.
 Khách hàng muốn được cảm thấy mình thực sự quan trọng.
 Khách hàng muốn được công ty lắng nghe những gì họ nói.
 Đôi khi, việc biết tên của khách hàng cũng đem lại lợi thế cho doanh nghiệp.
 Năng động, linh hoạt.

6.Tạo sự an tâm của khách hàng đối với nhãn hiệu.

Vì người mua thường cảm thấy an tâm khi mua những nhãn hiệu mà mình đã từng
biết, từng nghe nói đến nhiều. Một nhãn hiệu nghe lạ tai ít có cơ may được khách
hàng quan tâm đến.

7.Sự trung thành của khách hàng đối với nhãn hiệu của doanh nghiệp.

Thông qua việc giữ chân khách hàng dễ dàng hơn, nhất là khi khách hàng đã thỏa
mãn với nhãn hiệu của doanh nghiệp. Khách hàng thường vẫn có tâm lý ngại thay đổi
nhãn hiệu, thậm chí còn quảng cáo không công cho nhãn hiệu đã quen dùng. Mức độ
trung thành của khách hàng cao sẽ làm tăng ảnh hưởng đến kênh phân phối, vì người
bán hàng thích bày bán những nhãn hiệu mà khách hàng muốn mua nhiều.

8.Tin tưởng của khách hàng về chất lượng.

Thể hiện thông qua sự cảm nhận của người mua về chất lượng của một nhãn hiệu, vì chất
lượng của nhã hiệu không nhất thiết dựa vào sự hiểu biết rõ những qui cách, phẩm chất của
nhãn hiệu mà chất lượng thấy được là những gì khách hàng cho rằng nó nói lên chất lượng.
Tin tưởng của khách hàng về chất lượng sẽ tác động trực tiếp lên quyết định

mua hàng cũng như sự trung thành với nhãn hiệu. Nó cũng thuận lợi và biện minh được cho
một giá bán cao hơn mà người mua cũng dễ dàng chấp nhận. Ngoài ra, nó còn là cơ sở cho
doanh nghiệp mở rộng nhãn hiệu trong các lãnh vực khác có liên quan.

9.Tạo cho khách hàng có sự liên kết giữa sản phẩm và nhãn hiệu.
-5-
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

Thông qua việc nối trí nhớ của khách hàng đến với nhãn hiệu một cách trực tiếp hay gián
tiếp. Điển hình như nói đến nước ngọt người ta nghĩ đến Coca, trông thấy cá cơm người ta
liên tưởng đến nước mắm Phú Quốc. Sự liên kết mạnh của nhãn hiệu có thể là cơ sở cho việc
mở rộng nhãn hiệu như trà chanh Lipton có được lợi thế cạnh tranh do sự liên kết của nhãn
hiệu Lipton. Nếu một nhãn hiệu được định vị một cách vững chắc dựa vào một thuộc tính
then chốt của sản phẩm sẽ là một rào cản đối với các nhãn hiệu khác muốn cạnh tranh.

II- Đạo đức cần cho thương hiệu

Không phải quá ngạc nhiên, tại hầu hết các thị trường phát triển, một vụ vi phạm
về các chuẩn đạo đức kinh doanh bị phạt rất nặng. Tuy nhiên, "án phạt" nặng nhất cho
những trường hợp đó chính là việc người tiêu dùng tẩy chay dùng sản phẩm.
Còn nhớ, năm 2006, khi Trung tâm Khoa học và Môi trường Ấn Độ (CSE) ra
thông báo rằng: các sản phẩm của Coca-cola và Pepsi chứa nhiều độc tố quá mức cho
phép, các nhà quản trị của hai thương hiệu này đã phản ứng quá mức. Họ đâm đơn lên
kiện cáo buộc của CSE. Và kết quả các sản phẩm của họ bị phản đối ở thị trường này.
Ắt hẳn, rất nhiều người hiểu, cáo buộc của CSE là thái quá. Và xét về góc độ lý
tính, phản ứng của nhà quản trị hai thương hiệu này là có cơ sở. Nhưng, vấn đề là
người tiêu dùng, có chấp nhận sự phản ứng đó ở mức nào.
Lấy ví dụ này để thấy rằng, rõ ràng, ở những thị trường phát triển, người tiêu dùng
được định danh đúng nghĩa là “thượng đế”. Và bất kì những gì ảnh hưởng đến quyền
lợi của người tiêu dùng luôn luôn bị phản đối. Do vậy cách làm ở đây là “thuyết phục"
với thái độ mềm mỏng chứ không phải là "kiện tụng". Và người tiêu dùng được quyền
từ chối, vì tại thị trường của họ đã xác lập những giá trị thực tế, mà ở đó, yếu tố đạo
đức quyết định cho sức sống của thương hiệu.
Ở Việt Nam, các tập đoàn lớn, cũng có thái độ ứng xử tương tự khi gặp sự cố. Còn
nhớ, khi cơn “bão melamine”, quét sang thị trường Việt Nam, vẫn có những tên tuổi
lớn gặp sự cố. Đó là trường hợp của Mead Johnson bị nghi ngờ là có nhiễm melamine
ở một thị trường khác. Lập tức, họ xác nhận lại mức độ chính xác của thông tin. Và
kịp thời đưa thông tin đó đến người tiêu dùng với dạng “thuyết phục”. Bởi vì, hơn ai
hết, họ ý thức được sự "nguy hiểm” nếu những điều tiếng này tiếp tục tồn tại. Điều
quan trọng là, những giá trị chân thật, khả tín...chính là điều cần thiết để bảo vệ
thương hiệu của mình. Và một tên tuổi lớn như Mead Johnson, không thể "chối đây
đẩy" những thông tin như thế với khách hàng của

mình. Bởi vì, họ hiểu rằng, ngay khi mình "vô can”, những câu chuyện đại loại như
vậy sẽ là "thông tin xấu” làm hoen ố hình ảnh và làm hạn chế sức sống của thương
hiệu.

Vấn đề là tại sao, phần lớn các doanh nghiệp của Việt Nam không ý thức hay ý
thức không đầy đủ sự tác động của những sự cố này đến thương hiệu của mình? Điều
này có lẽ lý giải một phần: những chuẩn giá trị của đạo đức kinh doanh đã không

-6-
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
được tôn trọng, và hệ lụy của nó, ắt hẳn không thể hiện ngay nước mắt, mà từ từ và
lâu dài. Và điều quan trọng nhất, khi người tiêu dùng, không còn sự tín nhiệm, niềm
tin, tất cả những giá trị khác sẽ chẳng còn ý nghĩa nào nữa.

Tất nhiên, thị trường có những quy luật của riêng nó. Tuy nhiên, cách làm khôn
khéo là tác động vào những quy luật đó để nó chuyển động theo chiều hướng tích cực,
có lợi cho doanh nghiệp.

Giá trị đạo đức trong kinh doanh không phải là điếu gì quá mơ hồ. Nó cần
được những nhà quản trị doanh nghiệp xác lập trong từng hành động cụ thể và trải đều
trên tất cả những lĩnh vực mà doanh nghiệp đang hoạt động, kinh doanh.
Và khi nào các doanh nghiệp Việt Nam ý thức đầy đủ những điều như vậy, cơ hội để
vươn lên vẫn còn rộng mở, ngược lại, tất cả những nỗ lực để xây dựng thương
hiệu,vẫn là điều gì đó xa vời và không thực tế

Đưa đạo đức vào trong kinh doanh như thế nào ?

Hầu hết các doanh nghiệp đều công nhận đạo đức trong kinh doanh là một vấn đề
quan trọng nhưng nhiều doanh nghiệp lại tỏ ra lúng túng không biết phải làm thế nào
để đưa vấn đề này vào trong các hoạt động của mình. Dựa trên kinh nghiệm từ nhiều
công ty trên thế giới và kết quả các nghiên cứu khoa học, dưới đây là một số gợi ý cho
việc cần làm và yếu tố cần có để thực hiện đạo đức trong doanh nghiệp.

Quan điểm và sự gương mẫu của lãnh đạo.


Thực tế cho thấy nhiều hành vi phi đạo đức của các nhân viên là do ảnh hưởng xấu từ
cấp lãnh đạo. Nếu lãnh đạo đồng tình tiếp tay cho các hành vi như khai man thuế, làm
gian, làm ẩu, qua mặt đối tác… thì không thể đòi hỏi sự trung thực của nhân viên.
“Thượng bất chính hạ tắc loạn” ! Ngược lại, sự quyết tâm tôn trọng các giá trị đạo
đức, cho dù trong nhiều trường hợp phải chịu thua thiệt, và sự gương mẫu trong việc
thực hiện những giá trị này của lãnh đạo sẽ tạo niềm tin và động lực cho mọi người
cùng nhau làm ăn chân chính.

Xây dựng bộ quy tắc đạo đức thống nhất .

Phạm trù đạo đức thường rất rộng và trừu tượng, nhiều khi còn mang tính chủ quan.
Do đó, để cụ thể hóa việc thực hiện các vấn đề đạo đức, mỗi doanh nghiệp nên xây
dựng và áp dụng một bộ những quy tắc đạo đức thống nhất. Bộ quy tắc này được xem
là một cẩm nang hướng dẫn cho nhân viên và là cơ sở để giải quyết các vấn đề liên
quan đến đạo đức trong doanh nghiệp. Nội dung của bộ quy tắc đạo đức nên bao gồm
bốn phần chính:

1. Sự ủng hộ và yêu cầu thực hiện đạo đức của lãnh đạo doanh nghiệp .

-7-
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
2. Cam kết và trách nhiệm của doanh nghiệp với nhân viên.

3. Các giá trị đạo đức và trách nhiệm mà nhân viên phải thực hiện đối với đồng
nghiệp, lãnh đạo, khách hàng, chính quyền và cộng đồng.

4. Các phương thức thông tin và cách giải quyết các vướng mắc liên quan đến đạo
đức.

Như vậy, trong bộ quy tắc đạo đức thì trách nhiệm của doanh nghiệp và lãnh đạo
được nêu ra trước, sau đó mới đề cập đến trách nhiệm của nhân viên. Trong thực tế,
các công ty ở Mỹ và Canada thường có những bộ quy tắc không dài quá hai trang,
được trình bày đẹp, sinh động, ngắn gọn và dễ hiểu để phát cho mọi nhân viên. Doanh
nghiệp không nên sao chép rập khuôn các quy tắc đạo đức chung chung hoặc thuê
công ty tư vấn viết thay, mà nên tổ chức cho tất cả nhân viên cùng đóng góp xây dựng
các quy tắc, tự đề ra trách nhiệm và hướng giải quyết khi xảy ra các vấn đề liên quan
đến đạo đức. Các quy tắc cũng cần được cập nhật, điều chỉnh định kỳ cho phù hợp với
tình hình thực tế và nguyện vọng của nhân viên. Khi được đóng góp ý kiến thì các
nhân viên sẽ coi bộ quy tắc này là của chính mình nên sẽ tự giác thực hiện nó. Khi đó
đạo đức trong kinh doanh không phải là
những nội quy cứng nhắc trên giấy mà sẽ trở thành một nét văn hóa sống động trong
công ty.

Các chương trình Huấn luyện về đạo đức.

Xây dựng một bộ quy tắc chỉ là bước đầu đưa đạo đức trở thành nét văn hóa sống
động trong công ty. Bộ quy tắc dù đầy đủ và rõ ràng đến đâu cũng không thể bao quát
hết tình hình thực tế. Vì thế, việc hiểu và thực hiện đạo đức trong doanh nghiệp cũng
cần được xem như huấn luyện các kỹ năng bán hàng, giao tiếp… Trong hoạt động
hàng ngày của doanh nghiệp sẽ phát sinh rất nhiều tình huống mới làm nhân viên lúng
túng không biết phải xử lý thế nào cho đúng về mặt đạo đức, như nhắm mắt cho qua
để đạt chỉ tiêu hay nên dừng lại để kiểm tra khi phát

hiện sản phẩm bị lỗi, hoặc có nên đuổi việc nhân viên khi vi phạm một lỗi nào đó?
Trải qua những tình huống như vậy, doanh nghiệp cần tổ chức các chương trình huấn
luyện về đạo đức kinh doanh để giúp nhân viên biết cách xử lý vấn đề cho đúng. Có
thể đó là các khóa học tập trung hay ngoài giờ hoặc các buổi hội thảo, nói chuyện
chuyên đề, hay thi đố vui xử lý tình huống, diễn kịch tuyên truyền, thi viết báo tường
hay vẽ tranh cổ động… Nhiều công ty cũng có sáng kiến xây dựng các tình huống
mẫu hoặc phát triển các quy tắc đạo đức chung thành những đoạn phim ngắn chiếu
cho nhân viên xem.

-8-
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

Xây dựng các kênh thông tin

Nhiều công ty như Motorola hay Sundstrand đã thành lập một hội đồng gồm các
nhân viên thường trực và chuyên trách về đạo đức. Khi có thắc mắc gì về vấn đề này
thì nhân viên của công ty sẽ liên lạc với hội đồng này. Tương tự, các công ty Pacific
Bell và Marathon Oil cũng đã thành lập các “đường dây nóng”giải quyết các vấn đề
về đạo đức kinh doanh. Tập đoàn Texas Instruments thì xây dựng kênh thông tin qua
hệ thống thư điện tử, nhân viên ở khắp thế giới để có thể liên lạc trực tiếp với những
người chuyên trách vấn đề ở tổng công ty tại Mỹ. Tuy nhiên, cũng cần tránh việc ỷ lại
và dồn hết trách nhiệm vào những người chuyên trách.

-9-
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

Phần II
THỰC TIỄN VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
I-Giá trị thương hiệu và đạo đức kinh doanh.

Các thương hiệu luôn xuất hiện, cạnh tranh và tồn tại trong những phân khúc giá
khác nhau. Bên cạnh đó vấn đề lợi nhuận và đạo đức trong kinh doanh luôn làm đau
đầu các nhà lãnh đạo.
Thương hiệu trong nền kinh tế thị trường :
Theo cơ chế cạnh tranh của thị trường tự do, trong bất cứ ngành hàng nào, từ hàng
tiêu dùng nhanh, hàng điện máy, ngành quần áo thời trang hay các ngành dịch vụ,…
các thương hiệu luôn xuất hiện, cạnh tranh và tồn tại trong những phân khúc giá khác
nhau.
Lấy ví dụ tại thị trường Việt Nam. Trong ngành dầu gội, giá bán của Sunsilk đắt gần
gấp 3 lần giá bán của dầu gội đầu Mỹ Hảo. Trong ngành điện máy, giá bán của tivi
Sony đắt gấp đội so với giá của nhãn hiệu nội địa Darling. Trong ngành dịch vụ quảng
cáo hay trong dịch vụ về luật, giá dịch vụ của các hãng nước ngoài đắt hơn từ 3 đến
10 lần so với giá của các công ty của Việt Nam.
Tuy có mức chênh lệch giá rất lớn giữa các thương hiệu ở phân khúc thấp so
với phân khúc cao cấp, nhưng càng ngày, chất lượng sản phẩm (hay dịch vụ) giữa các
phân khúc càng bớt khác biệt. Ngày nay, nếu bỏ nhãn hiệu đi và cho người khách
hàng dùng thử, nhiều loại sản phẩm và dịch vụ có giá rất chênh nhau những lại hầu
như không tạo ra sự khác biệt.
Trên thực tế các tập đoàn đa quốc gia đã chuyển khâu sản xuất của nhiều loại sản
phẩm và các ngành dịch vụ sang các nước đang phát triển, nơi mà giá nhân công rẻ
hơn tại thị trường tiêu thụ nhiều lần.
Chuyện gì đã xảy ra khi mức chênh lệch giá không thể hiện ở các ích lợi của
sản phẩm hay của dịch vụ? Và tại sao người ta phải bỏ thêm những khoản tiền lớn để
được sử dụng thương hiệu mà họ yêu thích?

II-Vấn đề về lợi nhuận và đạo đức kinh doanh.

Hiện nay bất cứ nhà kinh doanh nào cũng đều muốn nâng giá của sản phẩm,
hay của dịch vụ lên càng cao càng tốt. Khi một sản phẩm có giá cao, rõ ràng khả năng
mang lại lợi nhuận sẽ tăng lên đáng kể, mà công sức và thời gian và chi phí kinh
doanh sẽ giám xuống. Còn gì bằng khi mà một chai bia Heineken có giá bán gần gấp
3 lần chai bia Sài Gòn (trên thực tế mức lợi nhuận sẽ chênh nhau đến cả chục lần). Tại

- 10 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
sao một đôi giày thể thao Nike được sản xuất tại Việt Nam có giá xuất xưởng chưa tới
15 Đô-la Mỹ lại có giá bán gần 200 Đô-la Mỹ?
Tất cả những người làm kinh doanh, những chuyên gia marketing và các giám
đốc nhãn hiệu đều có chung một khát khao là làm sao có thể nâng được giá bán của
sản phẩm lên thật cao ở mức tối đa mà người tiêu dùng có thể chấp nhận.
Một vấn đề lớn được đặt ra rằng liệu đã đến lúc phải làm rõ chuyện “bóc lột
trắng trợn” của những người chủ thương hiệu đối với người tiêu dùng? Theo như
những gì đang xảy ra, liệu các chủ thương hiệu có quá nhẫn tâm và tham lam khi nâng
mức giá lên cao quá mức như vậy?
Trong tác phẩm “No Logo”, Naomi Klein đã nêu ra thực tế là người tiêu dùng
ở các nước phương tây đã thấy rõ tình trạng này từ những thập niên chín mươi của thế
kỷ XX. Đã có hàng loạt những cuộc biểu tình phản đối và tẩy chay các nhãn hiệu toàn
cầu. Theo như những gì mà mọi người thấy được thì có lẽ người tiêu dùng đang bị các
tập đoàn sở hữu những thương hiệu lớn bóc lột “tới tận xương”.
Nếu mọi chuyện đúng như vậy thì tất cả những người làm nghề xây dựng
thương hiệu đều là những kẻ tham lam, vô đạo đức và lừa bịp khách hàng chăng?
Là một người đã nhiều năm làm nghề truyền thông tiếp thị với mục đích xây dựng nên
những thương hiệu có giá trị cao (tức làm cho người tiêu dùng phải “hài lòng” bỏ tiền
ra mua và sử dụng thương hiệu được quảng bá), tác giả bài viết này đã thật sự “sốc”
khi đọc được những tài liệu trong cuốn sách của tiến sĩ Naomi Klein.
Là chuyên gia quản lý thương hiệu, hoặc là một chủ doanh nghiệp, liệu có gì
sai khi chúng ta muốn tạo nên những thương hiệu “đắt hơn những nhãn hiệu khác
nhiều lần” mà vẫn hấp dẫn người tiêu dùng? Liệu có gì trái với đạo đức kinh doanh
trong việc tìm cách bắt người tiêu dùng phải trả thêm tiền chỉ bởi sản phẩm được gắn
thêm một cái tên “khác biệt”?

 Sự thật phía sau những cảm nhận đắt giá.


Số liệu thực tế cho thấy, sự trung thành của người tiêu dùng (hay nói cách khác
là sự lệ thuộc của họ) vào các thương hiệu đắt tiền luôn bền vững và ngày càng tăng.
Trong một nghiên cứu về người uống bia tại thị trường Việt Nam, khi trả lời cho câu
hỏi: “nếu được thoải mái lựa chọn thì bạn sẽ chọn loại bia nào?”, hơn 70% người
được hỏi đã trả lời Heineken.
Quả thật là các thương hiệu mạnh luôn có giá cao hơn hẳn những đối thủ cạnh
tranh cùng ngành hàng. Tuy vậy, nếu bạn tìm hiểu kỹ lưỡng thì sẽ thấy rằng, các sản
phẩm “cao cấp” đắt tiền luôn được ưa chuộng, và ngày càng được ưa chuộng hơn.
Trong một đợt phỏng vấn bỏ túi với khoảng 60 phụ nữ được hỏi ý kiến, tất cả mọi
người đều chọn Sunsilk làm dầu gội thay vì chọn một nhãn dầu nội địa khác có chất
lượng tốt và giá rẻ hơn.
Trong cuốn “The Cult of The Luxury Brand” (tạm dịch Mốt Xài Hàng Hiệu
Sang Trọng) nêu ra một số dẫn chứng về xu hướng thích xài hàng hiệu của người tiêu
dùng. Đặc biệt tại Châu Á, người dân ngày càng thích chọn mua những loại hàng hóa
có nhãn hiệu rất đắt tiền (có đến 94% phụ nữ ở Tokyo sử dụng sản phẩm của Louis

- 11 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
Vuitton – một nhãn hiệu hàng hóa thuộc loại đắt nhất thế giới). Hẳn việc ưa chuộng
các sản phẩm giá cao sẽ cho cảm nhận là sản phẩm tốt hơn, dẫn đến việc sẽ hài lòng
hơn khi sử dụng.
Dựa trên những phân tích về giá trị của sản phẩm và giá trị của thương hiệu, chúng ta
dễ thấy được là một sản phẩm mang thương hiệu sẽ tạo ra 2 loại giá trị khác biệt rất rõ
ràng: giá trị lý tính và giá trị cảm tính.
Giá trị lý tính: Đây chính là những lợi ích mà một loại hàng hóa, hay một loại dịch vụ
mang lại cho người tiêu dùng. Cà phê đơn thuần là một loại thức uống gây nghiện và
giúp người uống tỉnh táo hơn, sảng khoái hơn. Uốn tóc là một dịch vụ giúp cho các bà
các cô có mái tóc kiểu cách và đẹp hơn. Nếu một sản phẩm không có thương hiệu, nó
được gọi là hàng hóa.
Giá trị cảm tính: Là một loại giá trị do các thương hiệu mang lại. Khi một loại hàng
hóa với những đặc điểm cụ thể tạo nên sự khác biệt, người bán hàng sẽ được gắn thêm
tên gọi cho hàng hóa đó để người tiêu dùng dễ phân biệt, dễ nhận biết. Chính cái tên
mà người bán hàng gắn cho loại sản phẩm có những đặc điểm khác biệt là lý do để
cho chúng ta phải trả thêm tiền để mua sản phẩm đó. Nói một cách khác, sản phẩm đó
có kèm theo thương hiệu. Thương hiệu cà phê Highland có giá trên dưới 20 ngàn một
ly, trong khi ly cà phê của dì Ba bán ở góc đường (cũng ngon không kém) thì giá chỉ
có 4 ngàn đồng.
Dịch vụ cũng vậy, uốn một cái đầu tại tiệm uốn tóc bình dân Hồng ở trong
xóm giá chỉ 100 ngàn đồng, nhưng cũng uốn một kiểu tóc tương tự ở tiệm Khôi sang
trọng thì giá suýt soát 1 triệu đồng. Tuy nhiên, sự khác biệt về giá cả không chỉ bởi
cái tên thương hiệu. Trên thực tế, sự chênh lệch về giá ở đây thể hiện mức độ cảm
nhận, hay nói cách khác là lượng cảm xúc tốt mà người khách hàng có được từ sản
phẩm hay dịch vụ có cái tên đặc thù đó.
 Hãy xem xét sự khác biệt.
Trước hết, tất cả mọi người đều phải công nhận rằng hàng hiệu thứ thật luôn
luôn có những đặc điểm khác biệt vượt trội với chất lượng “không thể chê vào đâu
được”. Kế đến là nó tạo ra các giá trị cảm tính như sự tự hào, sự hãnh diện và rất tự
tin cho người xài hàng hiệu. Làm sao mà lại có thể không tự hào khi bạn mặc một
chiếc áo sơ mi “hàng độc” có giá đến 6 triệu đồng, đeo một cái thắt lưng có giá 18
triệu đồng và đi một đôi giày da nai “chính hiệu” có giá gần 30 triệu đồng,…
Một thương hiệu đắt tiền luôn tạo ra sự khao khát của người tiêu dùng và làm cho họ
thỏa mãn hơn rất nhiều so với một nhãn hiệu bình dân.
Như vậy sự thỏa mãn chính là điều khác biệt cơ bản. Một thương hiệu bình dân
sẽ đáp ứng cho những nhu cầu cơ bản của khách hàng bằng các giá trị lý tính, nhưng
một thương hiệu cao cấp sẽ tạo ra thêm những giá trị cảm tính và các giá trị cảm tính
này là loại mà không dễ gì mà người tiêu dùng có được (như sự hãnh diện, sự thỏa
mãn, sự tự tin,…). Các giá trị cảm tính này thực tế là các cảm xúc tốt ở mức độ cao và
sẽ xuất hiện mỗi khi nhãn hiệu được sử dụng.
Bạn nên biết rằng giá trị của một vật chính là lượng cảm xúc tốt mà vật đó
mang lại cho người sử dụng. Đây cũng là điểm khác biệt lớn hoặc rất lớn về giá bán

- 12 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
giữa nhãn hiệu thường và nhãn hiệu cao cấp. Để tạo ra một thương hiệu “đắt tiền” là
một công việc cực kỳ khó khăn, bởi nếu người tiêu dùng không “cảm thấy” và không
tin rằng thương hiệu có giá trị đúng như giá bán thì chắc chắn họ sẽ không thể nào có
được cái cảm giác sử dụng “hàng hiệu” và không đời nào họ bỏ tiền ra để mua.
Theo những phân tích trên đây, việc tạo ra một nhãn hiệu cao cấp sẽ đòi hỏi rất
nhiều tiền bạc cũng như nhiều thời gian. Để duy trì sự “cao cấp” đó thì còn là việc
khó khăn hơn nữa. Thật may mắn là cuối cùng, những người làm nghề xây dựng nên
các thương hiệu đắt tiền đã có thể tự hào rằng mình đang làm những việc rất có đạo
đức chứ không phải là việc phi đạo đức như nhiều người lầm tưởng.
Bằng việc tạo ra những thương hiệu cao cấp và cực kỳ sang trọng, người làm
thương hiệu đã mang lại cho người tiêu dùng những cảm giác thỏa mãn, những phút
giây hạnh phúc không dễ có được trong cuộc sống. Hàng hiệu là một công cụ làm cho
sản phẩm, hay dịch vụ trở nên đầy cảm hứng, tạo ra sự thỏa mãn và hài lòng cho hàng
ngàn hoặc hàng triệu người trong cái thế giới đầy stress và buồntẻnày.

Tóm lại, giá trị của một sản phẩm hay dịch vụ nào đó được tạo nên từ giá trị lý
tính và giá trị cảm tính. Tuy nhiên đó cũng chưa phải là tất cả.
Sự hy sinh nằm sau thương hiệu cao cấp
Một chiếc túi Longchamp bán với giá 500$ trong khi giá thành SX chỉ khoảng
bằng 1/10, giày Nike giá bán 200$ trong khi giá thành 15$, Giày da nai chính hiệu giá
30mil VND khoảng 1 năm tiền lương của lao động phổ thông. Người tiêu dùng bị bóc
lột, họ phải trả nhiều tiền cho những giá trị vô hình, mà giá trị vật chất của chúng
không hơn các SF no-name khác. Điều đó nghe thật bất công.
Nhưng thử đứng ở góc độ của các thương hiệu cao cấp xem để có được giá bán như
vậy họ đã phải hy sinh những gì?
 Năng khiếu trời cho.
- LANVIN một hãng thời trang cao cấp mà thân chủ của nó, bà Lanvin đã cống
hiến cả cuộc đời với niềm đam mê thời trang và lòng yêu thương cô con gái vô bờ
bến, và đương nhiên là cả năng khiếu nữa.
- Kenzo, đó là tài năng là quyết tâm của một sinh viên Nhật lập nghiệp tại
Pháp.
- Jean Paul Gautier, sự sáng tạo tuyệt vời với những tác phẩm thời trang độc
đáo có một không hai

Trên tất cả đó là năng khiếu nghệ thuật của những người làm nên các SF đó một thứ
mà ta không thể đong đếm như vật chất được, vậy làm sao có thể tính nó bằng tiền
vải, phụ liệu và giá gia công được?

Cùng nhiều tên tuổi khác như Coco-Channel, Christian Dior, YSL, đó là những tài
năng nghệ thuật mà tạo hóa ban cho thế giới của chúng ta, và đương nhiên là tính cả

- 13 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
ông bố cô Mercedes, một tài năng kỹ thuật nữa, những người đã tạo ra những sản
phẩm thật sự cao cấp.

 Lịch sử.
Bên cạnh tài năng, đó là quá trình phát triển lịch sử, hàng chục năm không
ngừng nỗ lực không ngừng phấn đấu, và trong quá trình cạnh tranh đó nhiều thương
hiệu đã hy sinh không đủ sức lực tồn tại và nhường chỗ cho các thương hiệu như
Levi's, adidas, Nike,.. Lịch sử là giá trị chứa trong sản phẩm, mà nhiều hãng đã phải
ghi vào SF "since…."
 Cơ hội tồn tại.
Không phải năng khiếu, không phải lịch sử, họ phải hy sinh cái gì? Đó là cơ
hội tồn tại. Nếu một thưong hiệu định vị cao cấp ngay khi mới ra đời gặp thất bại thì
sao? nếu HighLand cũng rơi vào trường hợp như Laser thì sao? Giá trị về mặt cơ hội
có thể lớn như tổn thất của Laser, Liệu bạn có đủ can đảm để định vị cao cấp cho sản
phẩm của mình hay không? xét trên góc độ này thì 20K/ly cà phê cũng đáng đấy chứ!
 Ngoài ra, còn nhiều sự hy sinh khác nữa.
Hàng tồn kho giám giá: một chiếc áo old navy giá 30$ nhưng sau một thời gian
tồn kho nó sẽ được bán với giá 1$, thấp hơn giá thành. Đó là sự hy sinh về mặt tiền tệ.
Hy sinh về số lượng để có limited editions, để có chiếc áo sơ mi 600$, biết đâu
họ đã phải hy sinh việc bán 100 chiếc áo 6$.
Đó còn là sự đầu tư vào cửa hàng, vào con người, vào quy trình và nhiều yếu
tố khác nữa, nhằm làm nên một sản phẩm cao cấp.
Bởi những sự hy sinh có thể có nên không phải ai cũng dám cho ra đời những
thương hiệu cao cấp.
Còn những người sử dụng chúng là ai? Ca sĩ, diễn viên, doanh nhân, CEO, nhà
đầu tư chứng khoán, kẻ thừa kế … những người có những khoản thu nhập khác
người. Những khoản thu nhập nhờ tài năng, nhờ bóc lột sức lao động, nhờ may mắn
… Như vậy bán các thương hiệu cao cấp cho họ cũng không thể gọi là bóc lột được,
có chăng chỉ gọi đó là một sự phân phối lại thu nhập mà thôi.
Chủ thương hiệu cao cấp thu tiền về mua xe xịn, chủ hãng xe gửi tiền ngân hàng, chủ
ngân hàng mua bất động sản, chủ bất động sản lại mua 1 chai coca. Đó là một chuỗi
của những sự phân phối lại, có ai bóc lột ai đâu. C'est la vie!
Cuốn "No-logo" -NaoMi Klein mà mình chưa đọc đã thấy tức rồi, chắc chắn nó
không chỉ làm cho tác giả Nguyễn Nam Trung sốc mà có thể còn gây ra làn sóng phản
ứng của những người làm thương hiệu và sở hữu thương hiệu.
Có thể nói, chưa khi nào, người ta thấy được những sự kiện vi phạm vệ sinh an toàn
thực phẩm lại gia tăng trong thời gian vừa rồi.
Trong khi dư luận chưa kịp lắng xuống vụ “nguyên liệu quá hạn sử dụng” của Tập
đoàn rượu nước giải khát Việt Nam, Tân Hiệp Phát, thì lại nổi lên vụ hàng trăm tấn
thực phẩm vi phạm nhãn mác và hạn sử dụng của Vinafood, một tập đoàn kinh doanh
thực phẩm hàng đầu Việt Nam.

- 14 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
Lùi xa hơn một chút, ta thấy được vụ khủng hoảng melamine ở sữa. Và rồi lại đến
việc thiếu hàm lượng đạm như đã ghi ở bao bì của một loạt nhãn hàng sữa bị phát
hiện. Tất cả những điều đó đặt ra vấn đề: Tại sao hiện tượng này lại diễn ra ngày càng
nhiều. Và đứng ở góc độ kinh doanh, hiện tượng đó nói lên điều gì?

III-Lợi nhuận là trên hết


Từ mà cơ quan truyền thông dung gần đây để nói về hiện tượng Vinafood, là “tẩu
tán”. Tức là, sau khi bị cơ quan hữu quan phát hiện mức độ vi phạm, chính Vinafood
đã “tuồn” toàn bộ lượng hàng này trở lại thị trường.
Có lẽ, do mức thiệt hại lớn, nếu số lượng hàng này bị tiêu hủy, nên Vinafood đã quyết
định như trên. Một quyết định thiên về phần "lợi" hơn là “tín” và “đức”. Đạo đức, có
lẽ, không được những người làm kinh doanh ở Vinafood xem như một phẩm chất, yếu
tố cần thiết để thực hiện trong quá trình kinh doanh.
Nếu xét từ góc độ người tiêu dùng, liệu họ còn đủ dũng cảm để sử dụng những giò
heo, sườn cốt lếch hay xúc xích...của Vinafood? Và lượng hàng đã được tuồn ra, với
những người thiếu thông tin vẫn sử dụng, hậu quả để lại sẽ là gì?
Cách sự kiện vừa rồi hơn 1 tháng, một “tên tuổi lớn” khác, Tân Hiệp Phát, đã chối đây
đẩy, khi hàng trăm tấn nguyên liệu bị phát hiện đang tồn trong kho của mình. Tuy
nhiên, sau khi nhận được kết quả giám định của cơ quan phụ trách về an toàn vệ sinh
thực phẩm là họ "vô can” thì lập tức, một "chiến dịch” dội bom người tiêu dùng qua
truyền thông, đã được các nhà quản trị của Tân Hiệp Phát thực hiện rầm rộ.
Tất nhiên, với một tập đoàn có khá nhiều kinh nghiệm về marketing và thương hiệu,
việc làm của Tân Hiệp Phát, nhận được nhiều ý kiến bình luận khác nhau. Tất nhiên,
việc họ khôi phục lại niềm tin, ít nhất là của kênh phân phối, như Coop Mart, Big
C...đã là một "nỗ lực" mà không phải doanh nghiệp nào cũng đủ khả năng và nguồn
lực, làm được. Tuy nhiên, sự kiện đã qua vẫn để lại những "gờn gợn”, mà kết quả
thống kê sau đó của báo Sài Gòn Tiếp Thị cho thấy: số lượng người dùng các nhãn
hiệu của Tân Hiệp Phát đã giảm hẳn.
Và những thông tin sau đó càng làm mức độ hoài nghi của người tiêu dùng tăng lên,
khi Tân Hiệp Phát xin được chuyển mục đích sử dụng của lô hàng này sang làm thức
ăn gia súc. Câu hỏi tại sao lại được đặt ra, vấn đề nằm ở chỗ: Tránh thiệt hại.

IV. ĐẠO ĐỨC KINH DOANH TẠI VIỆT NAM -


THỰC TẠI VÀ GIẢI PHÁP
( TS NGUYỄN HOÀNG ÁNH---ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI )

1.Thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam

Đạo đức kinh doanh là một vấn đề mới ở Việt Nam. Các vấn đề như đạo đức kinh
doanh, văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp… mới chỉ nổi lên kể từ khi Việt
Nam thực hiện chính sách Đổi mới và tham gia vào quá trình quốc tế hóa và tòan cầu
hóa vào năm 1991. Trước đó, trong thời kinh tế kế hoạch tập trung, những vấn đề này
- 15 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
chưa bao giờ được nhắc tới. Trong thời kỳ bao cấp, mọi hoạt động kinh doanh đều do
Nhà nước chỉ đạo, vì thế những hành vi có đạo đức được coi là những hành vi tuân
thủ lệnh cấp trên. Do khan hiếm hầu hết hàng hóa tiêu dùng, để mua được đã là rất
khó, nên không ai có thể phàn nàn về chất lượng hàng hóa. Vì cầu vượt quá cung, chất
lượng phục vụ trong mạng lưới cung cấp vô cùng thấp nhưng ít người dám than
phiền. Vào thời gian đó, các ngành công nghiệp
của Việt Nam chưa phát triển, có rất ít nhà sản xuất và hầu hết đều thuộc sở hữu nhà
nước, nên không cần quan tâm đến vấn đề thương hiệu hay sở hữu trí tuệ. Hầu hết lao
động đều làm việc cho nhà nước, nơi mà kỷ luật và chế độ lương thưởng đều thống
nhất và đơn giản. Tìm được việc làm trong cơ quan Nhà nước là rất khó khăn nên
không có chuyện đình công hay mâu thuẫn lao động. Mọi hoạt động trong xã hội đều
phải tuân thủ quy định của Nhà nước nên những phạm trù trên là không cần thiết.

Tuy nhiên, kể từ khi Việt Nam tham gia quốc tế hóa, có nhiều phạm trù mới được
xuất hiện như: quyền sở hữu trí tuệ, an toàn thực phẩm, đình công, thị trường chứng
khoán… và vì thế khái niệm đạo đức kinh doanh trở nên phổ biến hơn trong xã hội.
Qua kết quả phân tích các số liệu điều và những tài liệu thu thập qua sách báo, chúng
ta có thể rút ra được những kết luận sau về thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt
Nam.
1.1. Nhận thức của người Việt Nam về đạo đức kinh doanh
Cho đến nay, có rất ít sách chuyên môn về đạo đức kinh doanh được xuất bản ở
Việt Nam, và hầu hết là được dịch từ sách của Mỹ. Cuốn sách đầu tiên về đề tài này
được xuất bản ở Việt Nam có lẽ là cuốn: “WHAT'S ETHICAL IN BUSINESS?” by
Verne E.Henderson, của Nhà xuất bản McGraw - Hill Ryerson. Cuốn sách này được
dịch giả Hồ Kim Chung dịch là “Đạo đức kinh doanh là gì?” và được Nhà Xuất bản
Văn hóa phát hành tháng 11 năm 1996. Tuy nhiên, nội dung cuốn sách khá mơ hồ,
không đầy đủ, nên đã không gây được nhiều sự chú ý trong giới nghiên cứu ở Việt
Nam. Thời gian gần đây, do áp lực của tiến trình toàn cầu hóa, đã có khá nhiều bài
báo trên các báo và tạp chí như: Chúng ta (Tạp chí lưu hành nội bộ của công ty FPT,
website: www.chungta.com) hay báo Diễn đàn
doanh nghiệp (tờ thời báo cho giới doanh nhân Việt Nam do Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam - VCCI phát hành, website: www.dddn.com.vn) và một số báo
và tạp chí khác như: Saigon Times, Thời báo kinh tế Sài Gòn, báo Lao động, etc.
Nhưng các bài báo này thường chỉ dừng ở việc nhận định về những sự kiện gần đây ở
Việt Nam có liên quan đến đạo đức kinh doanh hoặc cung cấp về một số vụ việc trên
các sach báo nước ngoài, chứ không tiến hành khảo sát hay đưa ra một khái niệm cụ
thể nào về đạo đức kinh doanh. Hầu hết các trường Đại học, Cao đẳng dạy về kinh
doanh ở Việt Nam đều chưa có môn học này, hoặc nếu có cũng chỉ dừng ở hình thức
môn tự chọn. Trong nội dung của các môn học có
liên quan như kinh doanh quốc tế hay quản trị kinh doanh cũng chưa đề cập đến khái
niệm này, hoặc nếu có thì nội dung cũng quá sơ sài. Ví dụ, trong giáo trình môn Văn
hóa kinh doanh tại một trường Đại học Kinh tế ở Việt Nam có giành một chương cho

- 16 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
Đạo đức kinh doanh nhưng lại coi đạo đức kinh doanh là việc tuân thủ pháp luập
trong kinh doanh! Quan niệm như vậy là quá hạn hẹp, chưa đánh giá hết tầm quan
trọng của khái niệm này. Do áp lực của tiến trình toàn cầu hóa, các phương tiện
thông tin đại chúng ở Việt Nam đề cập khá nhiều đến vấn đề này nhưng lại không đưa
ra được một khái niệm chuẩn mực nào. Chính vì vậy,mặc dù thường được nghe về
đạo đức kinh doanh nhưng cách hiểu của người dân, của các
doanh nghiệp về vấn đề này còn khá mơ hồ. Thực trạng đó đã được thể hiện khá rõ
qua kết quả của cuộc điều tra. 40/60 số người được hỏi xuyên nghe nhắc đến
những vấn đề lien quan đến đạo đức kinh doanh, 20/60 đôi khi nghe nhắc đến
vấn đề này. Lưu ý là cuộc điều tra này được tiến hành ở Hà Nội, thủ đô và là thành
phố lớn thứ hai của Việt Nam, nên con số này chưa phải là cao. Nhưng khi được
hỏi về quan niệm, thế nào là đạo đức kinh doanh, 55/60 số người được hỏi cho
“Đạo đức kinh doanh là tuân thủ đúng pháp luật”, chỉ có 5/60 người được hỏi cho
“Đạo đức kinh doanh là bảo vệ quyền lợi cho khách hàng” và không ai cho đạo
đức kinh doanh phải bao gồm cả hai khái niệm trên! Chính sự hiểu biết mơ hồ này
về đao đức kinh doanh đã dẫn đến những thiếu hụt trong thực thi của doanh nghiệp.

1.2.Trách nhiệm của doanh nghiệp với xã hội (corporate social responsibility -
CSR)
Để tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi tập trung vào 2 khía cạnh, trách nhiệm của
doanh nghiệp với chất lượng hàng hóa và vấn đề bảo vệ môi trường. Câu hỏi thứ nhất
về vấn đề này được đặt ra là: “Doanh nghiệp sẽ làm gì nhận được thông tin là có một
số hàng hóa của mình bị kẻ xấu tráo đổi với những hàng kém chất lượng, mà bằng
hình thức bên ngoài không có khả năng phân biệt được, có thể gây tác hại cho người
tiêu dùng?”. Câu hỏi này dựa trên một tình huống có thật là năm 1981, một người
bệnh tâm thần đã cho thuốc độc vào một số lọ thuốc giảm đau nhãn hiệu Tylenol do
Johnson & Johnson (J&J) sản xuất và bày bán ở các quầy hàng bán thuốc trong những
siêu thị ở thành phố Chicago. Sự kiện trên đã làm bảy người thiệt mạng và cảnh sát
không bắt được thủ phạm. Mặc dù vụ việc đáng
tiếc này chỉ xảy ra ở Chicago và bộ phận an ninh cho rằng người thủ phạm chỉ cho
thuốc độc vào một số lọ Tylenol đã bày bán ở những siêu thị này, ban lãnh đạo J&J đã
cương quyết tiến hành thu hồi để kiểm định toàn bộ 31 triệu lọ thuốc Tylenol đã phân
phối không chỉ ở Mỹ mà ở toàn thế giới, vì theo J&J, không có gì bảo đảm là thủ
phạm chỉ bỏ thuốc độc vào các lọ Tylenol lúc đã bày bán, mà không bỏ vào trong lúc
sản xuất hoặc trước khi được phân phối. Toàn bộ chi phí để thực hiện quyết định trên
là 100 triệu USD. Tuy nhiên, sự thể hiện trách nhiệm xã hội cao của công ty Johnson
& Johnson cộng thêm chiến dịch PR đúng
đắn đã giúp Tylenol giành lại vị trí trên thương trường chỉ trong vòng 6 tháng. Nhưng
trong cuộc diều tra của chúng tôi, chỉ có 42 người , chiếm 42%, chọn phương án “Thu
hồi ngay toàn bộ lô hàng đó, chấp nhận thua thiệt về kinh tế”, 50 người, chiếm 50%
chọn phương án là “Thông báo tại nơi bán, và để người tiêu dùng tự quyết định”,

- 17 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
thậm chí có 8 người, chiếm 8%, chọn phương án ”Không làm gì cả, vì không phải lỗi
tại công ty của mình”!

Câu hỏi thứ hai là: ”Cho biết quan điểm của bạn, khi một công ty XK sang thị
trường EU nước tương có tỷ lệ chất 3 - MPCD nằm trong phạm vi cho phép của Luật
Việt Nam,nhưng lại vượt gấp nhiều lần tỷ lệ cho phép của EU?” cũng dựa trên một sự
kiện có thật là năm 2002, nước tương của Chinsu, một công ty khá có tiếng ở Việt
Nam, đã bị Cơ quan kiểm nghiệm chất lượng thực phẩm của Bỉ phát hiện có chứa chất
3 - MCPD - một chất độc hóa học có thể gây bệnh ung thư ở động vật và con người -
ở mức 86 mg/ kg, trong khi đó, tiêu chuẩn của EU chỉ cho phép ở mức 0.05 mg/ kg,
tức là gấp gần 200 lần. Nhưng công ty Chinsu tuyên bố không chịu trách nhiệm vì họ
không XK nước tương sang Bỉ. Sản phẩm đó
có thể được một công ty nào khác tái xuất sang hoặc là hàng nhái. Hơn nữa, tuy hàm
lượng 3 - MCPD trong nước tương của họ cao hơn mức quy định của EU nhưng lại
nằm trong phạm vi cho phép của Việt Nam! Sự kiện này lần đầu tiên đã cảnh báo các
cơ quan chức năng và người tiêu dùng Việt Nam về tác hại của chất 3 - MCPD trong
nước tương, một sản phẩm vốn được coi làa an toàn vì sản xuất từ đậu tương, là sản
phẩm tự nhiên. Đây chính là yếu tố châm ngòi cho scandal năm 2007 về việc 90%
doanh nghiệp sản xuất nước tương ở Việt Nam bị cơ quan chức năng tuyên bố vi
phạm VSATTP, do hàm lượng chất 3 - MCPD
vượt quá mức cho phép, gây điêu đứng cho ngành công nghiệp này. Kể từ đó, toàn thể
các doanh nghiệp sản xuất nước tương đều được yêu cầu phải dán nhãn: “Không có 3
- MCPD”lên sản phẩm của mình.
Có lẽ do vụ việc này đã quá nổi tiếng nên quan điểm của người được hỏi trong
cuộcđiều tra này đã rõ ràng hơn. 33% số người được hỏi cho đó là “Vi phạm luật
pháp”, 25% cho là “Vi phạm đạo đức kinh doanh” và 42% cho là vi phạm cả hai!
Không ai coi doanh nghiệp là không vi phạm. Nhưng kết quả này vẫn cho thấy sự mơ
hồ trong phân định giữa luật pháp và đạo đức kinh doanh, vì ở đây đúng ra là doanh
nghiệp đã vi phạm cả hai, do khi XK hàng hóa vào nước nào phải tuân thủ quy định
của nước đó.

Câu hỏi về trách nhiệm của doanh nghiệp với môi trường cũng dựa trên thực tế là
có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt nam đã lợi dụng những yếu kém
trong quy định về bảo vệ môi trường của Việt Nam để sử dụng những công nghệ sản
xuất gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao động và dân cư,
nhằm tiết kiệm chi phí. Các ví dụ cho vấn đề này rất phổ biến ở Việt Nam như: các
nhà máy dệt không có thiết bị làm sạch không khí, gây bệnh phổi cho công nhân và cư
dân xung quanh, nhà máy da giầy sử dụng xả nước thải gây ô nhiễm nguồn nước, các
công ty xây dựng không che chắn công trình gây ô nhiễm cho khu vực, không có thiết
bị bảo hộ cho người lao động dẫn đến tỷ lệ tai
nạn lao động cao….Trong trường hợp này, doanh nghiệp tuy không vi phạm luật pháp
nhưng rõ ràng đã cố tình vi phạm đạo đức kinh doanh, vì họ hoàn toàn ý thức được

- 18 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
tác hại của hành vi này. Nhưng quan điểm của người được hỏi ở đây lại khá bao dung
và ôn hòa! Trả lời cho câu hỏi: “Cho biết quan điểm của bạn về việc một công ty nước
ngoài đến lập nhà máy ở Việt Nam để lợi dụng sự lỏng lẻo trong những quy định về
môi trường của Việt Nam?“, chỉ có 75% cho là “Không thể chấp nhận được, họ đã vi
phạm đạo đức kinh doanh”, còn 25% lạicho là “Bình thường thôi, kinh doanh cần biết
tận dụng cơ hội”. Kết quả này cho thấy thực tế
là vấn đề môi trường còn ít được quan tâm ở Việt Nam và người Việt Nam còn quá lệ
thuộc vào luật pháp khi đánh giá về đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp.

1.3. Vấn đề sở hữu trí tuệ (Intellectual property) ở Việt Nam

Đây là vấn đề nóng, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở hầu hết các nước đang
pháttriển khác. Tình trạng vi phạm SHTT tràn lan ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân.
Trước hết,cho đến đầu thế kỷ XX Việt Nam là nước nông nghiệp lạc hậu, những
thành tựu về các sản phẩm cần bảo hộ như kiểu dáng công nghiệp, phát minh,… hầu
như chưa có, nên không có các quy định về bảo hộ SHTT. Hơn nữa, là nước có nền
văn hóa trọng tập thể, người Việt Nam không có truyền thống bảo hộ sở hữu cá nhân.
Trong thời phong kiến và cả thời kỳ trước hội nhập ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu,
văn nghệ sĩ, đều sống bằng lương chứ luật pháp không quy định chế độ bản quyền tác
giả, thù lao cho tác giả rất ít ỏi vì quan niệm là phải phục vụ tập thể. Vấn đề này chỉ
được thật sự đặt ra sau năm 1991, khi Việt Nam thamgia vào tiến trình hội nhập và
nhất là sau năm 1997, khi Việt Nam ký Hiệp định TRIPS. Nhưng với thời gian quá
ngắn ngủi, chỉ hơn 10 năm so với lịch sử bảo hộ hàng trăm năm của các nước Âu -
Mỹ, ý thức về bảo hộ quyền SHTT của người dân Việt Nam còn rất sơ sài. Một lý do
nữa cho việc vi phạm SHTT tràn lan ở Việt Nam là nguyên nhân kinh tế. Khi thu
nhập của người dân còn quá thấp, trong khi giá cả các sản phẩm có bản quyền lại quá
cao và rất phổ biến thì khó có thể hy vọng SHTT sẽ được tôn trọng. Một ví dụ về vấn
đề này là về việc xuất bản cuốn sách về cậu bé phù thủy Harry Potter của J.K.
Rowling, một tác phẩm văn học thiếu nhi rất được ưa chuộng ở Việt Nam. Tháng 8
năm 2007, cùng với thiếu
nhi trên toàn thế giới, trẻ em Việt Nam rất hồi hộp chờ mong tập 7 và cũng là tập cuối
cùng trong Bộ sách này: Harry Potter and the Deathly Hallows, nhưng lúc đó chỉ có
bản tiếng Anh. Cùng với phong trào học tiếng Anh, việc đọc sách bằng nguyên bản
ngày càng phổ biến hơn. Hơn nữa, nếu muốn đọc bản dịch các em sẽ phải chờ chừng
6 tháng nữa. Nhưng các bậc cha mẹ ở Việt Nam lại bị đặt trước một tình thế nan giải
nếu họ muốn bảo vệ bản quyền. Giá bìa của quyển sách này là 38 USD, trong khi thu
nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 2007 chỉ ở mức trên 600 USD và giá
sách lậu chỉ có khoảng 7 USD.

Một cách vi phạm SHTT khá phổ biên ở Việt Nam là việc công ty cố tình đặt
tên cho nhãn hiệu hàng hóa của mình tương tự một nhãn hiệu nổi tiếng đã có trước để
trốn tránh luật rpháp và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Ví dụ cho tình trạng này

- 19 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
quá nhiều, như Hongda và Honda, La Vierge và La Vie, … Kết quả điều tra về vấn đề
này đã khẳng định cho nhận định trên về SHTT ở Việt Nam. Để trả lời cho câu hỏi:
“Cho biết quan điểm của bạn về việc một công ty cố tình đặt tên nhãn hiệu hàng hóa
của mình gần giống với một nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng ?", chỉ có 16 người cho là
“Vi phạm luật pháp“, 37 người cho là: ”Vi phạm đạo
đức kinh doanh“, và 47 người cho là: “Không vi phạm gì cả vì không hoàn toàn
giống“. Đáng chú ý là trong số 47 người không cho là vi phạm, có 8 người sinh viên,
là nhóm người ít nhiều có được học về vấn đề này, chứng tỏ SHTT còn là vấn đề nan
giải ở Việt Nam trong thời gian tới.

1.4. Quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động

Thời gian qua, đình công đang là một vấn đề nóng ở Việt Nam. Theo thống kê, từ
năm 1995 đến nay tại Việt Nam đã xảy ra hơn 1.000 cuộc đình công lớn nhỏ. Chỉ tính
riêng trong quý 1/2007 đã xảy ra 103 cuộc đình công tại 14/64 tỉnh, thành phố với hơn
62.700 lượt công nhân lao động tham gia. Nhiều nhất là tại Đồng Nai với 35 cuộc,
tiếp đến là Bình Dương 22 cuộc, Tp.HCM 26 cuộc... trong đó 98/103 cuộc đình công
là do lý do kinh tế. Các nguyên nhân chính dẫn đến đình công bao gồm:
- Người lao động không hài lòng với điều kiện làm việc, môi trường ô nhiễm,
công cụ lao động không được thẩm tra, an toàn lao động kém, không có kiểm tra sức
khỏe định kỳ cho nhân công và tình trạng tai nạn nghề nghiệp khá phổ biến.
- Để thu hút đầu tư nước ngoài, Luật Đầu tư Việt Nam đưa ra mức lương tối
thiểu rất thấp (chỉ có 35USD/tháng trong Luật ĐTNN 1997) nên mặc dù không làm
trái luật pháp nhưng mức lương các doanh nghiệp trả cho lao động vẫn rất thấp so với
mặt bằng giá cả. Vì thế, người lao động không hài lòng và không trung thành với
doanh nghiệp.
- Xuất thân từ nông dân, hầu hết người lao động thiếu kiến thức về Luật Lao
động và thiếu kỹ năng làm việc trong môi trường công nghiệp nên nanwg suất lao
động thấp và có những phản ứng trái pháp luật khi có xung đột.
Điều đáng ngạc nhiên là tình trạng này xảy ra không chỉ ở các doanh nghiệp tư
nhân trong nước, được coi là ít vốn và không am hiểu luật pháp, mà còn rất phổ biến
ở nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là Đài Loan và Hàn Quốc.
Theo Viện Công nhân và Công đoàn thuộc Liên đoàn Lao động Việt Nam, trong 10
năm qua đã có 878 cuộc đình công xảy ra tại các doanh nghiệp FDI, chiếm 70,7%
tổng số cuộc đình công ở Việt Nam.
Một ví dụ điển hình cho vấn đề này là sáng ngày 25 tháng 7 năm 2007, ở khu
chế xuất Linh Trung I (quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh), một cuộc biểu tình
của 1300 công nhân đã diễn ra tại công ty Danu Vina (công ty 100% vốn Hàn Quốc)
vì chính sách lương bổng bất hợp lý của công ty này. Từ tháng 7 năm 2007, công ty
tăng lương thêm 50.000 đồng (khoảng 3 USD) cho công nhân làm từ 1 đến 5 năm và
70000 đồng (gần 4 USD) cho công nhân làm từ 5 đến 7 năm. Tuy nhiên, việc tăng
lương chỉ áp dụng cho những công nhân ký hợp đồng từ tháng 7 trở về trước của các

- 20 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
năm, còn những người ký hợp đồng từ tháng 8 trở đi thì không giải quyết. Ngoài ra,
công ty trả tiền chuyên cần ở mức 25.000 đồng/tháng là quá thấp, bữa ăn giữa ca
trị giá 4.000 đồng không bảo đảm chất lượng; công ty không có nhà để xe, không có
chỗ để giày dép dẫn đến xe hư, mất dép; phòng vệ sinh thiếu nước... ảnh hưởng đến
sức khỏe và sự an toàn của người lao động.
Kết quả của một cuộc điều tra của Viện Công nhân và Công đoàn năm 2007,
được tiến hành ở các địa phương tập trung nhiều công ty vốn đầu tư nước ngoài như
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng
Tàu, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Hải Dương, cho thấy công nhân tại 45% các công ty
FDI than phiền về lương thấp, tại 16% công ty, công nhân phải làm thêm giờ quá
nhiều (có doanh nghiệp làm thêm đến 500 - 600 giờ/năm). Hầu hết các công nhân ở
các công ty có vốn đầu tư nước ngoài nhận mức lương chỉ khoảng từ 800.000 VND
(50USD) đến 1.000.000 VND (62 USD) một tháng. Như vậy, chỉ có 30% công nhân ở
công ty FDI có thể trang trải được chi phí cuộc sống. Để nâng cao thu nhập hàng
tháng cho chi tiêu hàng ngày, 42,5% công nhân phải làm
thêm giờ, đặc biệt là những người làm trong ngành may mặc và thuộc da8. Ở trong
nhiều xí nghiệp may mặc, tỷ lệ nữ công nhân làm việc thêm giờ lên tới 55%, nhiều
người làm 16h một ngày đến khi ngất xỉu, nhưng cũng chỉ được nghỉ hôm đó, hôm
sau phải đi làm tiếp nếu không muốn bị đuổi việc!9. Đây là một hành vi không thể tha
thứ được!
Trong vòng ba năm kể từ 2007 trờ về trước, hơn 20% công nhân ở các công
ty FDI không được tăng lương, mặc dù theo luật pháp, cứ ba năm công nhân phải
được tăng lương một lần. Kể cả khi được tăng, mức tăng cũng ít hơn quy định. Rất
nhiều xí nghiệp cũng không thực hiện những điều ghi trong hợp đồng với công nhân
và các hợp đồng lao động tập thể, như mức tăng lương, giờ làm việc và các trợ cấp xã
hội, bao gồm nghỉ phép định kỳ, đau ốm, tình trạng mang thai và đền bù cho tai nạn
lao động. Cho đến nay, chỉ 50% công ty FDI ký hợp đồng lao động tập thể để đảm
bảo lợi ích cho người lao động, điều dẫn đến bất
đồng giữa người lao động và chủ.
Để giải quyết tình trạng này, Viện đã tổ chức một cuộc thanh tra gắt gao và
đưa ra những hình phạt cứng rắn cho những công ty vi phạm luật lao động, bao gồm
cả thiếu cung cấp bảo hiểm y tế và bảo hiểm thân thể. Viện cũng đề nghị Nhà nước
sửa đổi Luật Lao động và các luật có liên quan để xây dựng khung pháp lý cho đình
công, bảo vệ được quyền lợi của cả người lao động lẫn chủ xí nghiệp10. Đây là một
vấn đề cần được sớm giải quyết để bảo vệ quyền lợi cho người lao động và nâng cao
tính hấp dẫn cho môi trường đầu tư ở Việt Nam, nhằm thu thút các nhà đầu tư nước
ngoài.
Có lẽ do vấn đề quan hệ chủ - thợ đã được đề cập nhiều trên các phương tiện
thông tin đại chúng, nên trong cuộc điều tra của chúng tôi, kết quả trả lời khá khả
quan. Luật pháp Việt Nam quy định chủ doanh nghiệp không có quyền từ chối nhận
lao động nữ với lý do đang nuôi con nhỏ, lao động nữ có con nhỏ dưới 3 tuổi được
quyền đi làm muộn 1h và không bị buộc phải làm thêm giờ. Nhưng trên thực tế, quy

- 21 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
định này chỉ được tuân thủ tại các cơ quan nhà nước và ít được để ý tại các doanh
nghiệp tư nhân hay FDI. Khi được yêu cầu phát biểu quan điểm về việc “Một doanh
nghiệp từ chối tiếp nhận lao động nữ đang nuôi con nhỏ hoặc buộc làm thêm giờ khi
lao động nữ đang nuôi con dưới 3 tuổi”, 25% số người được hỏi cho là vi phạm luật
pháp, 66,67% cho là vi phạm đạo đức kinh doanh và chỉ có 5 người (chiếm 8.33%)
cho là không vi phạm, vì mọi người lao động có nghĩa vụ làm việc như nhau. Như
vậy, chúng ta có thể cho là mặc dù còn những hạn chế về nhận thức nhưng đại đa số
người tham gia điều tra đã có ý thức tương đối rõ ràng về vấn đề này!

1.5. Nghĩa vụ và trách nhiệm về măt đạo đức của doanh nghiệp với các nhà
đầu tư
(The moral rights and duties between a company and its shareholders)

Đây là vấn đề còn rất mới mẻ ở Việt Nam do thị trường chứng khoán Việt
Nam còn rất non trẻ (chưa đầy 10 tuổi) nên những quy định về tính trung thực trong
báo cáo tài chính, công khai thông tin với các nhà đầu tư của doanh nghiệp,… vẫn còn
chưa chặt chẽ. Vì vậy, thời gian qua đã xuất hiện hiện tượng các doanh nghiệp đưa ra
những thông tin chưa chính xác để trục lợi, gây lao đao cho nhiều nhà đầu tư.
Vụ việc nghiêm trọng đầu tiên là việc Joint stock Bien Hoa Confectionery
Company (Bibica) gian dối trong việc khai báo kết quả kinh doanh năm 2002 và 6
tháng đầu năm 2003. Bibica là một trong 21 công ty đăng ký lên sàn đầu tiên ở Việt
Nam và là công ty niêm yết đầu tiên trong ngành bánh kẹo. Vì vậy, các nhà đầu tư
trông đợi rất nhiều vào lợi nhuận của công ty sau khi niêm yết. Để nâng cao năng lực
cạnh tranh trên thị trường, thời gian này công ty đã đồng loạt triển khai các dự án đầu
tư mới nhằm mở rộng sản xuất – kinh doanh, đầu tư phát triển các sản phẩm mới
(bánh trung thu, Layer Cake, chocolate), xây dựng Nhà máy Bánh kẹo Biên Hòa 2…
nên số nợ ngân hàng gia tăng. Thêm vào đó, giá nguyên liệu đầu vào tăng nhanh, tình
hình nhân sự trong bộ phận Tài chinh - Kế toán có nhiều biến động đã làm gia tăng
thêm các khó khăn cho công ty. Trước tình hình đó, công ty cần thu hút thêm các nhà
đầu tư để gia tăng vốn nên đã đưa ra một báo cáo tài chính không chính xác. Khi vụ
việc vỡ lở, các cổ đông được biết năm 2002, Công ty đã lỗ 10,086 tỷ đồng (tương
đương 7.500.000 USD), gần gấp đôi con số lỗ 5,4 tỷ đồng mà công ty từng công bố.
Hậu quả là giá cổ phiếu Bibica sụt thê thảm, gây thiệt hại lớn cho các cổ đông. Cùng
thời điểm đó, Bibica phải đối mặt với hình phạt vì vi phạm luật quản lý chứng khoán
của Ủy ban chứng khoán nhà nước (SCCI) và rơi vào tình trạng gần như phá sản.
Nhưng do lợi nhuận trên thị trường chứng khoán quá lớn, nên những vụ việc tương tự
vẫn tiếp diễn. Thiên Việt là một công ty chứng khóan mới thành lập đầu năm 2007,
nhưng đã được các nhà đầu tư hết sức quan tâm vì Nguyễn Trung Hà, Chủ tịch của
Thiên Việt là Phó TGĐ của một công ty hàng đầu Việt Nam và trong giấy tờ đăng ký
kinh doanh,
Phạm Kinh Luân, một chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực tài chính, được nêu tên với
tư cách là Tổng Giám đốc của Thiên Việt. Vì vậy mặc dù chưa niêm yết nhưng cổ

- 22 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
phiếu của Thiên Việt đã được các nhà đầu tư săn lùng. Đặc biệt, từ khi Ban Giám đốc
Thiên Việt đưa ra thông tin là họ đã ký hợp đồng liên doanh với Goldman Sachs, một
tập đòan tài chính hàng đầu của Mỹ, thậm chí Thiên Việt còn đưa ra bản thỏa thuận
hợp tác với chữ ký của Chủ tịch Goldman Sachs và Thiên Việt với các phương tiện
thông tin đại chúng, thế nên giá cổ phiếu của Thiên Việt tăng rất nhanh, gấp nhiều lần
so với giá niêm yết. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau các phương tiện thông tin đại chúng
đã cung cấp thông tin rằng Goldman Sachs từ chối hợp tác với Thiên Việt:

“Edward Naylor, Giám đốc bộ phận truyền thông của Goldman Sachs ở châu
Á, trong email gửi cơ quan thông tấn Việt Nam, đã nhấn mạnh rằng Goldman
Sachs không liên kết với công ty chứng khóan Thiên Việt.”
“Gần đây chúng tôi đã có một cuộc gặp mặt không chính thức mang tính chất
thăm dò như chúng tôi đã thực hiện với các công ty chứng khoán khác,” bức thư viết.
“Cho đến nay, đại diện của Thiên Việt và Goldman Sachs mới chỉ gặp mặt trong các
buổi gặp “thăm dò” như Goldman Sachs với các công ty chứng khoán khác ở Việt
Nam”.
Khi được hỏi về bản thỏa thuận hợp tác với chữ ký của cả hai bên mà
Thiên Việt đã đưa ra cho các phương tiện thông tin đại chúng, ông Naylor nói
rằng Goldman Sachs đôi khi ký những thỏa thuận tương tự với những công ty
chứng khoán tư nhân khi tập đoàn đang tìm kiếm các cơ hội kinh doanh ở Việt
Nam, để Goldman Sachs có thể thâm nhập được vào thị trường Việt Nam. Thỏa
thuận đó không thể được coi là bằng chứng về một sự liên kết của 2 công ty”.
Thêm vào đó, ông Phạm Kinh Luân cũng cho biết ông chưa hề ký HĐ làm
việc cho Thiên Việt. Vì vậy, Thiên Việt đã bị phạt nặng bởi Trung tâm giao dịch
chứng khóan thành phố Hồ Chí Minh (HSTC) và Ủy ban chứng khoán nhà nước vì
đưa ra thông tin không rõ ràng và không ngay thẳng. Người thiệt hại nhiều nhất ở đây
chính là các nhà đầu tư, những người đã bị thu hút bởi những thông tin sai lệch mà
Ban Giám đốc công ty Thiên Việt đưa ra.
Nhưng những vụ việc như vậy vẫn có nguy cơ xảy ra bất cứ lúc nào vì luật
pháp cũng như ý thức của các nhà kinh doanh Việt Nam về vấn đề này còn chưa đầy
đủ. Trong kinh doanh việc gặp khó khăn hay rủi ro là khá thường xuyên. Khi gặp tình
huống này, những công ty uy tín trên thế giới thường chọn cách thông báo rộng rãi
cho các cổ đông để kêu gọi sự hợp tác của họ nhằm giúp công ty vượt qua khó khăn.
Mặc dù tiềm ẩn nhiểu rủi ro nhưng cách này giúp công ty giữ được lòng tin của các
nhà đầu tư, và thoát khỏi nguy cơ bị bỏ rơi khi thông tin bại lộ. Nhưng trong cuộc
điều tra của chúng tôi, để trả lời câu hỏi : “Khi một dây chuyền sản xuất trong công ty
bị hỏng, dẫn đến sản lượng sản xuất bị suy giảm, nhưng nếu thông tin này bị lộ ra
ngoài, cổ phiếu của công ty sẽ bị mất giá nghiêm
trọng, thì công ty nên làm gì?”, chỉ có 42% số người được hỏi chọn cách thông báo
rộng rãi cho các nhà đầu tư, 50% chọn cách “Kìm giữ thông tin một thời gian để tìm
cách sửa chữa dây chuyền sản xuất” và 8% chọn cách “Không thông báo gi cả cho
đến khi bắt buộc!” Mặc dù kết quả này là khá khả quan,vì đến 92% số người được hỏi
- 23 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
không có ý định che giấu thông tin, ít ra là trong một thời gian nhưng đây cũng là một
thiếu sót trong nhận thức của doanh nghiệp Việt Nam.

2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện đạo đức kinh doanh ở Việt Nam

2.1. Đánh giá về thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
Do điều kiện thời gian và thông tin nên chắc chắn bài viết này chưa thể trình bày
được hết các khía cạnh về đạo đức kinh doanh ở Việt Nam. Tuy nhiên, qua những ví
dụ thực tế và kết quả điều tra nêu trên, bước đầu chúng ta cũng có thể đưa ra một số
nhận xét sau về thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam:
Hiểu biết của nhà kinh doanh cũng như người dân Việt Nam nói chung về đạo
đức kinh doanh còn rất hạn chế, hầu hết đều gắn khái niệm đạo đức kinh doanh với
tuân thủ pháp luật trong kinh doanh. Cách hiểu này đã thu hẹp đáng kể phạm vi áp
dụng đạo đứckinh doanh, hơn nữa tại một quốc gia mà hệ thống phát luật chưa đầy đủ
và chặt chẽ như Việt Nam thì cách hiểu này càng làm ý thức về đạo đức kinh doanh
khó phát huy tác dụng.
Ý thức của người dân về những phạm trù như: Trách nhiệm của doanh nghiệp
với xã hội, Quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động, Nghĩa vụ và trách
nhiệm về măt đạo đức của doanh nghiệp với các nhà đầu tư còn khá mơ hồ, lệ thuộc
vào luật pháp chứ chưa ý thức được trách nhiệm của nhà kinh doanh với khách hàng
và xã hội. Một tỷ lệ cao những người được hỏi tỏ ra bị động, chỉ chịu thực thi trách
nhiệm khi bị bắt buộc chứ chưa chủ động hành động vì lợi ích xã hội.
Điểm yếu kém nhất trong nhận thức của người Việt Nam thể hiện qua cuộc
điều tra này chính là ý thức về môi trường và về vấn đề sở hữu trí tuệ. Điều này cũng
trùng hợp với những kết quả điều tra của LHQ và những nguồn thông tin khác. Về lâu
dài đây là vấn đề cần được lưu ý giải quyết để đảm bảo sự phát triển bền vững cho
Việt Nam.
Tuy nhiên, cuộc điều tra cũng cho thấy một số tín hiệu đáng mừng về tương
lai của đạo đức kinh doanh ở Việt Nam. Trước hết, 100% số người được hỏi đã từng
được nghe về đạo đức kinh doanh. Mặc dù khái niệm đạo đức được truyền đạt còn mơ
hồ nhưng chỉ riêng việc người dân có quan tâm nhều hơn tới vấn đề này cũng đã là
một tín hiệu đáng mừng. Một khía cạnh đáng mừng nữa là kết quả trả lời của khối
sinh viên, dù phần lớn là sinh viên năm thứ nhất, tức là chưa được đào tạo nhiều về
kiến thức chuyên môn, nhưng đã chính xác hơn nhiều so vơi khối doanh nghiệp. Hầu
hết sinh viên thường xuyên nghe nói về đạo đức kinh doanh (17/20 người được hỏi),
cao hơn hẳn so với tỷ lệ chung (85% so với 67%). Tỷ lệ
sinh viên cho đạo đức kinh doanh là “bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng” cũng cao
hơn nhiều so với tỷ lệ chung (35% so với 8%). Trong tình huống 3, để trả lời câu hỏi
về phản ứng của doanh nghiệp với việc hàng của công ty bị kẻ xấu đánh tráo, không
sinh viên nào đồng ý với phương án “Không thông báo gì cả vì không phải là lỗi của
doanh nghiệp”, so với 8% tỷ lệ chung. Trong tình huống 6, khi trả lời câu hỏi về việc
một công ty nước ngoài đến lập nhà máy ở Việt Nam để trốn tránh sự lỏng lẻo trong

- 24 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
những quy định về môi trường của Việt Nam, không sinh viên nào đồng ý với phương
án “Doanh nghiệp được phép tận dụng cơ hội” so với 25% tỷ lệ chung. Nhưng trong
tình huống số 7 về sự kiện “một dây chuyền sản xuất trong công ty bị hỏng, dẫn đến
sản lượng sản xuất bị sút giảm nghiêm trọng, nhưng nếu thông tin này bị lộ ra ngoài,
cổ phiếu của công ty sẽ bị sút giảm nghiêm trọng“, mặc dù có tới 65% sinh viên cho
là doanh nghiệp cần “Thông báo rộng rãi cho các cổ đông để kêu gọi sự hợp tác của
họ nhằm giúp công ty vượt qua khó khăn” so với 42% tỷ lệ chung, nhưng lại có tới 3
sinh viên (chiếm 15% so với so với tỷ lệ chung là 8%) cho là nên “Không thông báo
gi cả cho đến khi bắt buộc”. Kết quả này có thể bắt nguồn từ việc thị trường chứng
khoán còn quá mới mẻ ở Việt Nam, các em lại là sinh viên những năm đầu nên những
hiểu biết về trách nhiệm của doanh nghiệp với thị trường này chưa nhiều. Tương tự
như vậy, trong câu số 8 về quan điểm trước việc “Một doanh nghiệp từ chối tiếp nhận
lao
động nữ đang nuôi con nhỏ hoặc buộc làm thêm giờ khi lao động nữ đang nuôi con
dưới 3 tuổi”, cũng có tới 40% sinh viên cho đó là vi phạm luật pháp so với 24% tỷ lệ
chung, nhưng vẫn còn 15% so với 8% tỷ lệ chung cho là “Không vi phạm vì mọi
người lao động phải có nghĩa vụ làm việc như nhau!” Đây có lẽ là kết quả của việc
thiếu hiểu biết về luật lao động và thói quen áp dụng máy móc những nguyên tắc về
bình đẳng giới, vốn được tuyên truyền rất phổ biến ở Việt Nam. Mặc dù kết quả điều
tra về hai khía cạnh này chưa cao, nhưng nhìn chung, nhận thức của khối sinh viên về
đạo đức kinh doanh rõ ràng cao hơn và thể hiện một tinh thần trách nhiệm tốt hơn so
với kết quả điều tra chung.
Với số mẫu điều tra còn ít ỏi nhưng những kết quả khảo sát ban đầu của khối
sinh viên, những nhà kinh doanh tương lai, cũng có thể coi là tín hiệu khả quan về
nâng cao nhận thức của giới doanh nhân Việt Nam trong thời gian tới.
2.2. Một số đề xuất nhằm phát triển và hoàn thiện đạo đức kinh doanh ở Việt
Nam
Qua những ví dụ thực tế và số liệu thu thập được về trạng đạo đức kinh doanh ở
Việt nam, chúng ta có thể thấy mặc dù có một số tín hiệu khả quan, nhưng hiểu biết
về đạo đức kinh doanh của cả giới trí thức và giới doanh nghiệp ở Việt Nam đều có
những thiếu sót nghiêm trọng. Những thiếu sót này không những đã gây tác hại cho
người tiêu dùng, cho các nhà kinh doanh, cho xã hội mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng
đến hình ảnh của doanh nghiệp, làm doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ và lâu dài sẽ
ảnh hưởng đến hình ảnh quốc gia trên thị trường quốc tế. Để giải quyết vấn đề này,
tác giả xin mạn dạn đưa ra một số đề xuất sau:
Trước hết, cần nghiên cứu để bổ sung, hoàn thiện khung luật pháp Việt nam
nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho đạo đức kinh doanh

Đây là biện pháp tiên quyết, vì luật pháp chính là khung dễ thấy nhất cho đạo
đức kinh doanh. Cần hoàn thiện các Bộ Luật có liên quan như Luật Đầu tư, Luật Lao
động, Luật Doanh nghiệp, Luật Bảo vệ Người tiêu dùng, Luật Môi trường… Một
nguyên nhân quan trọng cho tình trạng yếu kém của đạo đức kinh doanh ở Việt Nam

- 25 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
hiện nay xuất phát từ sự thiếu hoàn thiện trong pháp luật Việt nam. Nếu luật pháp quy
định chặt chẽ hơn, hợp lý hơn sẽ tránh được tình trạng doanh nghiệp nệ vào sự sơ hở
của luật pháp mà trốn tránh nghĩa vụ đạo đức của mình. Một ví dụ điển hình cho vấn
đề này là Luật bảo vệ người tiêu dùng. Vừa
qua, tại Hội thảo “Thực trạng thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng và định
hướng xây dựng Luật Bảo vệ quyền người tiêu dùng” do Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ
Công thương) vừa tổ chức tại Hà Nội, ông Hank Baker (đại diện Dự án Star Việt
Nam) khẳng định, người tiêu dùng Việt Nam chưa được đảm bảo quyền lợi khi sử
dụng các hàng hóa, dịch vụ. Đa số vẫn trông chờ vào “lòng tốt” của người bán hàng
khi mua các sản phẩm trên thị trường.Theo ông Baker : “Khi gặp một sản phẩm
không ưng ý, chúng ta vẫn hy vọng mình sẽ may mắn lấy lại được tiền. Trong khi đó,
trên thị trường lại có quá nhiều người bán hàng không có tâm với hàng hóa mình bán
ra. Hậu quả cuối cùng là người tiêu dùng phải chịu thiệt thòi”.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là pháp luật về bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng tại Việt Nam chưa được thực thi một cách hiệu quả.
Theo bà Vũ Thị Bạch Nga, Trưởng Ban Bảo vệ người tiêu dùng (Cục Quản lý cạnh
tranh), hiện chỉ có hai văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề này là Pháp
lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (năm 1999) và Nghị định 55/2008/NĐ - CP
ngày 24/4/2008 quy định chi tiết thi hành pháp lệnh này. Tuy nhiên, bà Nga cho biết,
các quy định của pháp lệnh lại chưa phát huy được hiệu lực trên thực tế. Quyền và
trách nhiệm của người tiêu dùng đang được quy định rất
chung chung. Các quy định mới chỉ được “gọi tên” mà chưa đi sâu phân tích bản chất
cụ thế của các quyền và trách nhiệm đó. Ví dụ, điều 8 của Pháp lệnh có ghi : « người
tiêu dùng được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe và môi trường khi sử dụng
hàng hóa, dịch vụ... » nhưng lại không quy định quyền này được thể hiện như thế nào
trên thực tế? Người tiêu dùng phải làm gì để được đảm bảo an toàn? Ngoài ra, còn tồn
tại những bất cập trong quy định về quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ. Luật Bảo vệ Người tiêu dùng cũng không quy định các chế
tài để xử lý hành vi vi phạm của tổ chức cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ như
cân, đong sai, thông tin về dịch vụ hàng hóa thiếu trung thực... “Điều 16 của Pháp
lệnh quy định, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải giải
quyết kịp thời mọi khiếu nại của người tiêu dùng về hàng hóa, dịch vụ của mình khi
chúng không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng, giá cả đã công bố hoặc hợp
đồng đã giao kết. Tuy nhiên, trình tự, thủ tục ra sao, hậu quả pháp lý mà cá nhân tổ
chức phải gánh chịu khi không thực hiện yêu cầu này như thế nào lại không được nói
tới”, bà Nga phân tích. Có mặt tại cuộc Hội thảo, Đại diện Cục Quản lý cạnh tranh
cũng cho rằng, những quy định về quyền và trách nhiệm của người tiêu dùng trong
các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành vẫn còn mang tính chất “nghị quyết”, chưa
thực sự đảm bảo cơ chế cho việc thực thi các quyền này. Theo đại diện Cục Quản lý
cạnh tranh, những hạn chế trong các văn bản quy phạm pháp luật đã khiến cho người
tiêu dùng Việt Nam chưa được bảo vệ tốt nhất về quyền lợi. Tuy nhiên, ông Hank
Baker tỏ ý quan ngại rằng, nếu dự luật vẫn được thiết kế theo cách cũ là tập trung xử

- 26 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
phạt hành vi vi phạm, thì hiệu quả bảo vệ người tiêu dùng không cao. Theo ông Hank
Baker, yêu cầu đặt ra lúc này đối với thực tế Việt Nam là cần có luật về hội để tăng
cường vai trò của các hội trong công tác bảo vệ người tiêu dùng. Nếu không nhanh
chóng sửa đổi những thiếu sót này thì quyền lợi của người tiêu dùng vẫn chưa được
đảm bảo, hay như ông Hank Baker thừa nhận: “Tôi không thích là người tiêu dùng
Việt Nam!”.
Cần nâng cao nhận thức về đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
Cần lưu ý là không chỉ các nhà kinh doanh, các nhà nghiên cứu mới cần nắm
được kiến thức về đạo đức kinh doanh mà cả xã hội cần ý thức điều này. Vi vậy, trước
hết các phương tiện thông tin đại chúng nên tiến hành phổ cập các kiến thức về đạo
đức kinh doanh nhằm định hướng hành vi của người dân, để người dân có thể nắm
được nhằm tự bảo vệ quyền lợi cho mình và giám sát hoạt động của doanh nghiệp.
Tiếp theo, các cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý, hướng dẫn doanh nghiệp
như Bộ Công thương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam, Sở Kế hoạch -
Đầu tư ở các tỉnh, Thành phố cần quan tâm phổ biến những kiến thức chung nhất về
đạo đức kinh doanh. Việc này có thể tiến
hành bằng nhiều cách như tổ chức các lớp học cho doanh nghiệp về đạo đức kinh
doanh, chọn lựa dịch và xuất bản một số sách có uy tín của nước ngoài về đề tài
này… Nên lưu ý là sách cho doanh nghiệp cần ngắn gọn, nhiều tình huống thực tế,
kiểu Cẩm nang về đạo đức kinh doanh chẳng hạn… Các Trường Cao đẳng, Đại học
khối Kinh tế cũng cần đưa nội dung về đạo đức kinh doanh vào chương trình đào tạo
của mình, có thể dưới dạng một môn riêng hay gài vào các môn học khác như quản trị
nhân sự, nghiệp vụ kinh doanh… Vì bản quyền của các sách kinh doanh thường đắt
và dịch thuật không dễ dàng, nên có thể tranh thủ sự trợ giúp của các tổ chức nước
ngoài để đảm bảo hiệu quả cho việc làm này. Một ví dụ
cho cách làm này là sự kiện tháng 3 năm 2008, Trung tâm Thông tin thuộc Đại sứ
quán Hoa Kỳ đã tài trợ cho Nhà Xuất bản Trẻ để dịch và xuất bản cuốn “Business
Ethics: A Manual For Managing A Responsible Business Enterprise In Emerging
Market Economies” của các tác giả Igor Y. Abramov, Kenneth W. Johnson and
Donald L. Evans, Nhà xuất bản Diane Pub Co mới phát hành tháng 5 năm 2004, một
cuốn sách được đánh giá là có uy tín trong giới nghiên cứu. Đây là một cách làm hay,
trên thế giới hiện nay có khá nhiều tổ chức có uy tín về đạo đức kinh doanh như Hiệp
hội Quốc tế về Kinh doanh,Kinh tế và Đạo đức (The International Society of Business
Economics and Ethics - ISBEE), được thành lập từ năm 1989, có trụ sở chính ở Mỹ,
và là cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức các Đại hội về Đạo đức kinh doanh 4 năm 1
lần…. Nếu tranh thủ được sự trợ giúp của họ để lưu hành và phổ biến những tài liệu
có chất lượng về vấn đề này sẽ tiết kiệm được kinh phí và phổ biến được những kiến
thức tiên tiến nhất.

Cần có những biện pháp khuyến khích doanh nghiệp nâng cao đạo đức kinh
doanh của mình

- 27 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
Chúng ta cần ý thức rằng, không có ranh giới cố định nào đạo đức mà đạo
đức là một phạm trù mà con người luôn cần vươn lên để đạt đến nó. Rất khó kiểm
soát đạo đức vì nó vượt xa hơn việc tuân thủ pháp luật rất nhiều. Với đạo đức kinh
doanh, vấn đề còn phức tạp hơn vì việc tuân thủ đạo đức trong ngắn hạn thường
không đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, trong khi lợi nhuận mới là mục đích chính
của doanh nghiệp. Vì vậy, các cơ quan hữu quan cần có những biện pháp để khuyến
khích doanh nghiệp có thành tích trong đạo đức kinh doanh như trong các giải Sao
Vàng Đất Việt, Bông Hồng Vàng… có thể đưa việc có thành tích trong đạo đức kinh
doanh là một tiêu chuẩn để xét. Các cơ quan thông tin đại chúng có thể đăng bài tôn
vinh những doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn này… Ngược lại, các cơ
quan quản lý cũng cần có biện pháp phạt những doanh nghiệp vi phạm đạo đức kinh
doanh với mức phạt tương xứng. Không thể tiếp tục tình trạng doanh nghiệp buộc
người lao động làm thêm giờ 16 - 20h/ngày hàng tuần liền đến mức lao động ngất xỉu
mà chỉ bị phạt vài triệu VND; Các doanh nghiệp vi phạm quy định bảo vệ môi trường
như xả hóa chất ra sông làm cá chết hàng loạt,người dân không có nước sinh hoạt, etc.
mà lại được cho phép tiếp tục hoạt động trong khi tìm biện pháp xử lý….
Cũng như văn hóa, đạo đức nói chung và đạo đức kinh doanh nói riêng là
những phạm trù phức tạp, cần nhiều thời gian và công sức để hoàn thiện và phát triển.
Là một quốc gia đang phát triển, mới tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa, những
phạm trù như văn hóa kinh doanh, đạo đức kinh doanh còn khá mới mẻ ở Việt nam.
Được biết trong thời gian tới, chính phủ Việt Nam đang có chủ trương nâng cao trình
độ nhận thức cho người dân và doanh nghiệp về các vấn đề có liên quan đến hội nhập
KTQT và toàn cầu hóa. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đang khuyến cáo các trường
Đại học và Cao đẳng cần đổi mới chương trình đào tạo cho phù hợp với trình độ
chung trên thế giới. Có được những yếu tố thuận lợi này và truyền thống đạo đức lâu
đời của người Việt Nam, hy vọng là trong thời gian tới,
nhận thức của người VN về DDKD sẽ nhanh chóng được nâng cao, góp phần duy trì
sự phát triển bền vững và nâng cao chất lượng đời sống cho người dân Việt Nam .

V-Một Số ví dụ thực tiễn về đạo đức kinh doanh :

Chuyện kể rằng, có một cậu bé tên Mạc Đỉnh Chi tuy nhà nghèo nhưng rất ham
học. Nhà nghèo, cậu bé không thể đến lớp cùng bè bạn mà chỉ đứng ngoài lớp học
nghe thầy giảng bài. Đêm đến, không có đèn thắp sáng, cậu bé phải bắt đom đóm rồi
cho vào vỏ quả trứng để có ánh sáng học bài. Chính lòng say mê ham học ấy, sau này
cậu đã đỗ trạng nguyên, học vị cao nhất thời bấy giờ. Mạc Đỉnh Chi đã trở thành một
tấm gương vượt khó học giỏi và câu chuyện đom đóm đã được lưu truyền từ đời này
sang đời khác. Thấu hiểu được tinh thần ham học, vượt khó của câu chuyện Đom
Đóm, Dutch Lady Việt Nam phối hợp với báo Khăn Quàng Đỏ tổ chức chương trình
khuyến học “Đèn Đom Đóm” với mong muốn thắp sáng ước mơ cho những mảnh đời
trẻ thơ nhọc nhằn. Câu chuyện của chú đom đóm nhỏ bay đến mọi nơi của đất nước
mang ánh sáng của tri thức đến hàng ngàn trẻ em nghèo hiếu học bắt đầu từ đây. Chỉ
với một thao tác đơn giản cùng một tin nhắn, bạn đã có cơ hội giúp đỡ các mảnh đời
- 28 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
nhỏ hiếu học được cắp sách đến trường. Với mong muốn mạng lại niềm vui cho các
em, VHT Corp. cùng Dutch Lady thực hiện chương trình khuyến học “Đèn Đom
Đóm”. Chương trình khuyến học Đèn Đom Đóm của Dutch Lady được triển khai từ
năm 2002. Để chung tay ủng hộ chương trình Đèn Đom Đóm, hãy soạn tin : DDD
[Mã trường] gửi 8704 (15.000 VNĐ/tin).

Chương trình phát triển ngành sữa:

Dutch Lady Việt Nam triển khai “Chương trình Phát triển Ngành sữa”, nhằm hỗ
trợ nông dân chăn nuôi bò sữa. Chương trình này hướng tới việc xây dựng mối quan
hệ bền vững với người chăn nuôi bò sữa địa phương vì họ sẽ là những người cung cấp
sữa tươi cho công ty.

Chương trình được khởi sự vào tháng 9 năm 1995 với tổng số tiền đầu tư ban đầu là
6,6 triệu USD, hoạt động trong vòng 10 năm. Do sự thành công của chương trình nên
công ty đã quyết định tiếp tục mở rộng tài trợ cho chương trình kể từ năm 2006.

 Hệ thống thu mua sữa

Mục tiêu quan trọng nhất củaChương trình Phát triển Ngành sữa là cải thiện cơ sở hạ
tầng của hệ thống thu mua sữa. Do người nông dân chăn nuôi bò sữa hiện diện khắp
các vùng nông thôn nên Công ty đã xây dựng mạng lưới gồm 39 Điểm Thu Mua để họ
có thể bán sữa trực tiếp cho công ty. Những điểm thu mua này nằm được đặt tại các
tỉnh Bình Dương, Long An, Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh.

Thêm vào đó, công ty đã thành lập 3 Trung tâm Làm lạnh với tổng số tiền đầu tư là
1,7 triệu USD, sữa thu mua từ nông dân được làm lạnh tại đây trước khi được vận
chuyển về nhà máy chế biến của Dutch Lady Việt Nam. Hiện nay, có khoảng 2.300
hộ chăn nuôi bò sữa tham gia vào Chương trình Phát triển Ngành sữa và dự kiến vào
cuối năm 2006, họ cung cấp khỏang 90 tấn sữa tươi mỗi ngày với sản lượng sữa
không ngừng nâng cao.

 Quản lý chất lượng.

Sữa tươi xuyên suốt hệ thống từ nông trại về nhà máy là chìa khóa cho sự thành công
của Chương trình Phát triển Ngành sữa. Muốn như vậy, không chỉ những người nông
dân cần được truyền đạt về quy trình khai thác và vận chuyển sữa hợp vệ sinh; mà đội
ngũ nhân viên của Chương trình Phát triển Ngành sữa cũng cần được tập huấn cách
tốt nhất để duy trì chất lượng sữa trong toàn bộ hệ thống thu mua sữa. Cơ sở hạ tầng
và tổ chức của hệ thống thu mua sữa được hỗ trợ và củng cố bởi hệ thống quản lý
ISO. Hiệu quả của hệ thống quản lý chất lượng này là đem lại lợi ích cho người nông
dân nhờ việc sản xuất ra sữa với chất lượng cao nhất từ đó gia tăng nguồn thu từ sữa;
và lợi ích cho Dutch Lady Việt Nam thông qua việc mua được sữa chất lượng cao.
- 29 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
 Phương thức chi trả tiền sữa.

Minh bạch - được áp dụng nhằm khuyến khích nông dân sản xuất sữa với chất lượng
cao. Nông dân có thể nhận giá sữa cao hơn giá sữa chuẩn tùy thuộc vào chất lượng
sữa cao hơn mà họ giao bán. Dutch Lady Việt Nam là công ty đầu tiên áp dụng
phương thức trả tiền sữa cho phần chất lượng vượt chuẩn này.

Dịch vụ hỗ trợ nông dân :

Dutch Lady Việt Nam có đội ngũ nhân viên khuyến nông lành nghề, cung cấp các
dịch vụ miễn phí cho nông dân như gieo tinh nhân tạo và dịch vụ thú y. Nông dân chỉ
phải trả tiền thuốc thú y với giá thấp. Đội ngũ nhân viên khuyến nông được huấn
luyện chuyên môn về kỹ thuật chăn nuôi bò sữa. Dutch Lady Việt Nam cũng tài trợ
những khóa huấn luyện cho nhân viên khuyến nông về kỹ thuật chăn nuôi bò sữa
chuyên nghiệp tại Hà Lan.

 Tập huấn nông dân .

Việc tập huấn nông dân dựa theo phương pháp học qua thực hành và quan sát. Mục
tiêu chính của tập huấn là giúp nông dân tăng khả năng hiểu biết về lợi ích chung của
việc đạt được chất lượng sữa cao hơn, và nâng cao kiến thức và kỹ năng cho người
nông dân để cải thiện chất lượng sữa. Cả người bán sữa và Dutch Lady Việt
Nam không chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà còn quan tâm đến sức khỏe người tiêu
dùng.

Chương trình tập huấn không chỉ tập trung vào việc huấn luyện nông dân sản xuất ra
sữa đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm cao mà còn tập trung vào các chủ đề khác như
chăm sóc thú y, vệ sinh, kỹ thuật vắt sữa, cách chọn giống, và chăm sóc bò trong thời
kỳ mang thai và khi đẻ…Nông dân được mời tham gia tập huấn tại trung tâm huấn
luyện và trại bò kiểu mẫu của Dutch Lady Việt Nam. Họ được cung cấp miễn phí các
phương tiện học tập.

Dutch Lady Việt Nam đề cao tình trạng vệ sinh của sữa tươi và cách sản xuất sữa tại
trại bò. Để kiểm soát việc sản xuất sữa tại trại và để khuyến khích nông dân sản xuất
sữa tươi trong điều kiện vệ sinh tốt, Dutch Lady Việt Nam áp dụng tiền thưởng vệ
sinh sữa thêm vào cho giá sữa. Điều này cho phép người nông dân chăn nuôi bò sữa
nhận được khoản tiền trả thêm vào tiền bán sữa, với điều kiện là họ quan tâm để các
dụng cụ dùng trong vắt sữa luôn sạch sẽ và có kỹ thuật nuôi bò sữa phù hợp.

Lợi ích cho người chăn nuôi bò sữa :

Chương trình Phát triển Ngành sữa cung cấp một chương trình tập huấn kỹ thuật hữu
hiệu cho cả những người chăn nuôi với quy mô nhỏ và quy mô lớn hơn. Họ học được
- 30 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
các kỹ thuật mới trong chăn nuôi bò sữa và cải thiện chất lượng sữa. Nông dân cảm
thấy an tâm hơn vì rủi ro từ chăn nuôi bò sữa đã giảm xuống. Họ có thể yêu cầu hỗ trợ
từ đội ngũ nhân viên kỹ thuật của công ty bất cứ khi nào họ gặp khó khăn.

+ Lợi ích kinh tế: nông dân bán sữa không qua trung gian, họ nhận được giá sữa thỏa
đáng khi bán sữa trực tiếp cho công ty. Thêm vào đó, công ty đã khởi tạo một thị
trường tiêu thụ sữa tươi cho người nông dân.

Chương trình Phát triển Ngành sữa đã thiết lập một thị trường tiêu thụ sữa ổn định
cho người chăn nuôi bò sữa ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận, mà trước
đây bị chi phối bởi giới mua bán trung gian. Nhờ mạng luới hỗ trợ dịch vụ rộng khắp
và các khóa tập huấn do chương trình tổ chức, nông dân sản xuất sữa vượt tiêu chuẩn
chất lượng sữa yêu cầu. Kết quả là nông dân nhận được giá sữa cao nhất trên toàn
quốc hiện nay.

Đóng góp nhỏ bé mang đến niềm vui lớn lao!


Trong chuyến hành trình mang niềm vui và hy vọng đến cho các em học sinh
ngèo hiếu học, chương trình khuyến học Đèn Đom Đóm không chỉ là một họat động
của riêng Dutch Lady Việt Nam (DLV) mà còn đặc biệt nhận được sự ủng hộ và chia
sẻ từ nhiều đơn vị và các cá nhân khác. Chị Nguyễn Thị Bích Thảo - khách hàng may
mắn trúng giải nhất trong chương trình khuyến mãi “Cào và trúng hàng triệu giải
thưởng” đã trích một phần tiền ủng hộ cho quỹ khuyến học Đèn Đom Đóm với tâm
sự “Thông qua quỹ khuyến học Đèn Đom Đóm, tôi muốn được chia sẻ may mắn với
các em và giúp một phần sức để các em tiếp tục học tập”. Các đối tác của DLV như
công ty quảng cáo Mindshare, Leo Burnett, công ty liên doanh bao bì United, báo
Khăn Quàng Đỏ… đã gửi tặng máy in, đồng phục học sinh, sách báo và cả tiền mặt
như một sự chung tay khuyến khích tinh thần ham học vượt khó của các em.
Tinh thần chia sẻ của chương trình được thể hiện rõ nét bằng sự nhiệt tình của
120 nhân viên công ty, các đối tác kinh doanh, các nhà báo khi tham gia sơn, dọn
trường Đèn Đom Đóm tại Dak Nhau, Bình Phước. Đặc biệt, các nhà phân phối và anh
em bán hàng – những người đã luôn đồng hành cùng chương trình từ lễ trao học bổng
hằng năm đến dự án xây trường Đèn Đom Đóm không đơn thuần thực hiện chương
trình như một trách nhiệm đối với công ty mà còn bằng tất cả lòng tự nguyện và muốn
chia sẻ với những em nhỏ ngay trên quê hương mình. Tháng 4/2007, nhà phân phối
Hạnh Đức tại tỉnh Dak Lak đã chủ động hỗ trợ thêm 2 phần học bổng cho em Nguyễn
Thị Hồng Sen, học sinh lớp 8A3 và em Yến Nhi học sinh lớp 6A6 trường trung học
Nguyễn Trường Tộ, tỉnh Dak Lak để khuyến khích tinh thần vượt khó và tạo điều
kiện giúp các em tiếp tục học tập.

Mỗi một đóng góp, dù nhỏ bé, dù bằng công sức hay bằng hiện vật cho chương trình
khuyến học Đèn Đom Đóm đều mang một ý nghĩa đặc biệt không chỉ đối với các em

- 31 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
học sinh nghèo hiếu học mà đó còn là cách mỗi cá nhân thể hiện sự quan tâm chia sẻ
của mình đối với cộng đồng.

Để đáp ứng nhu cầu về sân chơi bổ ích cho trẻ nhằm giúp trẻ phát triển toàn diện và
góp phần thực hiện phong trào xây dựng trường học thân thiện, vừa qua Vụ Giáo dục
Tiểu học – Bộ Giáo dục & Đào tạo phối hợp với nhãn hàng Cô Gái Hà Lan của công
ty Friesland Campina Việt Nam, chính thức phát động cuộc thi mang tên “Cùng Cô
Gái Hà Lan xây sân chơi kỳ diệu” dành cho các em học sinh tiểu học (từ lớp 1 – lớp
5) trên phạm vi cả nước .

Chơi và học là điều kiện cần và đủ để trẻ phát triển toàn diện. Các em học sinh tiểu
học đa phần có mặt ở trường từ sáng tới chiều. Vì vậy, trường học sẽ phải là nơi có
những sân chơi phù hợp giúp cho các em cân bằng giữa hai yếu tố: học hành và vui
chơi giải trí. Bên cạnh đó, vui chơi còn là một cách học hỏi thú vị và trẻ sẽ học tốt
hơn khi chúng được vui chơi. Đây không chỉ là nhu cầu mà còn là ước mơ của rất
nhiều trẻ em .

Xuất phát từ nhu cầu có thực đó và với mong muốn hiện thực hoá ước mơ của các em,
chương trình “Cùng Cô Gái Hà Lan xây sân chơi kỳ diệu” sẽ là một một sân chơi
lớn cho các em học sinh tiểu học trên cả nước, kéo dài liên tục trong 2 tháng từ ngày
01/03/2011 đến hết ngày 30/04/2011. Cuộc thi sẽ hướng các em đến những suy nghĩ
tự do, bay bổng, khuyến khích trí tưởng tượng, tài sáng tạo với hình thức thi vẽ tranh
(hoặc miêu tả) về sân chơi mơ ước của mình. Phần thưởng đặc biệt dành cho các tác
phẩm đoạt giải là 6 sân chơi trị giá 400 triệu/sân chơi, được hiện thực hóa từ tranh vẽ
(hoặc miêu tả) của chính các em, do nhãn hàng Cô Gái Hà Lan xây dựng tại chính
ngôi trường mà các em đang theo học. Các bé có tác phẩm đạt giải sẽ được vinh danh
là “nhà thiết kế tài ba tí hon”

Ông Lê Tiến Thành, Vụ trưởng vụ Tiểu Học cho biết thêm: “Theo tiêu chuẩn đánh
giá trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia của Bộ GD-ĐT, các trường tiểu học phải có
sân chơi, sân tập thể dục và cây bóng mát (khu đất làm sân chơi, bãi tập không dưới
30% diện tích mặt bằng của trường). Nên cuộc thi chính là cơ hội lớn đối với những
trường còn chưa có sân chơi và cũng góp phần thực hiện phong trào xây dựng trường
học thân thiện-học sinh tích cực. Chúng tôi mong muốn các bậc phụ huynh, các thầy
cô tích cực hỗ trợ, khuyến khích và tạo mọi điều kiện để các em tham gia vào cuộc thi
này.”

Bà Nguyễn Phạm Thị Diễm Hương, Trưởng phòng tiếp thị tiêu dùng của nhãn hàng
Cô Gái Hà Lan cho biết: “Hoạt động vui chơi góp phần phát triển trí lực, thể lực cho
học sinh và ở mỗi bậc học, các em có nhu cầu về sân chơi khác nhau. Ở bậc tiểu học,
các em càng cần có sân chơi hơn vì các em đang ở độ tuổi hiếu động, thích tìm tòi
khám phá, sáng tạo. Sân chơi không đơn thuần là nơi vui chơi, mà đó còn là nơi để
các em thỏa sức sáng tạo sau những giờ học căng thẳng. Chính vì thế, thông qua
- 32 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
chương trình, chúng tôi muốn khơi gợi sự sáng tạo của các em, giúp các em thực hiện
những “điều kỳ diệu” ở độ tuổi của mình và từ đó tạo ra những sân chơi bổ ích, lành
mạnh giúp các em phát triển cả về thể lực lẫn trí lực".

Cuộc thi một lần nữa khẳng định triết lý kinh doanh luôn hướng về cộng đồng, nhất là
chăm lo phát triển cho những mầm non tương lai của tập đoàn FrieslandCampina nói
chung, của nhãn hàng Cô Gái Hà Lan nói riêng nhằm phát huy những giá trị đích
thực, thể hiện đúng cam kết luôn đồng hành cùng người tiêu dùng Việt Nam.Chương
trình được tiến hành trong thời gian từ ngày 1/3/2011 đến hết ngày 30/4/2011 với
những nội dung chi tiết như sau:

1. Thể lệ chương trình:

Trên mỗi lốc sữa tiệt trùng 180ml (không đường, có đường, hương dâu, sôcôla) hoặc
sữa chua uống tiệt trùng 180ml (hương dâu, hương cam) có đính kèm 1 tờ rơi

- Bước 1: Bé cùng thu thập thật nhiều tờ rơi đính trên sản phẩm

- Bước 2: Bé sáng tạo và thể hiện ý tưởng của mình về một sân chơi kỳ diệu bằng bản
vẽ thiết kế (vẽ hoặc miêu tả) rồi nộp cùng với tờ rơi thu thập được cho trường nơi bé
đang học.

- Bước 3: Trường chọn và gửi những bản thiết kế về nhãn hàng Dutch Lady để được
tham gia bình chọn.

Ghi Chú: Chương trình áp dụng cho các trường tiểu học trên toàn quốc. Mỗi trường
nộp tối đa 15 bản thiết kế cùng ít nhất 500 tờ rơi (số lượng tờ rơi càng nhiều, khả năng
bình chọn càng cao).

2. Cơ cấu giải thưởng: - Giải đặc biệt: 6 giải, mỗi giải trị giá 400 triệu đồng, cho 6
trường nộp bản thiết kế hay và có tính khả thi nhất cùng với số lượng tờ rơi nhiều
nhất.

Số tiền 400 triệu sẽ được nhãn hàng Dutch Lady sử dụng để hiện thực hóa bản thiết kế
cho trường hoặc được trao nếu trường không có diện tích xây dựng sân chơi.
- Giải khuyến khích: 100 giải, mỗi giải trị giá 100 thùng sữa tiệt trùng Dutch Lady
110ml cho 100 trường có số tờ rơi nhiều nhất

- Phần thưởng cho bé có thiết kế được chọn: Được vinh danh là “nhà thiết kế tí
hon tài ba”.

- 33 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
KTNT- Nhằm hỗ trợ giúp đồng bào miền Trung gặp khó khăn trong đợt mưa lũ vừa
qua. Công ty Cổ phần sữa Cô gái Hà Lan đã chuyển 21.000 thùng sữa (trị giá hơn 4 tỷ
đồng) về các tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị và Huế.

Bên cạnh đó, công ty cũng đã kêu gọi nhân viên toàn công ty đóng góp để giúp đỡ
cho người dân các tỉnh Miên Trung. Toàn bộ số tiền quyên góp được cũng sẽ được
dành cho việc giúp đỡ người dân khắc phục hậu quả của đợt lũ.Ông Trần Quốc Huân,
Giám đốc Thương mại công ty, người trực tiếp tham gia chỉ đạo và giám sát việc vận
chuyển & đưa số hàng cứu trợ đến với người dân vùng lũ chia sẻ: “Trong những ngày
này, cả nước đều đang hướng về khúc ruột miền Trung, nơi người dân đang phải vật
lộn với những trận lũ liên tiếp. Là một doanh nghiệp luôn hướng về cộng đồng, chúng
tôi hy vọng những hỗ trợ của công ty sẽ phần nào giúp bà con vượt qua những khó
khăn trước mắt, cùng với cả nước tiếp thêm sức mạnh tinh thần và vật chất giúp người
dân từng bước khắc phục hậu quả và ổn định cuộc sống”.

Ngày 10/3, nhãn hiệu sữa Cô gái Hà Lan cùng Viện Dinh dưỡng Quốc gia
(NIN) đã công bố việc hợp tác thực hiện công trình nghiên cứu về khoa học dinh
dưỡng nhằm tìm hiểu rõ hơn tình trạng dinh dưỡng, phát triển trí tuệ và vận động thể
lực của trẻ em tại Việt Nam.

Đây là một trong những nghiên cứu quy mô lớn và chuyên sâu nhất được thực hiện
tại khu vực trong những năm gần đây. Nghiên cứu bao gồm nhiều chỉ tiêu đánh giá
được thực hiện với gần 3.000 trẻ em dưới 12 tuổi tham gia trên phạm vi toàn quốc.
Đây là một phần của chương trình nghiên cứu dinh dưỡng do Royal
FrieslandCampina, tập đoàn sữa sở hữu nhãn hiệu Cô gái Hà Lan, thực hiện tại khu
vực Đông Nam Á. Cùng với Việt Nam, nghiên cứu cũng được tiến hành tại các nước
trong khu vực gồm Indonesia, Thái Lan và Malaysia.
Cuộc nghiên cứu này sẽ cho phép nhãn hiệu sữa Cô gái Hà Lan xác định những
nhu cầu cấp thiết trong việc tăng cường sức khỏe và dinh dưỡng quốc gia. Kết quả
nghiên cứu sẽ giúp cho công ty phát triển những sản phẩm dinh dưỡng tốt hơn, nhằm
đáp ứng đúng nhu cầu dinh dưỡng đặc thù của trẻ em Việt Nam. Kết quả nghiên cứu
này đồng thời cung cấp một cái nhìn chuyên sâu về tình trạng phát triển của trẻ em
Việt Nam so với các trẻ cùng lứa tuổi tại các quốc gia khác trong khu vực.
So với các nghiên cứu trước đây từng thực hiện tại Việt Nam, nghiên cứu này
được thực hiện sâu rộng hơn, không chỉ xem xét về chế độ dinh dưỡng mà còn đánh
giá tầm ảnh hưởng và mối tương quan giữa chế độ dinh dưỡng với sự phát triển trí tuệ
và vận động thể lực của trẻ em. Không dừng lại ở đó, kết quả chuyên sâu này sẽ được
biến thành hành động nhằm hỗ trợ người tiêu dùng Việt Nam có thể tự kiểm soát và
điều chỉnh chế độ dinh dưỡng hàng ngày nhằm đảm bảo sức khỏe.
Ông Theo Queis, Giám đốc Tiếp thị phụ trách nhãn hiệu sữa Cô gái Hà Lan
cho biết: “Với vai trò là nhà cung cấp sản phẩm dinh dưỡng từ sữa đáng tin cậy tại
Việt Nam, nhãn hiệu sữa Cô gái Hà Lan mong muốn giúp mọi người luôn sẵn sàng

- 34 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
tiến lên trong cuộc sống với các sản phẩm của chúng tôi. Chúng tôi cam kết giúp
người tiêu dùng duy trì và cải thiện tình trạng dinh dưỡng của mình thông qua những
lợi ích từ sữa.”
Toàn bộ dữ liệu thu thập được từ cuộc nghiên cứu dinh dưỡng này sẽ được các
nhà khoa học làm việc tại NIN gia xử lý và phân tích. Đội ngũ chuyên gia từ bộ phận
Nghiên cứu và Phát triển của nhãn hiệu sữa Cô gái Hà Lan cũng sẽ linh hoạt hỗ trợ và
làm việc chặt chẽ với NIN trong việc phân tích những số liệu thu thập được trong
cuộc nghiên cứu.
Việc thu thập dữ liệu phục vụ cho phân tích và báo cáo sẽ kéo dài trong khoảng
12 tháng và dự kiến kết quả sẽ được công bố trong năm 2012. Các tổ chức sức khỏe
cộng đồng có thể sử dụng những kết quả này để cập nhật thông tin về các chương
trình dinh dưỡng quốc gia.

Bên cạnh những chương trình khuyến học đầy ý nghĩa , công ty Dutch Lady
cũng rất trú trọng đến phát triển chất lượng sản phầm của công ty , điển hình là trong
những năm gần đây , nhiều công ty đã nhập lậu sữa từ trung quốc về với giá thành rẻ
bất chấp chất lượng tồi thậm chí là có chất gây ung thư cho sức khỏe con người như
Melamine. Nhưng công ty DLV vẫn chọn những nguồn sữa tinh khiết có chất lượng
tốt được nhập khẩu từ Newdiland hay tại những trang trại nuôi bò sữa của người dân
do chính công ty cấp vốn , hỗ trợ kỹ thuật . Điều này chứng tỏ triết lý kinh doanh của
công ty luôn hướng tới cộng đồng , công ty luôn coi sức khỏe con người được ưu tiên
hàng đầu .Trong kinh doanh lợi nhuận cũng rất quan trọng nhưng đồng thời cũng phải
trú trọng đến đạo đức kinh doanh sao cho phù hợp với lợi ích của công ty cũng như
lợi ích cộng đồng.

 Thương hiệu tốt không tự nhiên mà có.

Viện Đạo đức kinh doanh quốc tế (International Business Ethics Institute) ở Mỹ đã
từng xác định 4 công việc mà các công ty cần phải thực hiện để củng cố và gia tăng
uy tín cho thương hiệu của mình.

Thứ nhất, trung thực với các nhà đầu tư và người tiêu dùng. Thứ hai, cải thiện ngày
một tốt hơn tình hình nội bộ hãng bằng cách gia tăng tinh thần trách nhiệm và lợi ích
của các nhân viên, giảm biến động đội ngũ cán bộ, tăng năng suất lao động... Thứ ba,
đánh bóng thương hiệu một cách chuyên nghiệp và thực chất. Cuối cùng, xử lý một
cách bài bản những việc liên quan tới cổ phiếu và tài chính - chỉ có ứng xử thật đàng
hoàng với luật pháp thì mới có thể tạo dựng tương lai lâu dài và bền chắc cho hãng.

Còn tạp chí Business Ethics trong 16 năm liền thường xuyên công bố bảng xếp hạng
những công ty mà họ cho là có tính đạo đức nhất ở Mỹ. Trong số những tiêu chí để
xếp hạng có tính tới quan hệ với các nhà đầu tư và đội ngũ nhân viên (trong đó có
quan hệ với phụ nữ; với các cộng đồng sắc tộc thiểu số, khác màu da, tôn giáo và
quan điểm...); với các cơ quan chính quyền sở tại và cộng đồng những nhà cung cấp
- 35 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
nguyên, nhiên liệu; với những người tiêu dùng; chính sách bảo vệ môi trường... Năm
2004, tạp chí này đã bình chọn những công ty sau:

1. Fannie Mae (dịch vụ tài chính trong lĩnh vực bất động sản). Cũng thật bất ngờ
là đầu năm nay, lãnh đạo công ty này đã đệ đơn từ chức vì bị mất lòng tin do
những nhà quản lý chủ chốt đã tự đặt những món tiền thưởng quá cao
2. Procter & Gamble (hóa chất gia dụng và mỹ phẩm);. Intel Corporation
(công nghệ máy tính và tin học);

4. St. Paul Companies SPC (dịch vụ bảo hiểm và tài chính);

5. Green Mountain Coffee Roasters Inc. (thực phẩm);

6. Deere & Company (chế tạo máy);

7. Avon Products (mỹ phẩm);

8. Hewlett- Packard Company (công nghệ máy tính và tin học);

9. Agilent Technologies (công nghệ tin học, điện tử và hoá chất);


10. Ecolab (dịch vụ làm sạch nội thất và diệt côn trùng).

Những quy tắc xếp hạng của tạp chí Business Ethics có thể áp dụng rộng rãi vì những
tiêu chí chính của nó dựa trên những tiền đề mà Tổ chức Bàn tròn doanh nghiệp thế
giới (Caux Round Table, viết tắt là CRT) tạo nên. CRT được lập ra từ năm 1986 bởi
các doanh nhân tới từ Mỹ, châu Âu và Nhật Bản, trong số này có Chủ tịch hãng
Philips, Phó Chủ tịch Viện Quản trị châu Âu và Chủ tịch hãng Canon...

CRT tập hợp các tiền đề của mình trên cơ sở ý tưởng của các doanh nghiệp Nhật
Bản: ý tưởng đó được thể hiện bằng từ "quơxây", nghĩa là "cùng sống và cùng làm
việc". Trong các tiền đề này toát lên sự tôn trọng nguyên tắc tập thể lãnh đạo rất cần
thiết cho sự cách tân liên tục và để đạt được sự hài hòa trong thế giới này.

CRT cũng nhấn mạnh tới tình bạn, sự hiểu biết lẫn nhau và sự hợp tác với nhau trên
cơ sở cùng tôn trọng những giá trị đạo đức cao quý và tinh thần trách nhiệm của
những cá nhân cụ thể nhằm thích ứng với môi trường ảnh hưởng của họ (tại nơi mà họ
cư trú và làm việc). Khái niệm nhân phẩm coi sự thiêng liêng và quý báu của từng cá
nhân như mục tiêu, chứ không phải là phương tiện để nhằm đạt mục tiêu.

Quan trọng hơn cả là tìm hiểu xem cái gì là đúng, chứ không phải tìm xem ai đúng
(tức là không nên quá cố gắng tìm xem ai có lỗi, ai không, mà là đi tìm cách giải
quyết vấn đề cho có hiệu quả nhất).

- 36 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
Tất nhiên, trong xã hội tư bản, không phải cái gì nói ra là đều thực hiện được. Lập ra
các quy tắc đạo đức bao giờ cũng dễ hơn nhiều lần là thực hiện chúng.

 Lợi nhuận tăng theo... đạo đức.

Có không ít người làm giàu nhanh tới chóng mặt nhờ những sự "xập xí xập ngầu" của
cơ chế. Trong những xã hội đang nằm ở giai đoạn chuyển tiếp giữa các hình thái xã
hội, ăn gian nói dối đôi khi dễ dàng mang lại những khoản thu khổng lồ. Tuy nhiên,
bạo phát thì rất có thể cũng sẽ bạo tàn. Kết cục của một số nhà tài phiệt Nga
(Oligarkh) hiện nay là một thí dụ nhỡn tiền. Họ đã kiếm được những gia sản nhiều
triệu USD trong thời kỳ Moskva dưới sự lãnh đạo của ông Boris Yeltsin phát tán tài
sản thừa kế từ Liên bang Xôviết và trở thành những cự phú có máu mặt trên quy mô
toàn cầu.

Rồi thế thời thay đổi, khi ông Vladimir Putin lên làm Tổng thống Nga, một số nhà tài
phiệt dạng kiểu Khodokovsky đã phải vào tù. Cơ quan lập pháp rất dễ dàng tìm ra đủ
các thứ tội của những nhà tài phiệt dạng này để họ phải "mùa đông sẵn có hỏa lò, mùa
hè nhà đá tha hồ nghỉ ngơi"...

Hai Giáo sư John Kotter và James Heskett ở trường đào tạo quản lý kinh doanh thuộc
Harvard, tác giả cuốn sách "Văn hóa công ty và chỉ số hoạt động hữu ích", đã phân
tích những kết quả khác nhau ở các công ty với những truyền thống đạo đức khác
nhau.

Công trình nghiên cứu của họ cho thấy, trong vòng 11 năm, những công ty "đạo đức
cao" đã nâng được thu nhập của mình lên tới 682% (trong khi những công ty đối thủ
thường thường bậc trung về chuẩn mực đạo đức chỉ đạt được 36%). Giá trị cổ phiếu
của những công ty "đạo đức cao" trên thị trường chứng khoán tăng tới 901% (còn ở
các đối thủ "kém tắm" hơn, chỉ số này chỉ là 74%). Lãi ròng của các công ty "đạo đức
cao" ở Mỹ trong 11 năm đã tăng tới 756% (1%).

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu này, hai vị Giáo sư khả kính trên khẳng định, gian
manh chẳng lọ thật thà!

Nhận thức được vai trò quan trọng của gương mặt đạo đức đối với công việc kinh
doanh, người Mỹ đã bỏ khá nhiều công sức ra nghiên cứu về vấn đề này. Chỉ tính
riêng trong năm 2000, theo Trung tâm vì một nền văn hóa kinh doanh có đạo đức
(Center for Ethical Business Culture), đã có tới 52 công trình nghiên cứu hàn lâm

- 37 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
được xuất bản tại Mỹ viết về ảnh hưởng của đạo đức kinh doanh tới thu nhập tài chính
của các công ty.

33 công trình phát hiện sự tỉ lệ thuận các phẩm chất đạo đức của đội ngũ lãnh đạo
cũng như nhân viên và thu nhập của các công ty. 5 công trình lại phát hiện ra mối
quan hệ tỉ lệ nghịch giữa hai yếu tố trên. 14 công trình còn lại không tìm thấy sự liên
hệ gì giữa hai yếu tố trên với nhau. Thế là rõ, đại bộ phận các nhà nghiên cứu đều cho
rằng, công ty có đạo đức sẽ dễ làm ăn phát đạt hơn.

Theo công trình nghiên cứu do hãng tiếp thị Environics tiến hành tại 20 quốc gia trên
thế giới, uy tín xã hội của công ty có vai trò vô cùng to lớn đối với các nhà đầu tư. Thí
dụ như ở Mỹ, hiện đang có khoảng 60% dân số đang sở hữu cổ phiếu của các hãng tư
nhân. 28% trong số này khi quyết định làm như vậy đã dựa vào những thông tin thu
thập được về hình ảnh của công ty trong con mắt xã hội.

Tại Italia, tỉ lệ những nhà đầu tư như thế vào khoảng 33%, còn tại Canada - 26%, tại
Nhật Bản - 22%, tại Anh, Pháp, Đức - 21%... Cũng công trình nghiên cứu trên cho
thấy, uy tín xã hội ngày càng có ảnh hưởng lớn tới thương hiệu của các công ty, lớn
hơn cả quảng cáo và chính sách tài chính...

Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của đạo đức kinh doanh là thái độ của
lãnh đạo công ty đối với các nhân viên. Theo một công trình nghiên cứu do Tạp chí
Fast Company tiến hành năm 2001, 26% số nhân viên Mỹ tuyên bố rằng, họ quan tâm
thực sự tới thành công của công ty mà họ làm việc. 55% hoàn toàn đánh đồng lợi ích
cá nhân của mình với lợi ích của các ông chủ. Chỉ có 19% không yêu công ty mà họ
phục vụ... Chỉ vì đối xử không thỏa đáng với nhân viên mà đại đa số các doanh
nghiệp bị mất vô ích tới hai phần ba thời gian làm việc của các nhân viên...

 Những hệ lụy khi đạo đức kinh doanh bị vấy bẩn .


Trong kinh doanh, khi lấy lợi nhuận là tiêu chí hàng đầu mà quên đi quyền lợi người
tiêu dùng, bản thân chính doanh nghiệp sẽ phải gánh chịu những hậu quả. Đầu tiên, đó
là sự tẩy chay và mất lòng tin của người tiêu dùng...
Scandal sữa bẩn ở Trung Quốc Đánh mất lòng tin
Đằng sau những con số về scandal sữa bẩn đang diễn ra tại Trung Quốc như ít nhất
bốn trẻ đã tử vong, hàng chục nghìn em bị ốm, hàng chục quốc gia trên thế giới thu
hồi sản phẩm "made in China"... người ta thấy rõ rằng, công nghiệp sữa Trung Quốc
sẽ phải mất nhiều thời gian và khó khăn để lấy lại lòng tin người tiêu dùng.
Khi vụ bê bối sữa nhiễm hóa chất melamine bị phát hiện ở Trung Quốc, ngay lập tức,
hàng nghìn cha mẹ Trung Quốc tất bật, chen chúc đưa con tới bệnh viện xét nghiệm,

- 38 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
kiểm tra sức khỏe. Họ không thể tìm nổi lời giải đáp cho câu hỏi "có thể cho con dùng
loại sữa an toàn nào?".
"Chúng tôi tin ai đây? Tôi không biết nữa? Một công ty lớn như vậy còn có vấn đề,
thì tôi thực sự không biết ai còn đáng tin", một phụ nữ họ Dương 31 tuổi đang chờ ở
phía ngoài văn phòng của hãng Tam Lộc, cho biết.
Tam Lộc là cái tên "tiêu điểm" trong vụ sữa bẩn. Công ty này từng luôn được coi là
chuẩn mực và được miễn các cuộc kiểm tra an toàn thực phẩm của Chính phủ từ
tháng 12/2005. Sản phẩm sữa dành cho trẻ dưới 7 tuổi của Tam Lộc được Tổng cục
Kiểm định Chất lượng Quốc gia Trung Quốc (AQSIQ), xác nhận là "sản phẩm được
miễn kiểm tra" trong 3 năm.
Điều này đồng nghĩa với việc "các sản phẩm sẽ được miễn trừ các cuộc kiểm tra chất
lượng và thanh tra do Chính phủ tiến hành", website của AQSIQ giải thích. Hiện nay,
có 47 công ty sữa ở Trung Quốc được miễn trừ kiểu trên.
Một phụ nữ họ Vương, có con trai một tuổi đã uống sữa Tam Lộc được hai tháng, thì
tỏ ra không còn tin tưởng gì. "Bây giờ, tôi chẳng biết cho con uống loại nào, tất cả đều
có vấn đề".
Một bà mẹ khác chờ bên ngoài phòng khám ở bệnh viện Nhi Bắc Kinh thì nói: “Tôi
lập tức quyết định đem con đi kiểm tra sức khoẻ. Tôi không thể tin vào bất kể loại sữa
bột nào ở Trung Quốc nữa. Tôi sẽ mua sữa nhập khẩu, dù có đắt hơn nhưng an toàn”.
Nói như vậy nhưng người mẹ này vẫn oà khóc, cô đã cho con mình dùng sản phẩm
của 1 trong số 22 công ty có sữa nhiễm hoá chất. “Tôi không bao giờ dùng lại loại sữa
ấy nữa”, cô khẳng định.
Ông Kỷ Thế Doanh - Ủy viên Chính hiệp Bắc Kinh, Hội trưởng Hiệp hội các nhà thực
nghiệm khoa học kỹ thuật dân doanh thành phố - nói, nền kinh tế thị trường Trung
Quốc hiện nay đang tồn tại nguy cơ thất tín vô cùng nghiêm trọng. Chính môi trường
mất tín nhiệm lẫn nhau như thế đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự quyền lợi người
tiêu dùng và đầu tư của công ty.
Biểu hiện trực tiếp nhất, đó là trong cuộc sống thường nhật của mình, người dân
Trung Quốc phải vô cùng thận trọng trong tất cả mọi lựa chọn. Khi mua đồ phải hết
sức cảnh giác, liệu đồng tiền này có phải tiền giả hay không, rồi lại phải lo lắng
chuyện cân điêu cân thiếu hay hàng nhái, hàng giả, hàng kém phẩm chất…
Không chỉ có Trung Quốc, Nhật Bản - với hình ảnh một quốc gia có những nhà máy
nổi tiếng về hệ thống vệ sinh hoàn hảo, đảm bảo chuẩn an toàn cao độ cũng bị xói
mòn vì những vụ bê bối an toàn thực phẩm.
Chính người dân Nhật Bản cũng đang hết sức lo ngại sau khi nhiều thông tin như "dán
nhầm mác sản phẩm", dùng nguyên liệu quá hạn làm sản phẩm mới, thay đổi hạn sử
dụng sản phẩm... liên tục được công bố trên báo chí hàng ngày.
- 39 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
"Tôi luôn cố gắng mua các sản phẩm sản xuất trong nước vì cho rằng nó an toàn,
nhưng bây giờ thì tôi chẳng thể tin vào bất cứ ai’’, Toshie Kano, 72 tuổi, một người
về hưu đi mua sắm ở siêu thị thuộc trung tâm Tokyo cho biết. "Các công ty không thể
phớt lờ những sản phẩm phục vụ nhu cầu ăn uống hàng ngày của chúng tôi. Thử hình
dung điều gì sẽ xảy ra khi chúng tôi cho con cái mình ăn những loại thực phẩm kém
chất lượng’’.
Theo các nhà phân tích, một cuộc chiến giá cả dai dẳng trong ngành công nghiệp thực
phẩm ở Nhật nhằm tìm kiếm lợi nhuận tối đa, đặc biệt đối với các công ty quy mô
nhỏ, đã khiến người tiêu dùng trở thành ’’nạn nhân’’.
Giới phân tích cũng e ngại rằng, những vụ bê bối sẽ ảnh hưởng tới hình ảnh thực
phẩm của Nhật Bản ở nước ngoài vào đúng thời điểm các công ty cố gắng mở rộng
quy mô ở phạm vi quốc tế nhằm bù đắp tổn thất về lợi nhuận ở trong nước.
"Đây là cú đánh mạnh vào các công ty thực phẩm mong muốn bắt đầu hoạt động ở thị
trường quốc tế hoặc tăng cường doanh thu ở nước ngoài’’, Hiroshi Saji, một nhà phân
tích công nghiệp tại Mizuho Securities, cho biết.
Vào năm 2000, Công ty sữa Snow xuất xưởng sản phẩm sữa ’’tái chế’’ khiến hơn
14.000 người bị ngộ độc, đây là vụ ngộ độc thực phẩm tồi tệ nhất ở Nhật Bản từ trước
tới nay. Sau vụ này, tất cả các siêu thị, trường học và gia đình Nhật từ chối sản phẩm
của Snow. Nhà kinh doanh bán lẻ cũng “tẩy chay” sản phẩm Snow, 10% sữa phân
phối trong các trường mẫu giáo, tiểu học cũng không còn chỗ đứng.
Hiroshi Saji, nhấn mạnh: "Những vụ việc này đã ảnh hưởng xấu tới thương hiệu Nhật
Bản’’.
 Nông dân khốn đốn.
Người nông dân Trung Quốc, vốn điêu đứng vì chi phí đầu vào tăng vọt, nay lại thêm
khốn khổ vì sữa bẩn.
Những người từng cung cấp sữa nguyên liệu sạch cho Tam Lộc sống ở một ngôi làng
của Thạch Gia Trang. Bây giờ, không ai còn muốn nguồn sữa ấy nữa, kể cả miễn phí,
không ai nói việc mua bán nữa. Và những gì làm đảo lộn cuộc sống của họ là bò sữa
cần được vắt sữa hàng ngày nếu không sẽ bị chứng viêm vú, rất nhiều sữa nguyên liệu
sạch bị đổ bỏ.
20 nông dân trong làng đã đem bò sữa đi bán, người khác cố giữ bò nhưng cũng trong
cảnh giữa dòng. Một bên là sự gắn bó với những con bò họ nuôi từ khi chúng còn
nhỏ, một bên là khoản chi phí lớn để chăn nuôi mà lại không hề có khoản thu về.
Kể từ khi có thông báo những trường hợp bệnh nhi tử vong vì sữa bẩn, người nông
dân như anh Bằng, đã quyết định bán bò sữa và tìm việc ở một nhà máy địa phương.

- 40 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
"Tôi đã thoát khỏi rắc rối, nhưng bây giờ, rất nhiều bạn bè tôi không thể kiếm nổi việc
làm". anh nói.
Trước scandal, anh Bằng bán mọi sản phẩm của nông trại mình cho Tam Lộc. Khi
Tam Lộc ngừng hoạt động, hàng trăm nông dân nhỏ từng cung cấp sữa cho công ty đã
không thể bán nổi sữa và bò trong thời điểm hiện tại. Bằng và một số người bạn tìm
tới internet để bán sữa nhưng chỉ tiêu thụ được rất ít. Anh không phải là người duy
nhất rời xa thị trường sữa.
Mặc dù Chính phủ Trung Quốc đã quyết định chi 300 triệu Nhân dân tệ hỗ trợ cho
nông dân nhỏ chăn nuôi bò sữa tồn tại, song rất nhiều người không còn muốn mạo
hiểm nữa. Hai vợ chồng anh Ngưu bắt đầu chăn nuôi bò sữa từ 10 năm trước đây,
công việc và thu nhập của họ tiến triển nhanh khi lợi nhuận của Tam Lộc tăng vọt bởi
nhiều người trung lưu ở Trung Quốc quyết định sử dụng nhiều sản phẩm sữa.
Vài tuần nay, tài sản của hai vợ chồng "đội nón’’ ra đi dần theo bê bối sữa bẩn. Mặc
dù nhận được trợ cấp của Chính phủ (10 Nhân dân tệ/con bò/ngày) nhưng họ vẫn
quyết định bán bò sữa, chuyển hướng chăn nuôi lợn và bò lấy thịt.
 Công nhân bất ổn.
Tam Lộc - nhà máy sản xuất sữa lớn nhất của Hà Bắc, Trung Quốc có khoảng 10.000
nhân viên. Sau khi xảy ra vụ bê bối sữa bẩn, những người lao động trong nhà máy rất
lo lắng về tương lai của mình. "Tôi không có ý kiến về những gì xảy ra", Thiên, nữ
công nhân khoảng 30 tuổi nói. Cô đã làm việc ở Tam Lộc 12 năm và đây cũng là công
việc đầu tiên của cô.
"Nếu công ty đóng cửa và tôi mất việc làm thì thế nào? Tôi không còn trẻ và cũng
không dễ dàng tìm ra công việc mới. Tôi con cha mẹ và con nhỏ", cô nói. Thiên ở trụ
sở Tam Lộc từ sáng tới tối, kể cả cuối tuần, để tham gia dán các thông báo, trả lời
những câu hỏi từ khách hàng.
Cạnh trụ sở Tam Lộc là khu dân cư với rất nhiều công nhân đang làm việc hoặc đã
nghỉ hưu của tập đoàn.
Trần Tú Kiều, người nghỉ hưu khỏi Tam Lộc cách đây 7 năm, đã sinh sống tại đây
nhiều năm cho biết. "Tôi làm cho Tam Lộc khoảng 30 năm nay, những năm qua, công
ty phát triển tốt và lương hưu của tôi cũng tăng theo. Tôi không bao giờ chờ đợi
chuyện này, làm sao có thể nghĩ một tập đoàn với lịch sử 50 năm lại gặp chuyện như
vậy?".
Còn một công nhân trẻ thì nói thêm: "Tất cả chỉ có thể là chờ đợi, nếu là tình hình
xấu, tôi mong sẽ có một giải pháp để công nhân nhanh chóng thích nghi và chuẩn bị".
Sau vụ bê bối sữa Snow (Nhật Bản), tập đoàn Snow đã phải cắt giảm số nhân viên từ
15.000 người năm 2000 xuống còn 4.591 người năm 2003.

- 41 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
 Tổn thất kinh tế.

Theo các nhà phân tích, vụ khủng hoảng sữa ở Trung Quốc gây tổn thất hàng tỉ USD
và nước này phải mất nhiều năm để lấy lại lòng tin vào sản phẩm. Chưa có ước tính
cụ thể và chính thức nào về con số tổn thất kinh tế với ngành công nghiệp sữa đại lục.
Doanh thu của các công ty có sản phẩm sữa nhiễm hóa chất giảm 60-70% trong tháng
trước. Tiêu thụ sữa trong cả năm nay thấp hơn năm ngoái 20%. Khoảng 3 triệu công
nhân, hầu hết làm việc trong các nhà máy sản xuất sữa quy mô nhỏ - chiếm 80% sản
xuất sữa ở Trung Quốc - bị ảnh hưởng.
Ở những khu vực chăn nuôi, cung cấp sữa nguyên liệu chính ở Trung Quốc, người ta
đã chứng kiến cảnh những "dòng sông trắng" chảy tràn trên mặt đất, bởi rất nhiều lít
sữa đã phải đổ đi khi không tiêu thụ nổi.
Giá cổ phiếu của ba công ty sữa hàng đầu Trung Quốc gồm Mông Ngưu, Yili và
Bright đều rơi tự do và hiện Chính phủ Trung Quốc chưa quyết định chính sách nào
để hỗ trợ cho họ.
Scandal sữa bẩn đã khiến hàng chục nước trên thế giới tuyên bố ngừng tiêu thụ hoặc
cấm bán các sản phẩm sữa hoặc có liên quan tới sữa xuất xứ từ Trung Quốc. Đặc biệt
vào ngày 26/9, Liên minh châu Âu (EU) - một thị trường nhập khẩu rất lớn của Trung
Quốc - đã quyết định quay lưng với hàng Trung Quốc, kể cả bánh kẹo và thực phẩm.
Theo thông báo của cơ quan y tế EU thì không những cấm nhập các sản phẩm sữa từ
Trung Quốc mà còn loại trừ luôn các sản phẩm dùng cho trẻ em có xuất xứ từ Trung
Quốc, kể cả bánh kẹo. Không những thế, EU còn tỏ ý sẽ hạn chế nhập hàng hoá thực
phẩm từ Trung Quốc, bất cứ là sản phẩm dành cho trẻ em hay người lớn.
Thậm chí, ngay cả ở thị trường dễ tính như các nước châu Phi cũng đã có lệnh cấm
nhập các sản phẩm sữa từ Trung Quốc. Cụ thể, các nước châu Phi là Burundi, Gabon
và Tanzania đã quyết định ngưng nhập tất cả mọi sản phẩm sữa có nguồn gốc xuất xứ
từ Trung Quốc do lo ngại các sản phẩm này mang lại nhiều nguy cơ cho sức khoẻ trẻ
em.
Trở lại bê bối sữa và vụ "dán nhầm xuất xứ" sản phẩm của Công ty Thực phẩm Snow
thuộc Tập đoàn sữa Snow. Tập đoàn này đã lỗ gần 71,4 tỷ yên (tương đương 541 triệu
USD) trong năm tài khóa 2001. Bản thân Công ty Thực phẩm Snow thì tuyên bố phá
sản vào ngày 30/4/2002 sau khi thiệt hại trên 25 tỷ yên và hoàn toàn bị đẩy ra khỏi thị
trường cung cấp thịt bò tại Nhật Bản. Giá cổ phiếu của Tập đoàn Snow đã tụt dốc
nghiêm trọng trên thị trường chứng khoán Tokyo - Osaka.
Cuối cùng, xin trích ra đây đoạn viết trong cuốn "Nguy cơ lớn” (xuất bản đầu năm
2007) của tác giả Thả Đông, Trung Quốc. Trong tác phẩm này, ông đã nhìn thẳng vào
một trong những nguy cơ lớn đang tồn tại và ảnh hưởng tới nền kinh tế thị trường

- 42 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
Trung Quốc: Một môi trường mà ở đó con người và các doanh nghiệp mất lòng tin lẫn
nhau.
Ông nói: "Niềm tin đã trở thành chứng minh thư thứ hai của cá nhân và công ty, nếu
một cá nhân đánh mất chữ Tín trong điều kiện kinh tế thị trường thì sẽ không ai muốn
hợp tác với anh ta nữa. Nếu một doanh nghiệp mất đi sự thành tín, nó cũng không thể
tiếp tục có chỗ đứng trên thị trường". 
Hay vấn đề nóng cách đây 2 năm :Phá hoại môi trường Công ty Vedan Việt
Nam sẽ bị xử lý mức cao nhất.
Cục Cảnh sát môi trường cho biết vừa phối hợp với đoàn kiểm tra thuộc Bộ Tài
nguyên - môi trường (TN&MT) bắt quả tang việc công ty Vedan Việt Nam (đóng tại
huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai) đấu nối hệ thống đường ống thoát nước để xả
nước thải chưa qua xử lý ra sông Thị Vải. Sau nhiều ngày theo dõi, chụp ảnh làm
bằng chứng, đoàn đã bất ngờ kiểm tra và nhanh chóng phát hiện hệ thống đường ống
nước thải từ các bồn, bể chứa dịch sau lên men có dung tích 6.000 -15.000m3 nối với
hệ thống thoát nước thải ra sông Thị Vải. Ngoài ra, hệ thống thoát nước thải từ nhà
máy tinh bột cũng được thiết kế ngụy trang để xả ra môi trường. Công ty Vedan VN
đã thừa nhận hành vi vi phạm này. Tổng lượng nước thải xả ra sông Thị Vải hơn
4.000m3/ngày. Theo đánh giá của Bộ TN&MT, sông Thị Vải đang rơi vào tình trạng
ô nhiễm nghiêm trọng bởi các loại rác thải và đáng lo hơn là các kim loại nặng. Đặc
biệt, đoạn sông đi qua công ty Vedan VN được đánh giá là khúc sông “chết”. Khi đề
cập đến vấn đề “Sai phạm của Công ty Vedan VN đã đủ yếu tố khởi tố hình sự và
đóng cửa nhà máy hay chưa?”, ông Hà chưa đưa ra câu trả lời cụ thể mà chỉ bày tỏ
quan điểm: “Sai thì xử phạt sao cho họ cải tiến chứ không phải xử để doanh nghiệp
đóng cửa”. Liệu đạo đức kinh doanh của công ty có còn hay không ?

Dấu hiệu tốt về đạo đức kinh doanh.

Ethisphere là Trung tâm nghiên cứu và phát triển ứng dụng về vấn đề quản lý, phát
triển xã hội và hoạt động kinh doanh có trụ sở tại Mỹ. Danh sách 99 công ty đúng quy
cách bao gồm các công ty đến từ 35 quốc gia trên thế giới, trong đó có Liên doanh
quốc tế Honeywell, liên doanh Nike, Patagonia, BMW, Liên doanh Johnson Controls,
HSBC Holdíng PLC.

Ông Alex Brigham – Giám đốc điều hành Ethisphere cho biết, các công ty được bình
chọn dựa trên so sánh trong nội bộ mỗi quốc gia bởi mỗi nền kinh tế lại có những đặc
điểm khác nhau.

Việc bình chọn dựa trên các yếu tố trọng tâm trong sự quản lý của doanh nghiệp và
môi trường làm việc, bao gồm cả sự đổi mới để gắn kết với cộng đồng, thương hiệu,
quan hệ lãnh đạo và hệ thống nội bộ...

- 43 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
Ông Brigham cho biết thêm, rất khó để đưa ra định nghĩa rõ ràng cho thuật ngữ “đúng
quy cách”. Tuy nhiên, những khía cạnh như các khoản nợ nần, thời gian nhàn rỗi
trong công việc hay nguồn cung cấp nguyên vật liệu không phải là tiêu chí của bình
chọn.

Hãng General Electric, eBay và Aflec là ba trong số những công ty "có đạo đức kinh
doanh nhất" thế giới – theo kết quả một cuộc khảo sát được công bố bởi nhóm chuyên
gia tăng tư duy (think tank*) Ethisphere Institute.
Nhóm này đã tiến hành đánh giá 3000 tổ chức tại 36 quốc gia và chỉ ra 110 tổ chức có
thể hiện đặc biệt tốt về: bổn phận công dân, trách nhiệm xã hội, việc điều hành, mức
độ cải tiến và khả năng lãnh đạo.
General Electric, Zappos, Best Buy, Cisco và UPS được ghi nhận là một vài trong số
những tổ chức dẫn đầu về mức độ tín nhiệm tại Hoa Kỳ
Nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm Aflac đã có được vị trí này trong vòng 5 năm qua, và
là một trong 26 thương hiệu lặp lại thành công với tiêu chí đánh giá gắt gao của nhóm
Ethisphere. Thương hiệu này đã áp dụng một phương pháp giải quyết vấn đề rất cởi
mở trong suốt giai đoạn khủng hoảng kinh tế, đó là tiết lộ thông tin chi tiết của các
trái phiếu đáng chú ý trên website để trấn an các nhà đầu tư.
Trong 36 cái tên mới của danh sách năm nay được công bố bởi nhóm Ethisphere có
bao gồm gã khổng lồ trong ngành công nghệ thông tin – hang Microsoft, và nhà sản
xuất hàng tiêu dùng Colgate – Palmolive.
Nhà tiên phong trong lĩnh vực đấu giá trực tuyến eBay còn là gương mặt mới hơn nữa
trong danh sách này, và giám đốc điều hành của công ty này đã lập luận rằng kết quả
này cho thấy cách mà những triết lý cốt lõi của họ được chuyển từ thế giới trực tuyến
sang thực tế. eBay được thành lập với niềm tin rằng những con người xa lạ có thể tin
tưởng và kết nối với nhau thông qua hệ thống thương mại mang tính chất toàn cầu
Hệ thống khách sạn quốc tế Marriott cũng được viện Ethisphere đánh giá cao, đã bảo
đảm rằng những nghĩa vụ được thương hiệu này thực hiện ở nước nhà sẽ được áp
dụng tại nước ngoài.
Giám đốc của mạng lưới khách sạn này – ông Bill Marriott đã trích ra một ví dụ về áp
lực của việc chi trả không chính thức tại rất nhiều quốc gia, ngay cả với những tiện
nghi cơ bản.
“Ở những nơi khác, có những khoản mà khách trọ phải chi cho sự tiện lợi. Chẳng hạn
một gã quản lý khách sạn sẽ nói ‘Nếu ngài muốn hành lý của mình được chuyển
xuống vào Thứ Sáu chính xác lúc 8h, thì cho chúng tôi xin một chút tiền boa’. Nhưng
tại khách sạn của chúng tôi, họ không làm điều đó. ”

- 44 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
“Ngay cả tại những quốc gia khác, tôi nghĩ nếu được hỏi mọi người cũng sẽ công
nhận sự thật là chúng tôi không làm những chuyện như thế.”
“Khi bạn chấp nhận một điều tốt về người khác, và rồi bạn phát hiện ra rằng người đó
không thực hiện được cam kết, thì niềm tin của bạn sẽ chóng biến mất. ”
Nhà cung cấp giải pháp lưu trữ dữ liệu Hitachi Data Systems cũng nằm trong danh
sách của Ethisphere, và đã có những bước đi nghiêm ngặt để đảm bảo hoạt động kinh
doanh của mình hoàn toàn trong sạch.
“Chúng tôi đã thiết lập một chương trình vững chắc với những tính năng ưu việt nhất
đã được chứng minh, trong đó bao gồm một chương trình chống tham nhũng trên
phạm vi toàn cầu, được phát triển cho các tổ chức của chúng tôi trên khắp thế giới. ” –
Ông Jack Domme, giám đốc điều hành của hang này phát biểu.
“Có được vị trí đặc biệt về đạo đức kinh doanh từ đánh giá của một tổ chức độc lập
bên ngoài, so với các công ty trong ngành, đã giúp chúng tôi tiến xa hơn trở thành
hãng đứng đầu ngành và là một môi trường làm việc đáng để được lựa chọn.”
Trên đây là những ví dụ điển hình về đạo đức kinh doanh trên toàn cầu , qua thực tiễn
chúng ta thấy thằng các doanh nghiệp cũng đang dần dần xây dựng chiến lược về đạo
đức kinh doanh , dung hòa giữa lợi nhuận và trách nhiệm xã hội

- 45 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

Phần III
Ý KIẾN CÁ NHÂN
Đạo đức kinh doanh vẫn còn là một vấn đề mới ở VN.Các vấn đề về đạo đức
kinh doanh, văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp …. Mới chỉ nổi lên khi VN
thực hiện chính sách đổi mới và tham gia vào quá trình quốc tế hóa và toàn cầu hóa .
Trước đó trong thời kinh tế kế hoạch tập trung những vấn đề này chưa bao giờ được
nhắc tới .trong thời kỳ bao cấp mọi hoạt động kinh doanh đều do nhà nước chỉ đạo , vì
thế những hành vi đạo đức được coi là tuân thủ pháp luật , lệnh câp trên .Do khan
hiếm hầu hết hàng hóa tiêu dùng , để mua được đã là rất khó nên không ai có thể phàn
nàn về chất lượng hàng hóa .Vì cầu vượt quá cung , chất lượng phục vụ trong mạng
lưới cung cấp vô cùng thấp nhưng ít người dám than phiền .Tuy nhiên từ khi tham gia
vào sân chơi quốc tế , khái niệm về đạo đức kinh doanh , văn hóa kinh doanh trở nên
phổ biến hơn trong xã hội Việt Nam .Dù được nghe về đạo đức kinh doanh ,nhưng
cách hiểu của người dân , các doanh nghiệp vẫn khá mơ hồ .Chính sự hiểu biết mơ hồ
này về đạo đức kinh doanh đã dẫn tới nhưng thiếu hụt trong thực thi của các doanh
nghiệp.
Sự tồn vong của doanh nghiệp không chỉ đến từ chất lượng của bản thân các
sản phẩm - dịch vụ cung ứng mà còn chủ yếu từ phong cách kinh doanh của doanh
nghiệp. Tóm gọn: Hành vi kinh doanh thể hiện tư cách của doanh nghiệp, và chính tư
cách ấy tác động trực tiếp đến thành bại của tổ chức! Đạo đức kinh doanh, trong
chiều hướng ấy, trở thành một nhân tố chiến lược trong việc phát triển doanh nghiệp.
Bổn phận kinh tế của doanh nghiệp là sản xuất và cung ứng hàng hóa - dịch vụ
để có được lợi nhuận cần thiết. Nhưng bổn phận ấy chỉ thật sự hoàn thành khi lợi
nhuận được phân bổ đúng đắn cho việc phát triển doanh nghiệp và phân phối đồng
thời cho tất cả các thành viên liên quan nhằm không chỉ góp phần trực tiếp vào việc
mở rộng sự tái tạo vĩ mô của các thành viên ấy mà còn gián tiếp vào sự tái sinh mở
- 46 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
rộng xã hội. Vì thế, bổn phận kinh tế phải đi liền với bổn phận luân lý của doanh
nghiệp, hiểu theo “nghĩa tối thiểu” là doanh nghiệp phải tuân thủ nền luân lý xã hội
được thiết chế trong những quy định pháp lý của Nhà nước. Theo “nghĩa tối đa”, bổn
phận trên chỉ được cáng đáng hoàn chỉnh khi doanh nghiệp không chỉ tôn trọng pháp
chế mà còn góp phần vào việc pháp điển hóa những quy tắc kinh doanh thuận lợi cho
việc phát triển môi trường sống của xã hội (nôm na là góp sức vào việc xây dựng một
“môi trường kinh tế rộng mở cho xã hội” chứ không phải là thủ thế độc quyền trục lợi
hay/và thừa cơ “luật hở thì lách”!). Bổn phận đạo đức của doanh nghiệp được minh
chứng thông qua những hành vi mang tính chất “tự nguyện”, nghĩa là những hoạt
động “vị nhân” không nằm trong khuôn khổ các đòi hỏi thuộc bổn phận kinh tế và
luân lý. Tính chất vừa nói cũng không nằm trong các “chương trình đóng góp từ thiện
của doanh nghiệp” - thực chất vốn chỉ là những “hành xử quan hệ công cộng/PR” -
mà khởi nguyên được thể hiện bởi sự ràng buộc giữa doanh nghiệp với chính lương
tâm của nó trong việc thực hiện các hoạt động kinh doanh đối với tất cả mọi đối tác.
Thí dụ: dựa vào sự bất đối xứng thông tin trong một cơ chế kinh tế tập quyền nhằm
huyễn hoặc người tiêu dùng thì doanh nghiệp có thể không vi phạm luân lý xã hội - vì
pháp chế không ngăn cấm - nhưng lại là một hành vi vô đạo đức trong kinh doanh vì
mang tính chất “phỉ báng lương tâm nghề nghiệp”!
Nghiên cứu về đạo đức là một truyền thống lâu đời trong xã hội loài người, bắt
nguồn từ những niềm tin về tôn giáo, văn hóa và tư tưởng triết học. Đạo đức liên quan
tới những cam kết về luân lý, trách nhiệm và công bằng xã hội
Đạo đức kinh doanh là tất cả những quy tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức hoặc luật
lệ để cung cấp chỉ dẫn về hành vi ứng xử chuẩn mực và sự trung thực (của một tổ
chức) trong những trường hợp nhất định.
Thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
Đạo đức kinh doanh là một vấn đề mới ở Việt Nam. Các vấn đề như đạo đức kinh
doanh, văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp… mới chỉ nổi lên kể từ khi Việt
Nam thực hiện chính sách Đổi mới và tham gia vào quá trình quốc tế hóa và tòan cầu
hóa vào năm 1991
Tuy nhiên, kể từ khi Việt Nam tham gia quốc tế hóa, có nhiều phạm trù mới được
xuất hiện như: quyền sở hữu trí tuệ, an toàn thực phẩm, đình công, thị trường chứng
khoán… và vì thế khái niệm đạo đức kinh doanh trở nên phổ biến hơn trong xã hội
.Nhận thức của người Việt Nam về đạo đức kinh doanh,mặc dù thường được nghe về
đạo đức kinh doanh nhưng cách hiểu của người dân, của các doanh nghiệp về vấn đề
này còn khá mơ hồ. Thực trạng đó đã được thể hiện khá rõ qua kết quả của cuộc điều
tra. 40/60 số người được hỏi thường xuyên nghe nhắc đến những vấn đề liên quan đến
đạo đức kinh doanh, 20/60 đôi khi nghe nhắc đến vấn đề này. Lưu ý là cuộc điều tra
này được tiến hành ở Hà Nội, thủ đô và là thành phố lớn thứ hai của Việt Nam, nên
con số này chưa phải là cao. Nhưng khi được hỏi về quan niệm, thế nào là đạo đức
kinh doanh, 55/60 số người được hỏi cho “Đạo đức kinh doanh là tuân thủ đúng pháp
- 47 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
luật”, chỉ có 5/60 người được hỏi cho “Đạo đức kinh doanh là bảo vệ quyền lợi cho
khách hàng” và không ai cho đạo đức kinh doanh phải bao gồm cả hai khái niệm trên!
Chính sự hiểu biết mơ hồ này về đao đức kinh doanh đã dẫn đến những thiếu hụt
trong thực thi của doanh nghiệp .Trách nhiệm của doanh ngiệp với xã hội.Để tìm hiểu
vấn đề này, chúng tôi tập trung vào 3 khía cạnh, trách nhiệm của doanh nghiệp với
chất lượng hàng hóa và vấn đề bảo vệ môi trường.
Câu hỏi thứ nhất về vấn đề này được đặt ra là: “Doanh nghiệp sẽ làm gì khi nhận
được thông tin là có một số hàng hóa của mình bị kẻ xấu tráo đổi với những hàng kém
chất lượng, mà bằng hình thức bên ngoài không có khả năng phân biệt được, có thể
gây tác hại cho người tiêu dùng?”.
Câu hỏi thứ ba là: “Chữ tín có mâu thuẫn với lợi nhuận?”
Con người Việt Nam thường có câu ngạn ngữ: “Bán buôn gìn giữ ngay lòng,
chớ cho ai lận chớ hòng lận ai, hãy mãi mãi thuận nhân tình” nghĩa là buôn bán phải
phù hợp với tình người, với đạo làm người. Và đừng để vì lợi nhuận mà làm mất chứ
“ Tín”, làm mất lòng tin khách hàng.
Vấn đề về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.Có thể nói đây là vấn đề nóng, không chỉ ở Việt
Nam mà còn ở hầu hết các nước đang phát triển khác. Tình trạng vi phạm SHTT tràn
lan ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân. Trước hết, cho đến đầu thế kỷ XX Việt Nam là
nước nông nghiệp lạc hậu, những thành tựu về các sản phẩm cần bảo hộ như kiểu
dáng công nghiệp, phát minh,… hầu như chưa có, nên không có các quy định về bảo
hộ SHTT. Hơn nữa, là nước có nền văn hóa trọng tập thể, người Việt Nam không có
truyền thống bảo hộ sở hữu cá nhân.
Vấn đề này chỉ được thật sự đặt ra sau năm 1991, khi Việt Nam tham gia vào tiến
trình hội nhập và nhất là sau năm 1997.
Quan hệ giữa chủ doanh ngiệp và người lao động
Thời gian qua, đình công đang là một vấn đề nóng ở Việt Nam
Các nguyên nhân chính dẫn đến đình công bao gồm:
- Người lao động không hài lòng với điều kiện làm việc, môi trường ô nhiễm,
công cụ lao động không được thẩm tra, an toàn lao động kém, không có kiểm tra sức
khỏe định kỳ cho nhân công và tình trạng tai nạn nghề nghiệp khá phổ biến.
- Để thu hút đầu tư nước ngoài, Luật Đầu tư Việt Nam đưa ra mức lương tối thiểu rất
thấp (chỉ có 35USD/tháng trong Luật ĐTNN 1997) nên mặc dù không làm trái luật
pháp nhưng mức lương các doanh nghiệp trả cho lao động vẫn rất thấp so với mặt
bằng giá cả. Vì thế, người lao động không hài lòng và không trung thành với doanh
nghiệp.

- 48 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
- Xuất thân từ nông dân, hầu hết người lao động thiếu kiến thức về Luật Lao
động và thiếu kỹ năng làm việc trong môi trường công nghiệp nên nanwg suất lao
động thấp và có những phản ứng trái pháp luật khi có xung đột.
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
* Đánh giá về thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam.Hiểu biết của nhà
kinh doanh cũng như người dân Việt Nam nói chung về đạo đức kinh doanh còn rất
hạn chế, hầu hết đều gắn khái niệm đạo đức kinh doanh với tuân thủ pháp luật trong
kinh doanh.

Ý thức của người dân về những phạm trù như: Trách nhiệm của doanh nghiệp
với xã hội, Quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động, Nghĩa vụ và
trách nhiệm về măt đạo đức của doanh nghiệp với các nhà đầu tư còn khá mơ hồ, lệ
thuộc vào luật pháp chứ chưa ý thức được trách nhiệm của nhà kinh doanh với khách
hàng và xã hội.Tuy nhiên, cuộc điều tra cũng cho thấy một số tín hiệu đáng mừng về
tương lai của đạo đức kinh doanh ở Việt Nam.
Một số đề xuất nhằm phát triển và hoàn thiện đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
.Một số đề xuất nhằm phát triển và hoàn thiện đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
Cần có những biện pháp khuyến khích doanh nghiệp nâng cao đạo đức kinh doanh
của mình.Các cơ quan hữu quan cần có những biện pháp để khuyến khích doanh
nghiệp có thành tích trong đạo đức kinh doanh như trong các giải Sao Vàng Đất Việt,
Bông Hồng Vàng… có thể đưa việc có thành tích trong đạo đức kinh doanh là một
tiêu chuẩn để xét. Các cơ quan thông tin đại chúng có thể đăng bài tôn vinh những
doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn này.Ngược lại, các cơ quan quản lý cũng cần có biện
pháp phạt những doanh nghiệp vi phạm đạo đức kinh doanh với mức phạt tương
xứng.

- 49 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

KẾT LUẬN
Những vấn đề được đưa ra ở trên giúp chúng ta hiểu được rõ hơn về đạo đức
kinh doanh .có thể nói đạo đức kinh doanh là cần thiết , đạo đức kinh doanh là một
vấn đề nhức nhối và phức tạp cần nhiều thời gian và công sức để hoàn thiện.ngoài
những biện pháp tuyên truyền giáo dục cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức hiểu
về đạo đức kinh doanh thì cũng cần phải có những biện pháp khuyến khích các doanh
nghiệp nâng cao đạo đức kinh doanh của mình.Chúng ta cần ý thức rằng không có
ranh giới cố định nào cho đạo đức , rất khó kiểm soát đạo đức vì nó vượt xa hơn việc
tuân thủ luật pháp rất nhiều .
Xác lập được đạo kinh doanh sẽ là bước đầu tiên để chúng ta xây dựng một
văn hoá kinh doanh. cái khó của giới doanh nghiệp là tìm ra giải pháp để có thể cân
bằng giữa việc tối đa hoá lợi nhuận và việc bảo đảm các nghĩa vụ về đạo đức, đóng
góp cho xã hội, tuân thủ các quy định về môi trường xã hội, tuân thủ các chuẩn mực
về bảo vệ môi trường, cải thiện điều kiện làm việc cho nhân viên hay thực hiện các
biện pháp phòng tránh những biểu hiện lừa dối khách hàng.
Đạo đức kinh doanh góp phần vào sự vững mạnh của nền KTQD. Các nước
phát triển ngày càng trở nên giàu có hơn vì có một hệ thống các thể chế, bao gồm đạo
đức kinh doanh, để khuyến khích năng suất. Trong khi đó, tại các nước đang phát
triển, cơ hội phát triển kinh tế và xã hội bị hạn chế bởi độc quyền, tham nhũng, hạn
chế tiến bộ cá nhân cũng như phúc lợi xã hội. Tiến hành kinh doanh theo một cách có
đạo đức và có trách nhiệm tạo ra niềm tin và dẫn tới các mối quan hệ giúp tăng cường
năng suất và đổi mới.
Tóm lại, chúng ta có thể thấy vai trò quan trọng của đạo đức kinh doanh đối
với các cá nhân, đối với doanh nghiệp và đối với xã hội và sự vững mạnh của nền
kinh tế quốc gia nói chung. Các cổ đông muốn đầu tư vào các doanh nghiệp có
chương trình đạo đức hiệu quả, quan tâm đến xã hội và có danh tiếng tốt. Các nhân

- 50 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__
viên thích làm việc trong một công ty để họ có thể tin tưởng được và khách hàng đánh
giá cao về tính liêm chính trong các mối quan hệ kinh doanh.
Môi trường đạo đức của tổ chức vững mạnh sẽ đem lại niềm tin cho khách
hàng và nhân viên, sự tận tâm của nhân viên và sự hài lòng của khách hàng, mang lại
lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tư cách công dân của doanh nghiệp cũng có mối quan
hệ tích cực với lợi nhuận mang lại của các khoản đầu tư, tài sản và tăng doanh thu của
doanh nghiệp. Đạo đức còn đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển và thịnh vượng
của một quốc gia. Đạo đức kinh doanh nên được tập thể quan tâm trong khi lập kế
hoạch chiến lược như các lĩnh vực kinh doanh khác, như sản xuất, tài chính, đào tạo
nhân viên, và các mối quan hệ với khách hàng

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................................1
Phần I.........................................................................................................................................2
CÁC KHÁI NIỆM , ĐẠO ĐỨC KINH DOANH VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH ĐẠO ĐỨC
KINH DOANH..........................................................................................................................2
I-Các nguyên tắc và chuẩn mực của đạo đức kinh doanh......................................................2
II- Đạo đức cần cho thương hiệu...........................................................................................6
Đưa đạo đức vào trong kinh doanh như thế nào ?.....................................................................7
Quan điểm và sự gương mẫu của lãnh đạo........................................................................7
Xây dựng bộ quy tắc đạo đức thống nhất .........................................................................7
Các chương trình Huấn luyện về đạo đức..........................................................................8
Xây dựng các kênh thông tin.............................................................................................9
....................................................................................................9
..........................................................................................................................9
Phần II .........................................................................................................10
THỰC TIỄN VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC KINH DOANH...............................................................10
I-Giá trị thương hiệu và đạo đức kinh doanh.......................................................................10
II-Vấn đề về lợi nhuận và đạo đức kinh doanh....................................................................10
III-Lợi nhuận là trên hết.......................................................................................................15
V-Một Số ví dụ thực tiễn về đạo đức kinh doanh :..............................................................28
Dấu hiệu tốt về đạo đức kinh doanh....................................................................................43
KẾT LUẬN..............................................................................................................................50

- 51 -
Nhóm 1 _Đề Tài _
_____________________________ Văn Hóa Đạo Đức Kinh Doanh Toàn Cầu__

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Văn hóa kinh doanh-Dương Thị Liễu


Văn hóa doanh nghiệp-Đỗ Thị Phi Hoài
Các trang web :
+www.doanhnhan.net
+www.365ngay.com
+www.VHDN.vn
Đề cương môn học “văn hóa và đạo đức kinh doanh “ Trương ĐH mở TP.HCM
Đạo đức kinh doanh ở VN –thực tại và giải pháp –TS.Nguyễn Hoàng Ánh –ĐH
ngoại thương HN

- 52 -

You might also like