Professional Documents
Culture Documents
DÂN CHỦ I
Tháng Mười Hai 2010
HÀ SĨ PHU....................................... 63
Dắt Tay Nhau Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí tuệ.63
NGUYỄN HỘ ..................................250
Quan Điểm và Cuộc Sống Mấy lời của tác giả .............................250
Quan điểm và cuộc sống Định Hướng Chiến Lược......................258
___________________
(*) Họp Mặt Dân Chủ tập họp những người Việt trên toàn thế giới
hoạt ñộng trong nhiều tổ chức và lãnh vực khác nhau --văn hóa, giáo
dục, truyền thông, xã hội, chính trị v.v…-- nhằm cùng mục tiêu thúc
ñẩy tiến trình chuyển hóa dân chủ tại Việt Nam. HMDC tổ chức Tĩnh
Hội thường niên tại một ñịa ñiểm tĩnh mịch ñể những người Việt quan
tâm ñến tình hình Việt Nam từ khắp nơi trên thế giới có cơ hội gặp
gỡ, trao ñổi hiểu biết, kỹ năng và kinh nghiệm hoạt ñộng, trong tình
thân ái, cởi mở giữa những con người tự do. Tĩnh hội HMDC ñầu tiên
ñược tổ chức tại Moehnsee, Đức quốc, năm 2002. Những tĩnh hội sau
ñó ñã lần lượt ñược tổ chức tại Normandie, Pháp (2003),
Emmitsburg, MD, Hoa Kỳ (2004), Running Springs, CA, Hoa Kỳ
(2005), Emmitsburg, MD, Hoa Kỳ (2006), Warsaw, Ba Lan (2007),
Paris, Pháp (2008), San Jose, Hoa Kỳ (2009) và Hanover, Đức
(2010).
Mọi liên lạc với Ban chủ biên TTDC I xin email về
dv2010@gmail.com.
Sách ñã in:
- Chính sách Việt nam của Hoa kì từ học thuyết
Johnson tới chủ thuyết Nixon-Kissinger Hay sự thay ñổi
chính sách ngoại giao của Mĩ (Luận án Tiến sĩ, tiếng Đức,
1978)
- Tình hình chính trị tồn Việt Nam từ 1975-1982: Ước
vọng và thực tế! (tiếng Đức, 1975)
Từ trước tới nay, chủ trương và chính sách của nhà cầm quyền Cộng sản
Việt Nam đàn áp tôn giáo và những người tranh đấu cho nhân quyền và tự
do, dân chủ ở trong nước đã làm cho Việt Nam mất uy tín và gặp nhiều
khó khăn trên chính trường quốc tế, đặc biệt là đối với Hoa kỳ và các nước
thuộc Liên bang Âu châu. Nếu tạm đặt sang một bên thực tế này để có một
nhận định chung, nhìn vào một số diễn biến về quan hệ đối ngoại của Việt
Nam thì một cách khách quan ai cũng nhìn nhận là chính phủ Hà nội thời
gian gần đây đã có được một số điều kiện thuận lợi trên con đường hội
nhập với thế giới bên ngoài. Trước hết, là nhờ vào sự tiếp tay của Hoa kỳ ở
vào một thời điểm Hoa kỳ đang có thái độ dễ dãi đối với Hà nội, Việt Nam
đã được nhận vào Tổ chức Mậu dịch Thế giới (WTO) ngay đầu năm 2007.
Rồi đến ngày 16 tháng 10 mới đây, nhờ vào hoàn cảnh thuận lợi tại Liên
hiệp quốc, tổ chức quốc tế này năm nay cần bầu lại một số thành viên
không thường trực tại Hội đồng Bảo an và theo nguyên tắc luân phiên dành
cho khu vực Á châu một ghế, Việt Nam đã được bầu làm thành viên không
thường trực của Hội đồng.
Những diễn biến trên đây, dầu là do công cuộc vận động của nhà cầm
quyền đương thời ở VN hay do hoàn cảnh thuận lợi của thế giới bên ngoài
đưa lại, thì cũng là những bước tiến của Việt Nam trên đường hội nhập vào
cộng đồng quốc tế.
Ở vào thời đại toàn cầu hóa ngày nay, tư thế độc lập của một nước chỉ
còn là tương đối và thế liên lập đã trở thành quy luật chung, do đó mà “hội
nhập” phải được coi như điều kiện tất yếu cho tiến trình phát triển của bất
kỳ nước nào. Việt Nam, một nước nhỏ còn đang trong tình trạng “kém
Việc hội nhập quốc tế là một sự kiện sâu sắc nhất của đảng CS VN cũng
như của nước VN ta trong lịch sử hiện đại.
Sự hội nhập được đặt ra sau khi phe xã hội chủ nghĩa tan vỡ rồi tan
rã, từ khi bức tường Berlin sụp đổ cuối năm 1989, các nước XHCN Đông
Âu biến mất.
Sự hội nhập quốc tế được đánh dấu bằng việc nước Việt nam trở
thành thành viên của Liên Hợp Quốc từ tháng 9-1977, ký văn bản Công
ước Quốc tế về Nhân quyền (1948) vào năm 1982. Cuộc hội nhập được
thúc đẩy mạnh sau khi đảng CS Liên xô và Liên bang Xô viết tan rã tháng
8 năm 1991; VN bình thường hóa quan hệ với Trung quốc tháng 11-1991;
bình thường hóa quan hệ với Hoa kỳ tháng 7-1995 và ký hiệp định thương
mại Việt - Mỹ BTA tháng 7-2000. Có thể nói việc hội nhập quốc tế của
VN được coi là sâu sắc, hoàn thiện sau khi gia nhập Tổ chức thương mại
quốc tế WTO vào cuối năm 2006.
Cuộc hội nhập vào cộng đồng quốc tế đặt ra cho đảng CS VN những
đòi hỏi to lớn, mới mẻ, những trách nhiệm và nghĩa vụ trọng yếu đối với
nhân dân cũng như đối với cộng đồng quốc tế. Cho đến nay, đảng CS đã
đáp ứng những yêu cầu ấy ra sao?
Những yêu cầu quan trọng nhất đối với chính quyền CSVN sau khi
hòa nhập là gì? Đó là:
- thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, kể cả các cam kết đối với
nhân dân Việt Nam mình, không có thể tránh né sau bức màn chủ quyền
quốc gia, như họ thường viện ra trước đó;
- các nước là bình đẳng, đều bị ràng buộc như nhau, dù to, nhỏ, chế
HMDC2007
Balan tháng 6-2007
Bùi Tín
Paris tháng 3-2004
Vừa qua, từ Hà Nội, nhà báo Aude Genet giám đốc Thông
tấn xã Pháp AFP ở Việt Nam đã phỏng vấn qua ghi âm nhà
báo tự do Bùi Tín ở Paris. Dưới đây là tóm tắt nội dung
cuộc phỏng vấn, được chuyển ngữ từ tiếng Pháp.
A. Genet: Chào ông Bùi Tín. Nhà cầm quyền trong nước đang có
những cuộc họp kỷ niệm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày
3-2), xin ông cho biết vài cảm tưởng.
Bùi Tín:Chào cô. Tôi cũng biết ở Hà Nội có những cuộc họp kỷ
niệm, một cuộc hội thảo, và xuất bản sách về 80 năm đảng CSVN, hồi đầu
mang tên đảng Cộng sản Đông Dương. Những diễn văn dài, nặng về công
thức, nặng tính giáo điều, về chủ nghĩa Mác - Lênin, về giai cấp vô sản, về
chủ nghĩa xã hội, về quá độ từ chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới..., nhưng tôi tin rằng những người viết ra,
đọc lên và cả những người ngồi nghe, không có ai còn tin ở điều mình viết,
đọc và nghe. Họ đang là những nhà tư sản, tư bản mới, có nhà đất, có cổ
phần, chứng khoán, khá nhiều còn hùn hạp với các triệu phú, tỷ phú quốc
tế. Họ chỉ giữ lại của lý luận cộng sản cái phần xấu nhất là nền chuyên
chính độc đảng để bảo vệ tài sản riêng bất chính.
A. Genet:Theo ông vai trò và vị trí của Đảng CSVN trong lịch sử
Việt Nam là gì?
Bùi Tín:Đảng CSVN có vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh dành độc
lập, lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đã thực
hiện thống nhất đất nước, nhưng mặt khác - mặt này ít được chú ý vì bị họ
che dấu kỹ - là đã buộc nhân dân phải trả bằng cái giá quá cao bằng sinh
mạng, hàng triệu người chết (phần lớn là thanh niên cường tráng tuổi hoa
niên), và hàng vạn đồng bào người Việt yêu nước trong các đảng phái
chính trị khác bị họ thủ tiêu.
Ông thường phê phán ñường lối Đảng CSVN, ñối sách
quì gối với Trung quốc, tệ nạn xã hội và tham nhũng, kêu
gọi chính quyền có chính sách hòa thuận dân tộc và dân chủ
hóa Việt nam.
Tác phẩm viết sau khi ra nước ngoài:
Hoa xuyên tuyết, Mặt thật.
From Enemy To Friend: A North Vietnamese
Perspective on the War, US Naval Institute Press (May 17,
2002)
Following Ho Chi Minh: The Memoirs of a North
Vietnamese Colonel, University of Hawaii Press (January
1999)
1
Nguồn:http://www1.voanews.com/vietnamese/blogs/tin/ngay-lap-dang-cs-
02012010-83276422.html
Trong mấy năm qua, hàng trăm ngàn người đã đình công ở Việt Nam, do
đó có lẽ nhiều độc giả của BNS Tự Do Ngôn Luận đã tự hỏi: “Ba Lan có
sẽ xảy ra tại VN không?” , hoặc: “Khi nào Ba Lan sẽ xảy ra tại Việt
Nam?”
Dưới dạng “Có sẽ.. không”, hoặc “Khi nào sẽ..” này, thì các câu hỏi
thuộc dạng tiên đoán. Vì chúng ta không phải là nhà tiên tri nên, để tìm câu
trả lời, ta hãy thử đặt lại câu hỏi dưới dạng phân tích, sau đây:
VỀ UBBV
Những cách thực tiễn như trên, cùng một số cách khác, và nhiều tin tức,
bài vở (thí dụ, loạt bài về quyền của người lao động theo luật LĐ quốc tế,
Tôi là Phương Nam - Đỗ Nam Hải, đang phát biểu từ thành phố Sài Gòn -
Việt Nam.
Trước hết, cho phép tôi được bày tỏ sự biết ơn chân thành đối với
Ban tổ chức đã cho tôi cơ hội được phát biểu hôm nay, trên diễn đàn này.
Qua Ban tổ chức, tôi được biết cuộc gặp mặt dân chủ lần này sẽ diễn ra
trong 3 ngày, từ 9 đến 11/6/2006, tại bang Maryland của Mỹ. Cuộc gặp
mặt sẽ quy tụ các đại biểu đến từ các nước Anh, Đức, Pháp, Ba Lan, Tiệp,
Úc, Canađa và nhiều bang trên khắp nước Mỹ.
Những nội dung chính của nó là: nhận định tình hình xã hội và tình
hình phong trào đấu tranh giành tự do, dân chủ ở trong nước; đánh giá
những kinh nghiệm, những phương thức và những mô hình tập hợp các lực
lượng dân chủ trong – ngoài nước. Từ đó sẽ tạo cơ sở tốt cho việc đề xuất
xây dựng một lực lượng dân chủ Việt Nam thống nhất. Tôi hoàn toàn ủng
hộ những nội dung trên và xin kính chúc các quý vị đại biểu luôn mạnh
khỏe. Kính chúc cuộc gặp mặt dân chủ - 2006 thành công tốt đẹp!
Cuộc đấu tranh giành tự do, dân chủ cho Việt Nam trong năm 2006
đã có những bước phát triển mới rất tích cực, cả về lượng và chất. Đây là
cuộc đấu tranh giành lại những quyền chính đáng của con người, mà dân
tộc ta đã bị các thế lực bảo thủ, nắm thực quyền trong Đảng cộng sản Việt
Nam ngang nhiên tước đoạt trong suốt 61 năm qua, từ 1945 đến nay. Đây
là cuộc đấu tranh của cái thiện chống lại cái ác, cái chính nghĩa chống lại
cái phi nghĩa, cái tiến bộ chống lại cái lạc hậu, … và khi cuộc đấu tranh ấy
càng phát triển mạnh mẽ thì dĩ nhiên sự đàn áp của chính quyền sẽ lại càng
gia tăng.
Nhưng theo tôi, tình hình nay đã khác trước theo hướng ngày càng
(Tháng 6/2006)
Phương Nam là bút hiệu của Đỗ Nam Hải
cho những bài viết về dân chủ, trưng cầu
dân ý, v.v. trong thời gian du học ở Úc từ
1994.
Sau khi trở lại Việt nam, ông vẫn tiếp
tục viết và bắt ñầu tiếp xúc với những nhà
hoạt ñộng dân chủ trong nước. Vì vậy, ông
bị công an tạm giữ vào tháng 8 năm 2004.
Đỗ Nam Hải
Ông là một trong những sáng lập viên của Nhóm 8406.
Cũng như những nhà bất ñồng chính kiến và hoạt ñộng
dân chủ, nhân quyền ở Việt nam, cuộc sống cá nhân, và cả gia
ñình, ông thường xuyên bị công an sách nhiễu, áp lực, và ñe
dọa.
Mấy lời phi lộ: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”.
Nhớ lời dạy ấy của cha ông, tôi bỗng quên đi sự quá hạn
hẹp về hiểu biết của mình mà cả gan lạm bàn chuyện ‘quốc
gia đại sự’. Nhưng biết đâu nỗi bức xúc này lại chẳng là
chung của nhiều người.
Xin được tiếp cận vấn đề từ góc nhìn qua những quy
luật khoa học, trước hết là khoa học tự nhiên. Bài viết chỉ
có tính chất gợi mở, cung cấp một số nhận thức cơ bản để
suy nghĩ, chưa giải quyết vấn đề gì cụ thể, trọn vẹn. Nếu từ
bài viết có thể lọc ra một chút gì đó gọi được là cái ‘hạt
nhân hợp lý’ thì đối với người viết đã là điều may mắn lắm
rồi, nên xin miễn phi lộ dài dòng về những sai sót khó
tránh khỏi.Tuy vậy người viết không thể giấu niềm hy vọng
được người đọc quan tâm hưởng ứng mà chỉ bảo thêm, và
cá nhân người viết xin nhận trách nhiệm trước mọi sự phán
xét.
Những điều này nói ra hôm nay đã là quá muộn.
Tú Xuân HÀ SĨ PHU
Ngày 2 tháng 9 năm 1988
1
Khái niệm ‘Duy lý’ ở đây không hoàn toàn trùng với khái niệm Duy lý của
Descartes. Những chữ ‘Duy lý’, ‘Duy tín’, ‘Duy lợi’ là những thuật ngữ riêng
của tác giả.
2
Xem 1
3
Xem 1
(8) Mở cửa về
kinh tế,
(7) Phản ứng đối phó với thực tiễn
nhưng đổi
CHIẾM HỮU QUYỀN LỰC, NÓI DỐI, NGỤY TRANG
mới giả, dân
chủ giả về
chính trị, tư
tưởng
THỰC TẾ XÃ HỘI
Con đường
TẬP DUY LỢI CỰC ĐOAN
TRUNG (Mâu thuẫn với duy lý)
PHƯƠNG TIỆN
(Công cụ)
(2) ĐẤU TRANH GIAI CẤP CỰC ĐOAN
Nguồn: www.hasiphu.com/ll1.html
Ông nổi tiếng với các tiểu luận Dắt tay nhau ñi dưới
tấm biển chỉ ñường của trí tuệ (1988), Ðôi ñiều suy nghĩ
của một công dân (1993), Chia tay ý thức hệ (1995).
Những bài viết này ñã làm ông thất nghiệp và ñưa ñến
nhiều trù dập cá nhân từ phía chính quyền.
Năm 1995, khi bài viết Chia tay ý thức hệ ñược truyền
ñọc trong và ngoài nước, ông bị bắt giam một năm với tội
"có hành vi tiết lộ bí mật nhà nước".
Những bài viết của ông ñược tập trung ở mạng
hasiphu.com do một số thân hữu quản trị.
Đạo Phật ra đời để cứu khổ cho muôn loài. Đây là bước tiến vĩ đại trong tư
tưởng cũng như trong hành động tại xã hội Ần độ nói riêng, và cho loài
người nói chung, cách đây 2544 năm. Giải phóng con người khỏi vô minh,
khỏi sự sợ hãi và nô lệ thần linh hay các luồng ý thức hệ cuồng tín, giải
phóng con người khỏi sự hà khắc và bất công của mọi hệ thống xã hội.
Vào thời đức Phật tại thế, giáo lý đạo Phật đánh đổ mọi học phái thần
quyền, mọi chủ nghĩa hư vô, duy vật, hoài nghi, định mệnh, đưa Con
Người vào vị thế trung tâm giữa trời đất để giải thoát tự thân và giải phóng
tha nhân. Không hề có những yếu tố phi xã hội trong giáo lý đạo Phật, vì
thế người Phật tử luôn tôn trọng và đương đầu bảo vệ con người, chống lại
những bất công hay bất bình đẳng xã hội, vốn là nguyên nhân chà đạp
quyền sống của lương dân, ngăn cản hạnh nguyện tu học để tiến thủ, ngăn
cản sự thực hành Từ, Bi, Trí, Lực, theo chí nguyện Bồ tát cứu đời, ngăn
cản sự hiện thực Giác ngộ.
Từ nguyên tắc chỉ đạo cứu khổ ấy, Đạo Phật Việt Nam phát triển
thêm nhiều nhân tố tích cực trong cuộc dấn thân bảo vệ nhân dân và đất
nước. Lịch sử Phật giáo Việt, lồng trong lịch sử dân tộc trên hai nghìn năm
qua, đã bao lần minh chứng rằng Hộ Dân, Hộ Quốc và Hộ Pháp hòa quyện
trong nhau làm kim chỉ nam cho nếp sống và hành động của người Phật tử
Việt Nam. Một trong những bộ kinh của Phật giáo do vị Cao tăng Việt
Nam Khương Tăng Hội phiên dịch rất sớm, là Lục độ tập kinh, xuất hiện
vào thế kỷ II Tây lịch, có những câu viết thể hiện tinh thần này: “Bồ tát
thấy dân kêu ca, do vậy gạt lệ xông vào nơi chính trị hà khắc để cứu dân
khỏi nạn lầm than”. Đối với những chính quyền hà khắc, áp bức dân, thì
Lục độ tập kinh cảnh báo: “Loài lang sói không thể nuôi, người ác không
thể làm vua”. Mâu Tử, tác giả sách Lý hoặc luận, hoàn thành tại Giao châu
cuối thế kỷ II Tây lịch, đề cao đạo Phật Việt, chống lại các luồng văn hóa
Hiện nay ông ñang bị quản thúc tại Thanh Minh Thiền
Viện ở Sài gòn.
BẢN TUYÊN BỐ
Khôi phục Sinh hoạt
Đảng Dân chủ Việt nam
Kính thưa quốc dân đồng bào trong nước và hải ngoại,
Kính thưa nhân loại tự do dân chủ toàn cầu,
Tôi là Hoàng Minh Chính, công dân nước Việt Nam, cựu Tổng Thư
ký Đảng Dân Chủ Việt Nam, xin được kính báo sự kiện trọng đại của đất
nước.
Nước Việt Nam từng có bốn ngàn năm văn hiến rạng rỡ. Dân tộc Việt
Nam luôn sống đoàn kết, thương yêu đùm bọc nhau bất kể thời thế thăng
trầm. Người Việt từng được đánh giá là thông minh, cần mẫn, hiền hoà và
hiếu khách. Non sông Việt nổi tiếng phong phú tài nguyên, có nhiều kỳ
quan thế giới cùng nhiều di tích lịch sử huy hoàng.
Thế chiến II kết thúc, Nhật đầu hàng vô điều kiện ngày 14-8-1945 mở
ra thời kì tuyệt vời cho các thuộc địa giành tự chủ, giải phóng dân tộc.
Nhân dân Việt Nam chớp lấy thời cơ Vàng này ra lời Tuyên Ngôn Độc
Lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2-9-1945.Rồi sau đó Tổng
tuyển cử tự do bầu Quốc hội đầu tiên đa đảng, lập chính phủ Liên hiệp
Quốc gia năm đảng phái. Tất cả biểu hiện một chính thể dân chủ đa
nguyên. Như vậy, người dân Việt đáng được hưởng cuộc đời ấm no, tự do,
hạnh phúc trong hoà bình. Đáng tiếc thay! Suốt hơn nửa thế kỷ nay, đảng
cộng sản đem áp đặt chủ nghĩa Mác-Lênin hoang tưởng, dùng chuyên
chính vô sản, đấu tranh giai cấp để thực hiện chủ nghĩa xã hội độc hại tại
Việt Nam. Đảng CSVN tự tiện đưa điều 4 vào Hiến pháp nhằm hợp pháp
hoá quyền độc đảng, độc tài, toàn trị của họ. Họ độc quyền báo chí để độc
quyền phát ngôn, lừa dối nhân dân. Họ dùng công an và quân đội để đàn
Năm 2006, ông tuyên bố phục hoạt Đảng Dân chủ với
tên mới là Đảng Dân chủ (XXI).
Đời ông là một ñiển hình của nhiều ñảng viên Đảng
Cộng sản lão thành: Vì yêu nước nên vào Đảng CS ñể
chống thực dân, thấy Đảng ñộc tài nên lên tiếng ñưa ñến tù
tội, khi Đảng không còn phục vụ cho quyền lợi dân tộc nữa
thì công khai tranh ñấu cho dân chủ.
Nguồn: http://www.ddcvn.info/
Paris 10/9/2004
Hoàng Xuân Đài: Sinh năm 1941. Học tại Huế và Sàigòn,
du học Paris năm 1964.
Tham gia các phong trào sinh viên tại Sàigòn và Paris.
Sau 1975, tham gia các phong trào dân chủ tại hải ngoại.
Hiện nghỉ hưu và sống tại Paris.
Chú Thích
[1] J. Kornai: Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, Hội Tin học Việt Nam
2001, NXB Văn hoá Thông tin (NXB VHTT) 2002. Tủ sách SOS2, Nguyễn
Quang A dịch.
Tủ sách SOS2: Các tác phẩm đã xuất bản và sắp xuất bản:
• J. Kornai: Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, Hội Tin học Việt Nam
2001, NXB Văn hoá Thông tin (NXB VHTT) 2002.
• J. Kornai: Hệ thống Xã hội chủ nghĩa, NXB Văn hoá Thông tin 2002
• J. Kornai-K. Eggleston: Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, NXB VHTT 2002
• G. Soros: Giả kim thuật tài chính, sắp xuất bản
• H. de Soto: Sự bí ẩn của tư bản, sắp xuất bản (NXB Chính trị Quốc gia,
2004)
• J. E. Stiglitz: Chủ nghĩa xã hội đi về đâu?, sắp xuất bản
• F.A. Hayek: Con đường dẫn tới chế độ nông nô, sắp xuất bản
• G. Soros: Xã hội Mở, sắp xuất bản
• K. Popper: Sự khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử, sắp xuất bản
(Địa chỉ liên lạc: Tạp chí Tin học và Đời sống, 54 Hoàng Ngọc Phách Hà
Nội [25/B7 Nam Thành Công], thds@hn.vnn.vn hay nqa@netnam.vn).
Những dữ kiện thông tin về dịch giả Nguyễn Quang A và tủ sách SOS2 đã
được ban Biên Tập Talawas cho phép dùng. Tác giả bài viết xin trân trọng
118 Nhà Đấu tranh Dân chủ quốc nội Việt Nam
1. Bs Nguyễn Xuân An, Huế 35. Gv Trần Thạch Hải, Hải Phòng
2. Gv Đặng Hoài Anh, Huế 36. Kt Trần Việt Hải, Vũng Tàu
3. Gv Đặng Văn Anh, Huế 37. Ks Đoàn Thị Diệu Hạnh, Vũng Tàu
4. Bs. Lê Hoài Anh, Nha Trang 38. Dn Nguyễn Thị Hạnh, Đà Nẵng
5. Gs Nguyễn Kim Anh, Huế 39. Gv Phan Thị Minh Hạnh, Huế
6. Gs Nguyễn Ngọc Anh, Đà Nẵng 40. Gs Đặng Minh Hảo, Huế
7. Nv Trịnh Cảnh, Vũng Tàu 41. Nv Trần Hảo, Vũng Tàu
8. Lm F.X. Lê Văn Cao, Huế 42. Nv Trần Mạnh Hảo, Sài Gòn
9. Gv Lê Cẩn, Huế 43. Gv Lê Lệ Hằng, Huế
10. Lm Giuse Hoàng Cẩn, Huế 44. Lm Giuse Nguyễn Đức Hiểu, Bắc Ninh
11. Gv Trần Thị Minh Cầm, Huế 45. Yt Chế Minh Hoàng, Nha Trang
12. Lm Giuse Nguyễn Văn Chánh, Huế 46. Gv Văn Đình Hoàng, Huế
13.Gv Nguyễn Thị Linh Chi, Cần Thơ 47. Gv Lê Thu Minh Hùng, Sài Gòn
14. Gs Hoàng Minh Chính, Hà Nội 48. Gs Nguyễn Minh Hùng, Huế
15.Gv Nguyễn Viết Cử, Quảng Ngãi 49. Lm Gk Nguyễn Văn Hùng, Huế
16. Ths Đặng Quốc Cường, Huế 50. Gv Phan Ngọc Huy, Huế
17. Nv Nguyễn Đắc Cường, Phan Thiết 51. Gv Lê Thị Thanh Huyền, Huế
18. Dn Hồ Ngọc Diệp, Đà Nẵng 52. Gv Đỗ Thị Minh Hương, Huế
19. Gv Trần Doãn, Quảng Ngãi 53. Ths Mai Thu Hương, Hải Phòng
20. Lê Thị Phú Dung, Sài Gòn 54. Yt Trần Thu Hương, Đà Nẵng
21. Gv Hồ Anh Dũng, Huế 55. PTs Nguyễn Ngọc Kế, Huế
22. Gs Trương Quang Dũng, Huế 56. Gs Nguyễn Chính Kết, Sài Gòn
23. Bs Hà Xuân Dương, Huế 57. Ths Nguyễn Quốc Khánh, Huế
24. Cựu Đại tá Phạm Quế Dương, Hà Nội 58. Gv Nguyễn Đăng Khoa, Huế
25. Ls Nguyễn Văn Đài, Hà Nội 59. Gs Trần Khuê, Sài Gòn
26. Kt Trần Văn Đón, Phan Thiết 60. Cựu Thiếu tá Vũ Kính, Hà Nội
27. Bs Hồ Đông, Vĩnh Long 61. Nv Bùi Lăng, Phan Thiết
28. Lm Phêrô Nguyễn Hữu Giải, Huế 62. Gv Tôn Thất Hoàng Lân, Sài Gòn
29. Dn Trần Văn Ha, Đà Nẵng 63. Hội trưởng PGHHTT Lê Quang
30. Gv Lê Thị Bích Hà, Cần Thơ Liêm, Sài Gòn
31. Bs Lê Thị Ngân Hà, Huế 64. Bs Vũ Thị Hoa Linh, Sài Gòn
32. Gv Lê Nguyễn Xuân Hà, Huế 65. Lm G.B. Nguyễn Cao Lộc, Huế
33. Vũ Thuý Hà, Hà Nội 66. Lm Phêrô Phan Văn Lợi, Huế
34. Ks Đỗ Nam Hải, Sài Gòn 67. Gv Ma Văn Lựu, Hải Phòng
o
1. Tên gọi:
Khối 8406 là một tập hợp những Công dân Việt Nam (VN) trong và ngoài
Nước, kể cả những người Nước khác, gióng lên tiếng nói lương tri muốn
đấu tranh để xây dựng một Nước VN có đủ các yếu tố:
- tôn trọng sự thật, lẽ phải, luật công bằng, tính công khai minh bạch,
- sống với nhau bằng tình thương, lòng nhân ái,
- Đất nước được hoà bình tự do, dân chủ; quyền tự quyết của người
Dân được bảo vệ.
Khối 8406 được khởi sự hình thành dựa trên Tuyên ngôn Tự do Dân
chủ cho Việt Nam 2006 do 118 Công dân quốc nội VN cùng đồng thanh
công bố ngày 8-4-2006. Tên gọi Khối 8406 là cách gọi tắt phát sinh từ
ngày tháng năm này.
4- Thành phần:
Khối 8406 mời gọi mọi người Thiện chí yêu chuộng Lẽ phải, Hòa
bình, Tự do, Công bằng, Nhân ái, Dân chủ trên toàn cầu, không phân biệt
quốc tịch, tham gia bằng các hình thức:
4.1. Đăng ký ghi tên từng cá nhân trở thành Chiến sĩ Dân chủ Hòa
bình (CSDCHB - Peaceful Democratic Fighters - PDF) của Khối, qua
Điện thư, Điện thoại, Thư tín, các Thành viên khác. Trực tiếp ghi tên với
Văn phòng của Khối, lập Danh sách chung và gửi về Văn phòng Khối
Nước Việt có một bờ biển dài nhìn ra Thái Bình Dương trải từ Bắc chí
Nam. Trong lịch sử đầy sóng gió của mình, người dân Việt hẳn nhiên
nhiều lần vượt đại dương. Nhiều người thành đạt nơi xứ người, trong số đó
có thể kể đến dòng họ Lý ở Hàn Quốc và cộng đồng người Việt tại Âu -
Mỹ hiện nay.
Họ ra đi trong bối cảnh lịch sử có nhiều biến động khác nhau. Hiện
tất cả đang trở về để cùng cả dân tộc vươn mình ra một đại dương khác
rộng lớn hơn, đó là thị trường thương mại-tài chính-chính trị toàn cầu
trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), với những nền văn
hóa và tập quán khác biệt song được vận hành bởi một hệ thống qui tắc
ứng xử thuần nhất.
Chúng ta chưa bao giờ có những đội thương thuyền hoặc lực
lượng hải quân hùng mạnh đủ khả năng tiến xa hơn ra biển Đông.
Thêm vào đó, do chính sách “bế quan tỏa cảng” của một số triều đại trong
quá khứ, người dân Việt vẫn chưa có nhiều dịp sống trong sự giao thoa
giữa những nền văn hóa và suy nghĩ dị biệt mặc dù khả năng thích ứng với
môi trường mới của họ rất cao. Thời-đại-WTO sẽ là một cơ hội lớn để biến
những tiềm năng đó thành hiện thực.
Tâm trạng hiện thời của hầu hết mọi người là háo hức, muốn hành
động ngay để tranh thủ cơ hội ngàn năm có một này hầu phát triển đất
nước và tạo dựng đời sống tốt đẹp hơn cho cá nhân và cộng đồng. Quả
thật, kể từ năm 1945, thời điểm VN chính thức ghi tên trên bản đồ địa -
chính trị thế giới hiện đại, chưa bao giờ chúng ta đứng trước một vận hội
lớn lao như vậy. Nếu lớp trẻ ngày nay không có dịp chứng kiến ngày độc
lập của đất nước hơn 60 năm về trước, thì giây phút VN trở thành thành
viên toàn diện của cộng đồng thế giới rõ ràng là thời khắc lịch sử mà họ có
15/12/2006
Nguồn: http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?
ArticleID=177825&ChannelID=397
Gần đây những cuộc đột nhập văn phòng luật sư để tịch thu tài liệu và máy
tính hoặc khám xét hành lý của các luật sư tại phi trường ở Việt Nam đã
dấy lên mối quan ngại về sự công khai xâm phạm bí mật nghề nghiệp luật
sư, một trong những chuẩn mực văn minh mà bất kỳ nhà nước pháp quyền
nào trên thế giới cũng tôn trọng.
Luật sư chỉ có thể làm tròn bổn phận đối với khách hàng, dù biện hộ
hay tư vấn, khi khách hàng biết rõ và chắc chắn rằng mình có thể nói hoặc
gửi gắm với luật sư mọi tình tiết của vụ việc liên hệ mà không lo ngại
người thứ ba biết, vì luật sư tiết lộ hay thất thoát bởi lý do khác. Điều này
gắn liền với khái niệm bí mật nghề nghiệp luật sư, vốn định hình và phát
triển theo chiều hướng văn minh hóa của nhân loại, trên cơ sở mở rộng
quyền tự do cá nhân và thu hẹp quyền lực nhà nước.
Ở những xã hội còn chưa văn minh, nhà chức trách thường nhân danh
trật tự công cộng và đề cao ổn định xã hội để dành cho mình độc quyền
tìm hiểu mọi sự việc diễn ra trong đời sống xã hội, gọi là “thực tế khách
quan”, qua đó can thiệp vào các tương quan dân sự và pháp lý, bất chấp tự
do cá nhân của công dân có bị xâm phạm hay không.
Công cuộc tranh đấu cho tự do cá nhân trên toàn thế giới từ thế kỷ
XVII đến XX đã đưa đến kết quả thu hẹp đáng kể quyền lực nhà nước,
đồng thời xác lập nên những chuẩn mực văn minh, thành văn và bất thành
văn, trong việc cai trị và quản lý xã hội, trong đó có sự công nhận quyền
giữ bí mật nghề nghiệp luật sư.
Văn phòng luật sư, cũng như phòng mạch của bác sĩ, được ví như
phòng xưng tội của nhà thờ, phải là nơi tuyệt đối an toàn, mọi bí mật phó
thác cho luật sư phải được luật pháp bảo đảm để không bị tiết lộ dưới áp
lực của bất kỳ uy lực nào. Nói cách khác, sự bất khả xâm phạm của văn
phòng luật sư là nền tảng của quyền giữ bí mật nghề nghiệp luật sư mà nhà
chức trách ở quốc gia văn minh nào cũng tuân thủ vô điều kiện.
Trong một số trường hợp giới hạn vì nhu cầu trật tự công cộng và
nhằm phục vụ tiến trình điều tra một vụ án nhất định, nhà chức trách có thể
Lê Công Định
Gửi cho BBCVietnamese.com từ Sài Gòn
Hai chữ “đa nguyên” từ lâu là điều húy kỵ đối với xã hội
và hệ thống chính trị ở Việt Nam. Liệu đa nguyên thực sự
ghê gớm đến nỗi mỗi khi nói đến ai cũng phải e dè?
Đã khi nào chúng ta nghiêm túc phân tích thế nào là đa
nguyên và ảnh hưởng của một hệ thống đa nguyên chưa?
“Nhà nước pháp quyền” là một khái niệm được đề cập đến nhiều từ khi
Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới vào năm 1986.
Về mặt ngữ nghĩa, hai chữ “pháp quyền” không gợi lên một cách
chính xác ý nghĩa của cụm từ Nhà nước pháp quyền, mà chúng ta thường
hiểu là một thể chế nhà nước được điều hành và cai trị bằng luật pháp.
Đây là khái niệm được du nhập từ nền văn minh pháp lý phương Tây.
Truyền thống pháp lý Đông phương nói chung và Việt Nam nói riêng
không có khái niệm này (dù rằng vào thời Xuân Thu Chiến Quốc tại Trung
Hoa đã xuất hiện trường phái chủ trương áp dụng hình luật nghiêm khắc để
trị dân - Pháp trị chủ nghĩa - với nhà tư tưởng tiêu biểu Hàn Phi Tử).
Nhà nước pháp quyền có nguồn gốc từ khái niệm “État de droit” (tạm
dịch là “Nhà nước [cai trị bằng] luật pháp”) trong Pháp ngữ, và “Rule of
law” (tạm dịch là “sự cai trị bằng luật pháp” hoặc “sự thống trị của luật
pháp”) trong Anh ngữ.
Thật ra, chữ thích hợp để dịch hai thuật ngữ tương đồng này ở Âu-Mỹ
đáng lẽ phải là Nhà nước pháp trị thay vì Nhà nước pháp quyền (cũng xin
lưu ý rằng chữ “quyền” trong Hán ngữ mang nghĩa “nắm tay, nắm đấm”
hoặc “quyền lợi” hoàn toàn không liên quan đến ý nghĩa của hai thuật ngữ
“État de droit” và “Rule of law”). Do vậy, thiết tưởng nên sử dụng từ Nhà
nước pháp trị, vừa chính xác vừa dễ hiểu, lại tránh tình trạng diễn giảng sai
lệch ý nghĩa.
Quan niệm về Nhà nước pháp trị cùng với ý định soạn thảo một bản
hiến pháp cho Việt Nam đã manh nha vào những năm 1920 và 1930 từ
cuộc vận động thành lập thể chế quân chủ lập hiến do các nhà ái quốc
đương thời khởi xướng nhằm tranh đấu từng bước chống lại ách cai trị của
thực dân Pháp tại Việt Nam. Tuy nhiên cuộc vận động này sau đó đã thất
bại và phải chờ đến năm 1946 bản Hiến pháp đầu tiên mới được ban hành.
Bản Hiến pháp của nước Việt Nam mới này đã đặt những viên gạch đầu
tiên xây dựng nên tòa lâu đài Nhà nước pháp trị trên thực tế.
Ông viết ngắn gọn, ñi thẳng vào vấn ñề, dễ hiểu, ñược
cả trong và ngoài nước theo dõi. Ông chuyên về các ñề tài
luật, phân tích những lỗ hổng của luật pháp Việt nam,
mong muốn xây dựng một xã hội pháp trị ñể làm nền tảng
phát triển quốc gia về mọi mặt
Ông bị bắt khẩn cấp vào tháng 6 năm 2009 với tội
danh "có các hành vi cấu kết với bọn cầm ñầu phản ñộng
nước ngoài chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam".
Việc ông bị bắt gây chấn ñộng trong giới quan sát Việt
nam trong và ngoài nước.
Nguồn: Toàn văn bài viết đã đăng trên báo Pháp Luật TP. HCM Chủ Nhật,
12-3-2006.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2006/03/060315_nhanuoc
_phaptri.shtml
BBT: Dưới đây là bài tham luận của Luật sư Lê Thị Công
Nhân dự tính đọc tại Hội nghị về Quyền Lao Động tại Việt
Nam họp tại Warsaw, thủ đô Ba Lan từ 28 đến 30-10-2006
nhưng phút chót Ls Lê Thị Công Nhân đã bị công an của
của nhà cầm quyền Hà Nội giữ lại tại trường bay Nội Bài,
không cho bà xuất ngoại.
Nguồn: http://lequocquan.blogspot.com
Sáng 9/12, Tôi cùng một số em sinh viên đi biểu tình phản đối Tam Sa.
Chúng tôi đến sớm, đứng dưới chân cột cờ Hà Nội trên đường Điện Biên
Phủ. Đi qua bảo tàng lịch sử quân đội, ngắm nhìn những khẩu thần công
cũ, nghe tiếng vọng của Đất nước bị xâm lăng, sẻ chia nỗi lòng xót xa vì
Trường Sa, Hoàng Sa bị Tàu hóa. Đã lâu rồi không hát quốc ca nhưng hôm
đó tôi đã hát như chưa bao giờ say mê đến thế. Đứng trên lề đường Hoàng
Diệu, tôi bắt nhịp hát Quốc Ca và Nối vòng tay lớn, thấy máu Lạc Hồng
dâng trong huyết quản, nơi vẫn còn in dấu tay của công an bóp cổ xách đi
hôm xử hai Luật sư đồng nghiệp 12 ngày trước đó. Ngay trong lúc cuồng
nhiệt hô to phản đối Tam Sa, Tôi vẫn thấy thiếu một cái gì đó. Cứ cảm
giác, giống như đất nước mình, không có nội lực và sắp sửa bị nhấc bổng
mang đi.
Với tâm hồn hướng thượng và khả năng hùng biện xuất chúng, nhà chính
trị chân chính phải có những khả năng quản trị thiên bẩm và sự sửa mình
đầy lý trí, vì họ là những người làm nên lịch sử.
Là nhà chính trị chân chính, bạn phải biết dẫn dắt thiên hạ đến thái
bình và đem lại vinh quang cho tổ quốc mà bạn phụng sự. Bạn phải có tầm
nhìn chiến lược và quyết tâm cao, biết chạy hết quãng đường và giữ vững
niềm tin; biết hy sinh một trận đấu để thắng cả một cuộc chiến; can đảm
gánh vác những trách nhiệm lớn lao; giữ tấm lòng son và không phụ lòng
lịch sử!
Làm nhà chính trị là bạn dấn thân cho một cuộc đấu cao đẹp. Bạn
cam kết bước vào một sân chơi với tất cả phương tiện và thủ đoạn. Nhưng
luôn luôn phải có lòng tin sắt son vào chiến thắng của cái thiện đối với cái
ác, của đạo đức đối với tội lỗi, của yêu thương đối với hận thù, của dân chủ
tự do đối với độc tài, toàn trị.
Là nhà chính trị thao lược, bạn phải có tài tổ chức, biết thu phục lòng
người và dụng nhân như dụng mộc; biết đào tạo một thế hệ tương lai đủ
bản lĩnh và tính tiên phong; biết nghiêm khắc nhận lỗi và can đảm tha thứ.
Bạn phải dũng mạnh mà không uỷ mị; không tàn bạo, dã man mà bao
dung, chu đáo; không chần chừ mà nhanh chóng, không hấp tấp mà cẩn
trọng.
Là nhà chính trị chân chính, bạn phải hiểu được những khả năng lớn
lao của con người nhưng cũng luôn ý thức được vị trí nhỏ nhoi của mình
trước Tạo Hoá; cảm được những khúc quanh của lịch sử nhưng cũng hiểu
được cả quá trình phát triển dài lâu của loài người trong vũ trụ mênh
mông.
Là nhà chính trị chân chính, bạn phải chịu đựng bao xót xa dằn vặt, từ
bỏ những ham muốn đời thường để lo cho lợi ích của quốc dân; Bạn phải
bền bỉ làm việc và kiên gan vượt qua tất cả. Những ngày mệt nhọc, những
đêm dài thức trắng, những ánh mắt thâm quầng và tóc bạn có thể bạc trắng
Mặc dầu có nhiều lời đồn đãi từ gần hai chục năm nay, lịch sử chưa hề
ngưng. Mà có thể sẽ không bao giờ dừng chân, không bao giờ chấm dứt.
Có người nghĩ lịch sử đã hoặc sắp chấm dứt vì họ theo cách luận giải của
Hegel, nhưng lại tin là sau cùng loài người sẽ đồng ý với nhau về một cách
tổ chức xã hội tử tế nhất, tạm gọi là tối hảo, sau đó sẽ không còn phải tranh
cãi, đấm đá hoặc chém giết nhau về những “phản đề” lớn lao nữa.
Nhưng chúng ta cũng biết là thường mỗi khi xã hội loài người tìm ra
giải pháp cho một vấn đề khó khăn nào đó, thì sau một thời gian thế nào họ
cũng sẽ thấy ngay có những vấn đề rắc rối mới, do chính những giải pháp
vừa áp dụng sinh đẻ ra. Điều này đúng trong phạm vi kỹ thuật, trong cách
tổ chức kinh tế, cũng như trong cách xếp đặt chính trị để phân chia quyền
hành và phận sự của những người sống chung với nhau.
Trước khi lên cầm quyền, ông Nicolas Sarkozy đã cổ động mạnh mẽ
cho quyền tự do kinh doanh. Ông nói, “Suốt 25 năm qua, nước Pháp không
ngừng làm nản lòng những người có sáng kiến, trừng phạt những người
thành công. Khi ngăn cản không cho những thành phần năng động nhất
làm giầu, hậu quả là làm cho tất cả mọi người khác bị nghèo đi.” Nghe
những ý kiến đó, nhiều người tin ông thấy nỗi khó khăn lớn của nuớc Pháp
là sản xuất chứ không phải là phân phối các tài sản cho công bằng, nhiều
người nghi ông tính đưa nuớc Pháp đến gần mô hình kinh tế Mỹ. Mấy năm
sau, cũng ông tổng thống Pháp đó, lại mới tuyên bố rằng thời của kinh tế
tư bản tự do đã chấm dứt - fini! Bây giờ, ông lại coi việc chia sẻ các tài sản
là quan trọng hơn.
Mỗi thời đại loài người chúng ta chọn một mâu thuẫn quan trọng nhất
trong xã hội cần tìm cách giải quyết gấp. Ngay việc chọn lựa này cũng đủ
để chúng ta bất đồng ý kiến và gây ra tranh chấp trong từng quốc gia, và
Chuyện xăng và xe
Khi giá xăng ở Mỹ lên cao, thế nào cũng nghe nhiều người so sánh: “Ăn
nhằm gì! Xăng ở Âu châu nó đắt gấp ba, bốn lần, đắt từ bao nhiêu năm nay
rồi họ vẫn chịu được! Đừng than nữa!”
Nghe xong nhiều người Mỹ cũng thấy được an ủi. Họ thấy: Giá xăng
ở Pháp, ở Đức cao kinh khủng, nước Mỹ thật là thiên đường – của những
người lái xe.
Nhưng một điều người ta quên nói thêm, là ở Âu châu rất ít người
phải lái xe hơi đi làm hay đi học. Tới thành phố Amsterdam ở Hà Lan thấy
bao nhiêu người đi xe đạp. Một trò tinh nghịch của học sinh phá làng phá
xóm là lấy trộm xe đạp của người ta đem vứt xuống sông! Mỗi tuần phải
dùng phà đi “quét, “ vớt lên hàng chục chiếc xe đạp! Ở Pháp, ở Đức, dân
phần lớn đi xe búyt, xe điện. Hồi dậy ở Trường Võ Bị Hoàng gia Canada
tại St-Jean, có lần tôi cho một đồng nghiệp người Đức đi xe nhờ. Anh là
giáo sư thỉnh giảng từ một đại học tại Stuttgart qua dậy Vật lý học một
năm, mỗi tuần lại đi xe đò lên Montréal cách ba chục cây số nghe nhạc.
Hỏi tại sao không mua chiếc xe cũ đi cho nó tiện, bao giờ hồi hương thì
Mỹ và Âu châu
Ta có thể so sánh thấy ngay những lựa chọn khác biệt của Mỹ và Âu châu,
khi phải cân nhắc giữa tự do và công bằng xã hội. Tuy vậy, lục địa Âu
Châu cũng không thuần nhất;khi nhìn vào chi tiết thì ngay giữa các quốc
gia đó cũng chọn nhiều mô thức khác nhau.
Thí dụ, người Mỹ đề cao tự do kinh doanh hơn Âu châu. Nhưng từ
đầu thế kỷ trước họ đã đặt ra thuế lợi tức lũy tiến, nghĩa là nếu anh làm ăn
giỏi, kiếm nhiều tiền, thì anh phải đóng góp cho quốc gia nhiều hơn – vì
anh sử dụng các phương tiện chung của xã hội nhiều hơn. Hiển nhiên, bị
đánh thuế tức là quyền tự do kinh doanh của anh bị xâm phạm, vì anh đã
làm ra tiền mà không được hưởng một mình! Ở nước Mỹ cũng có chế độ
an sinh xã hội (welfare) và y tế miễn phí cho người nghèo (medicaid). Nó
tạo một xã hội bình đẳng hơn, nhưng cũng tăng thuế, lại làm mất một chút
Tác phẩm:
- Nàng (thơ, 1965)
- Đêm Việt Nam (thơ, 1966)
- Yêu Con Dạy Con Nên Người Việt (tiểu luận, Văn
Nghệ, 1988)
- Cỏ và Tuyết (thơ, 1989)
- Đổi Mới Kinh Tế
- Tìm Thơ Trong Tiếng Nói (1992)
Việt nam
Cơ hội và Hướng đi
Những cơ hội bị bỏ lỡ
Nếu Hồ Chí Minh không phải là cấp thừa hành của QTCS thì Việt Nam đã
tránh được những cảnh cốt nhục tương tàn đầy máu và nước mắt, gây nên
hận thù truyền kiếp giữa lòng dân tộc. Trong thời kỳ có quyền sinh sát
trong tay, ông Hồ đã bỏ qua hai cơ hội khả dĩ tránh cho dân tộc những
thảm cảnh chiến tranh hoàn toàn vô ích.
Cơ hội thứ nhất xảy ra vào giai đoạn kết thúc Thế Chiến II. Đúng lúc
Nhật Bản sắp đầu hàng thì tại Hội Nghị Yalta (tháng 2/1945), tổng thống
Hoa Kỳ F.D Roosevelt đưa ra chính sách ủy trị (trusteeship) đối với các
nước Đông Dương. Phong trào giải thực như vậy là do ý muốn và sáng
kiến của Hoa Kỳ chứ không phải bắt nguồn từ cuộc chiến chống Pháp như
Việt Minh vẫn xảo trá tuyên truyền.
Những người Mỹ (OSS) sang giúp Việt Minh vào thời gian này có lần
đã đề nghị bỏ cờ đỏ sao vàng nhưng bị Hồ Chí Minh từ khước. Sư kiện này
đã khiến Hoa Kỳ quay lưng lại với họ Hồ. Nếu Hồ chấp thuận thì một Ủy
Ban Ủy Trị LHQ đã tạm thời quản lý đất nước để giúp Việt Nam trở thành
một quốc gia dân chủ và Pháp đã không thể nào quay lại Đông Dương.
Chiến tranh tất yếu đã không thể xảy ra.
Cơ hội thứ hai xảy ra năm 1956. Đang lúc Đảng Lao Động miền Bắc
chuẩn bị tấn công,miền Nam thì Đại Hội 20 Đảng Cộng Sản Liên Xô họp
vào tháng 2/1956. Trong ngày bế mạc đại hội này Nikita Khruschev đọc
bài diễn văn hạ bệ Stalin và đưa ra chính sách “sống chung hòa bình”.
Theo chủ trương này, đầu năm 1957 Liên Xô đề nghị hai miền Nam Bắc
Việt Nam cùng vào Liên Hiệp Quốc. Hồ Chí Minh, một lần nữa, quyết liệt
CHÚ THÍCH
Bài tham luận này được viết với một số chi tiết lấy ra từ cuốn biên
khảo VIỆT NAM TRONG CHIẾN TRANH TƯ HỮU
Một trong những nan đề của những người đấu tranh dân chủ trong nước
hiện nay là phải đấu tranh cách nào để đỡ thiệt hại và có lợi nhất trong tình
thế hiện tại. Tình thế hiện tại là CSVN quyết bám lấy quyền lực với bất cứ
giá nào hầu tiếp tục hưởng những đặc quyền đặc lợi do việc nắm quyền cai
trị đất nước, cho dù phải làm những điều ác đức nhất, bẩn thỉu và đê tiện
nhất, cho dù phải bán đứng đất nước cho ngoại bang, cho dù người dân
trong nước có khổ đau đến tận cùng… Vì thế chúng sẵn sàng thẳng tay dập
tắt tất cả những tiếng nói nào dám phản kháng tội ác của chúng, quyết tiêu
diệt những ai dám tranh đấu cho dân chủ nhân quyền mà chúng cho là đe
dọa độc quyền thống trị của chúng.
Cái khó của những nhà đấu tranh hiện nay không phải là thiếu lòng
can đảm mà là phải làm sao để vừa đấu tranh mạnh mẽ để đẩy lùi được
chế độ độc tài, đồng thời vừa bảo toàn được lực lượng để còn có thể tiếp
tục đấu tranh lâu dài, vì cuộc đấu tranh không chỉ kéo dài một vài tháng
hay một vài năm. Thật vậy, các nhà đấu tranh dân chủ trong nước không
thiếu can đảm: cho đến nay, đã có hàng trăm nhà đấu tranh dân chủ công
khai năng nổ, trong đó đa phần là thành viên Khối 8406, phải vào nhà tù
CSVN vì đòi hỏi nhân quyền, dân chủ và bảo toàn lãnh thổ. Trong số
những nhà đấu tranh dân chủ công khai này, số người được thế giới biết
đến và quan tâm chỉ là một phần nhỏ. Ngoài những nhà đấu tranh dân chủ
công khai đã phải vào tù này, còn có vô số –nghĩa là đông gấp bội– những
tù nhân khác bị giam cầm, bị giết chết vì đấu tranh dân chủ một cách âm
thầm, bí mật. Số tù nhân này hầu như không mấy người được thế giới biết
đến.
Tuy nhiên chính nhờ gương của những người đấu tranh dân chủ can
đảm trên đây bất chấp sự khủng bố tàn ác của CSVN mà số người tham gia
Phụ chú:
(1*) Mức độ cần thiết có thể thay đổi tuỳ theo số lượng: Khi đói, chén cơm thứ
nhất là hết sức cần thiết, nhưng khi đã ăn xong chén thứ nhất, thì mức độ
cần thiết của chén thứ hai đã giảm đi, và chén thứ ba thứ tư còn giảm hơn
nữa
(2*) Trong hàng ngũ đấu tranh dân chủ hiện nay, có những người theo “chủ
nghĩa anh hùng”, sẵn sàng lao mình vào nguy hiểm, thậm chí vào lao tù,
vào chỗ chết, miễn là hữu ích cho đất nước, không cần biết sự hy sinh của
mình trong trường hợp đó có đáng hay không, có thật sự ích lợi cho đại
cuộc một cách tương xứng với sự hy sinh của mình hay không. Nếu việc
vào tù hay cái chết của mình cứu được nhiều người, khiến đối phương
phải trả giá rất mắc cho sự hy sinh ấy của mình, thì đó là anh hùng cách
khôn ngoan. Còn biết rằng việc hy sinh của mình không đem lại kết quả
tương xứng mà vẫn chấp nhận hy sinh thì cũng là anh hùng, nhưng không
khôn ngoan lắm. Người anh hùng thật sự không sợ chết oan, nhưng họ
không chấp nhận chết uổng. Nếu đối phương phải trả giá rất mắc cho việc
vào tù hay cái chết của họ và họ sẵn sàng chấp nhận, thì đó là anh hùng
thật sự. Nếu ở ngoài để hoạt động mà có lợi cho đại cuộc thì nên ở ngoài
mà hoạt động hơn là vào tù. Nếu sống mà gây được nhiều thiệt hại cho
giặc hơn là chết thì nên giữ lấy mạng sống. Trường hợp ấy, từ chối cái
chết, tránh né vào tù không phải là hèn. Tuy nhiên, quả khó mà xác định
được ranh giới giữa khôn ngoan và hèn nhát, giữa can đảm và ngu xuẩn.
Vì: khôn ngoan quá rất dễ biến thành hèn nhát, mà can đảm quá có khi trở
thành ngu xuẩn.
(3*) Khối 8406 do Lm Nguyễn Văn Lý cùng 118 người ký tên tham gia thành
lập ngày 8/4/2006.
Thế giới biến đổi lớn lao, hai khối đối đầu Đông Tây đang chuyển
sang hợp tác Bắc Nam. Kỷ nguyên chiến tranh kết thúc, nhường chỗ cho
hòa bình và phát triển.
Khắp nơi xu thế thời đại đòi hỏi phải tôn trọng Nhân quyền, phải có
Tự do Dân chủ, phải được sinh hoạt Chính trị Đa nguyên. Các dân tộc ở
Đông Nam Á - Thái Bình Dương đều mong muốn vùng này đi vào hòa
bình ổn định, phi liên kết và hợp tác vùng để mở mang kinh tế, văn hóa
qua Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á, viết tắt là ASEAN.
Cuộc chiến tranh Việt Nam trước đây bản chất đích thực là mâu thuẫn
quyền lợi chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc thông qua hai giới lãnh đạo
Sài Gòn và Hà Nội. Khi hai khối Cộng Sản và Tư Bản hết đối kháng,
tương quan Mỹ và Trung Quốc biến vào thế hợp tác (thông cáo chung
Thượng Hải 1972), do đó có điều kiện để giải quyết cuộc chiến tranh Việt
Nam trên cơ sở. Các yếu tố ngoại nhập (hai guồng máy chiến tranh và hai
giới lãnh đạo) được rút ra, dẹp bỏ; và để nhân dân Việt Nam tự quyết định
lấy tương lai chính trị của mình.
Đối với vấn đề Đông Dương, sai lầm của Bộ Chính Trị đảng Cộng
Sản Việt Nam là muốn gộp bằng quân sự 3 nước Đông Dương dưới một
thế lực chính trị, trong khi thế giới đòi hỏi phải tách 3 nước Đông Dương
thành 3 thế lực chính trị cá biệt rồi mới gia nhập ASEAN.
Trong bối cảnh toàn cầu và cấp vùng như vậy, Bộ Chính Trị đảng
Cộng Sản Việt Nam đi ngược hoàn toàn xu thế thời đại, trở thành một tập
đoàn phản động, bị cả thế giới cô lập và nhân dân Việt Nam chán ghét.
Dân tộc Việt Nam phải nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng quốc tế,
chủ động giải quyết những nguyện vọng và quyền lợi của mình, Cao Trào
Nguyễn An: Trước đây Bác sĩ có đưa ra một Lộ trình chính điểm để
Dân chủ hoá Việt Nam một cách hoà bình. Lộ trình chín điểm này đã được
một số Thượng nghị sĩ và dân biểu ở bên Mỹ công khai ủng hộ, và đồng
thời cũng được các nhà dân chủ Việt Nam, như là ông Phương Nam, cụ
Hoàng Minh Chính, giáo sư Trần Khuê, Linh mục Nguyễn Văn Lý, Linh
mục Phan Văn Lợi, v.v. tán đồng.
Bác sĩ có thể nhân dịp này trình bày cho chúng tôi những điểm chính
của lộ trình?
Bác sĩ Nguyễn Đan Quế: Vâng, năm 2005, Cao Trào Nhân Bản đã
đưa ra Lộ trình 9 điểm nhầm dân chủ hoá Việt Nam: đầu tư, mậu dịch, trao
đổi giáo dục văn hoá, và những giá trị phổ quát nhân quyền dân chủ được
quần chúng hoan nghênh, đã và đang làm thay đổi sâu rộng hạ tầng cơ sở
xã hội Việt Nam chúng ta.
Nay đã đến lúc phải có thay đổi chính trị, tiếp tục đưa xã hội tiến lên,
nhất là về phát triển kinh tế. Áp lực sức mạnh quần chúng đòi thay đổi
trong ngoài là rất mạnh và chắc chắn sẽ còn mạnh hơn nữa. Do đó tới đây,
dầu muốn hay không Bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam cũng phải chấp
nhận.
Tôi xin nói điểm thứ nhất. Để thông tin hai chiều trong ngoài được
dễ dàng, hãy để các ấn phẩm văn hóa, đĩa nhạc, phim ảnh v.v... vào Việt
Nam, không được phá sóng các đài phát thanh như BBC, VOA, RFA, RFI,
Chân Trời Mới v.v...
Thứ 2, nới lỏng quyền tự do phát biểu, tự do báo chí, tự do đi lại, tự
lập hội v.v...
Thứ 3, phải thả hết tù chính trị và tôn giáo.
Thứ 4, chấm dứt đàn áp tôn giáo, nhất là GHPGVNTN, Phật Giáo
Hòa Hảo, đạo Tin Lành của đồng bào Thượng, và phải tôn trọng quyền của
các sắc dân thiểu số.
Dù nhượng bộ như trên, sức mạnh quần chúng tiếp tục dâng cao buộc
Nguồn: http://www.doi-thoai.com/baimoi0206_051.html
Chiến tranh lạnh chấm dứt với sự phá sản của chủ nghĩa Cộng Sản, thế
giới chuyển mình sang kỷ nguyên hợp tác Bắc-Nam.
Đông Nam Á đang đi dần vào hòa bình, ổn định, phi liên kết và hợp
tác vùng.
Sau chiến tranh, bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam thất bại trong
hòa bình. Quần chúng chán ghét chính quyền tham nhũng, vô hiệu năng,
ngược ý dân và thách thức trào lưu Dân Chủ trên toàn cầu. Dân ta sống
dưới chế độ công an trị, nghèo đói và kém học, tiềm năng dân tộc bị kìm
hãm vì đường lối lạc hậu của bộ chính trị.
Đã đến lúc tập hợp lại, đấu tranh thiết lập chính quyền Dân Chủ để
phát triển đất nước trong thế giới đang đổi thay vũ bão.
Đứng lên nắm lấy cơ hội làm ăn trực tiếp với thế giới bên ngoài, biến
đổi hẳn hạ tầng cơ sở xã hội. Hạ tầng mới quyết định thượng tầng phù hợp.
Song song với hợp tác kinh tế và bằng phương cách hòa bình, nhân dân ta
đấu tranh buộc bộ chính trị:
• tách đảng khỏi chính quyền, cấm dùng tiền thuế củng cố đảng trị, cản
trở tiến bộ.
• để Quốc Hội thảo luật bầu cử dân chủ.
• tổ chức bầu cử tự do và công bằng Quốc Hội Lập Hiến để thảo Hiến
Pháp mới.
Chấp nhận chạy đua, đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn còn cơ may tồn
tại trước khi quá muộn. Nếu không, khó tránh khỏi tình trạng quần chúng
đứng dậy lật đổ.
Bất cứ ai, ở bất cứ đâu, yêu chuộng Dân Chủ và ủng hộ chính nghĩa
của dân tộc Việt, hãy tập hợp lại cùng nhau làm việc trên nguyên tắc:
Tự lực hoạt động và phối hợp hành động qua mạng toàn cầu Internet.
Ai sẵn sàng mang hết tâm trí biến lý tưởng thành hiện thực có nhiệm
Những tiến bộ khoa học khi đem ứng dụng mang lại lợi ích, nên quần
chúng tự động hưởng ứng đem về dùng, khiến xã hội đảo lộn hẳn; trên cơ
sở hạ tầng khác hình thành nhà nước kiểu mới để tiếp tục đưa xã hội tiến
lên theo hướng mới.
Trong những chế độ phong kiến vàng (Vua Quan) hay đỏ (Cộng Sản),
chiến lược nhằm vào đánh đổ thượng tầng rồi thi hành cải cách ở hạ tầng là
điều khó làm bằng bất bạo động, vì bọn cầm đầu luôn luôn khống chế hạ
tầng để trường tồn; và giả sử nếu như nắm được thượng tầng mà hạ tầng
chưa có những biến đổi cơ bản, thì xã hội vẫn như cũ, chỉ là đổi ngôi vua
hay là thay đổi hết bộ chính trị này đến bộ chính trị khác.
Cộng Sản chủ trương chính quyền trên đầu súng, nghĩa là dùng bạo
lực chiếm quyền. Nhưng đa số đã thất bại trong công cuộc phát triển kinh
tế-xã hội, điển hình là đảng CSVN sau khi chiếm miền Nam Việt Nam.
Tình trạng trì trệ, chìm đắm trong khó khăn buộc bộ chính trị đảng CSVN
phải tìm đường sống bằng cách thương lượng, ký hiệp định thương mại
song phương (tiếng Anh viết tắt là BTA) với Mỹ ngày 13-7-2000 và sắp
được thông qua.
Thương ước đưa CSVN, quen đánh đấm, vào sân chơi mới BTA,
trong đó luật chơi là kinh tế; đổi khác sâu rộng ở hạ tầng sẽ thay lãnh đạo ở
thượng tầng. Đấy là chưa kể nhiều yếu tố nữa cũng vô cùng quan trọng
như LX và Đông Âu sụp đổ và cao trào Dân Chủ đang dâng cao khắp nơi
trên thế giới.
Tình hình VN sẽ có những chuyển biến cơ bản khi thi hành bản
thương ước. Thật vậy:
Làm con cờ cho phong trào CS quốc tế, đưa dân tộc vào 2 cuộc chiến
tranh tương tàn với chiêu bài “độc lập dân tộc và XHCN”, làm tan nát,
băng hoại xã hội VN.Tôn thờ một chủ nghĩa mà cuối cùng đã phá
sản.Không có can đảm nhìn nhận đi sai đường, bộ chính trị đảng CSVN
còn cố nuôi hy vọng tiếp tục thống trị. Nhưng không được, vì chiến tranh
lạnh chấm dứt, mâu thuẫn giữa CS-TB quốc tế không còn nữa, khối CS Xô
Năm 1998 trước áp lực quốc tế, Việt nam thả tự do cho
ông. Năm 2004 ông lại bị án 30 tháng vì tội “Lợi dụng các
quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước.”
Ông ñã ñược trao nhiều giải nhân quyền: Raoul
Wallenberg (1994), Robert Kennedy (1995), Hellman/
Hammett (2002), Heinz R. Pagels (2004).
Ông ñược ñề cử Nobel Hòa bình nhiều lần và gần nhất
vào năm 2004 do Dân biểu Ed Royce cùng bảy Thượng Nghị
Sĩ Hoa Kỳ ñề cử.
Ba mươi năm là thời gian của một thế hệ, và đối với Việt Nam, cũng
dài bằng thời gian của cuộc nội chiến quốc-cộng 1945-1975. Một thế hệ đã
sinh ra và lớn lên. Dân số Việt Nam đã tăng quá gấp đôi, từ 40 triệu lên 83
triệu. Những thanh niên sinh ra sau cuộc chiến chiếm quá 2/3 dân số. Điều
này có nghĩa là cuộc chiến đã thuộc vào dĩ vãng và đã đến lúc ta có thể
nghĩ đến nó như một biến cố lịch sử thay vì một đam mê.
Trước hết cần hiểu bối cảnh lịch sử của cuộc xung đột kết thúc ngày
30-4-1975.
Cuộc chiến này diễn ra vào giữa lúc Việt Nam đang sống một cuộc
chuyển hóa lớn từ văn hóa Khổng giáo sang văn hóa phương Tây. Khổng
giáo đã bị đánh bại và bị lố bịch hóa ("Cái học nhà Nho đã hỏng rồi!", Tú
Xương) nhưng vẫn còn là văn hóa nền tảng của dân tộc ta. Người ta không
thể đoạn tuyệt nhanh chóng với một nền văn hóa đã được độc tôn trong hai
ngàn năm. Ngược lại, văn hóa phương Tây tuy toàn thắng về mặt chính trị
và cũng hơn hẳn về mặt trí thức nhưng mới chỉ được tiếp thu một cách rất
phiến diện. Lý do là vì nó được chuyên chở bởi một ngôn ngữ - tiếng Pháp
- rất ít người hiểu, đồng thời nó cũng là một bước nhảy vọt trí tuệ quá lớn
đối với người Việt Nam. Nước ta lâm vào một cuộc khủng hoảng căn cước
lớn, nhận ra văn hóa truyền thống của mình là dở trong khi không dứt bỏ
được nó, ái mộ văn hóa của những kẻ rất xa lạ tới chiếm đóng nước mình.
Chúng ta không biết mình là ai và muốn gì.
Cần nhìn giai đoạn Pháp thuộc một cách khách quan. Đối với nhà
nước Việt Nam, nghĩa là triều Nguyễn, nó là một cuộc xâm lược nhưng đối
với nhân dân Việt Nam và mỗi người Việt Nam, nó lại có tác dụng khai
phóng lớn cả về vật chất lẫn tinh thần. Mức sống, trình độ hiểu biết, và các
quyền con người căn bản được nâng cao một cách ngoạn mục. Dù mất chủ
quyền, nước ta phát triển rất nhanh và rất mạnh về mọi mặt dưới thời Pháp
thuộc. Sự kiện kẻ thống trị nước ngoài đem lại phúc lợi hơn hẳn so với các
Trong bối cảnh thế giới biến đổi hoàn toàn khác trước (như đã trình
bày ở các Phần I, II, III) và từ yêu cầu bức bách, lâu dài của dân tộc trên
các lĩnh vực, định hướng chiến lược của Việt Nam trong những năm cuối
thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 sẽ là:
Nguyễn Hộ
Nguồn: http://danluan.org/node/273
Ngày 8.4.2006 đánh dấu một mốc nổi bật của phong trào dân chủ nước ta:
118 nhà đấu tranh dân chủ trong nước đã cho ra mắt bản Tuyên Ngôn
Tự Do Dân ChủCho Việt Nam 2006. Đây là một sự kiện lịch sử ghi nhận
bước trưởng thành mới của phong trào dân chủ nước ta. Vì rằng dưới một
chế độ độc tài toàn trị cực kỳ bạo ngược, với bộ máy công an hung hãn và
mạng lưới mật vụ dày đặc ngày đêm rình rập, đàn áp khốc liệt, trong một
môi trường dân tộc mà đại đa số sợ sệt cam chịu cúi đầu nhẫn nhục nhiều
hơn là hăng hái đấu tranh... thế mà các chiến sĩ dân chủ trong nước đã tung
ra được bản Tuyên Ngôn 2006 ngay trước ngày đại hội của đảng cầm
quyền họp – thật là một việc làm vô cùng dũng cảm.
Từ sự kiện này, nhiều người liên tưởng đến bản Hiến Chương 77 ra
đời hồi năm 1977 đã thúc đẩy phong trào đấu tranh mạnh mẽ của trí thức,
công nhân và dân chúng Tiệp Khắc và 12 năm sau đã đưa đến cuộc Cách
Mạng Nhung, xoá bỏ nền thống trị cộng sản, giành lấy tự do, dân chủ thật
sự cho người dân. Chúng tôi hy vọng với thời gian, bản Tuyên Ngôn 2006
sẽ vượt qua được mọi khó khăn, ngày càng phát huy hấp lực của nó và sẽ
góp phần đưa cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ ở nước ta tiến lên một bước
cao hơn.
Cố nhiên, muốn đạt được mong ước đó thì điều kiện tiên quyết là mọi
lực lượng dân chủ chân thành yêu nước Việt Nam phải cùng nhau đoàn kết
gắn bó, kiên trì đấu tranh dưới ngọn cờ mà bản Tuyên Ngôn Tự Do Dân
Chủ 2006 đã giương lên để cùng nhau đưa bản tuyên ngôn đó thâm nhập
vào đại chúng đông đảo, thức tỉnh và tranh thủ trái tim đại chúng, làm cho
số người dũng cảm gắn bó với phong trào dân chủ ngày càng đông đảo.
Nhân đây, chúng tôi xin kể lại một chuyện cũ. Cách đây không lâu,
hồi năm 1998-99, chúng tôi cũng đã cố sức vận động để đưa ra bản Tuyên
Ngôn 2000 của các nhà dân chủ trong và ngoài nước, nhưng sự việc đã
không thành. Hồi đó, chúng tôi đã tính toán đến hoàn cảnh cực kỳ khó
21.04.2006
Từ đầu năm nay, Bộ chính trị ĐCS đã tiến hành một chiến dịch đàn áp cực
kỳ hung bạo những người dân chủ trong nước để cố đè bẹp phong trào dân
chủ đang lên. Trận khủng bố khốc liệt này đã làm cho phong trào thiệt hại
nặng về nhân sự và tổ chức.
Lúc này, chúng ta cần bình tĩnh nhìn lại những thành tựu và thiếu sót
của phong trào trong thời gian qua, đánh giá tình hình phong trào hiện nay
để hoạch định một hướng đi đúng đắn cho tương lai. Việc làm này rất cần
thiết, trước hết, để ổn định “lòng người”, cố kết hàng ngũ dân chủ, chuẩn
bị cho những cuộc đấu tranh tiếp theo.
Khối 8406
Có tác giả nhậnđịnh rằng: «Đáng lẽ nó phải dừng lại ở mức độ một bản
tuyên ngôn dân chủ, như thế cũng là quí báu lắm rồi, nhưng người ta bắt
nó phải làm một việc mà nó không thể làm: trở thành một tổ chức và hơn
thế nữa một tổ chức mẹ của nhiều tổ chức khác. Người ta cố tình không
phân biệt một bản tuyên ngôn với một tổ chức, những người chỉ ký tên ủng
hộ một bản tuyên ngôn và những người dấn thân trong một tổ chức».
Theo chúng tôi, việc ra đời của Khối 8406 là một nhu cầu khách quan
bắt buộc phải làm để duy trì và phát triển thắng lợi sau khi «Tuyên Ngôn
2006» được công bố, vìthế không thể coi việc ra đời của Khối 8406 là việc
làm hấp tấp, càng không thể bảo là «người ta cố tình không phân biệt một
bản tuyên ngôn với một tổ chức». Vả lại, Khối 8406 chỉ là một tập hợp
rộng rãi, nhưng không có Khối 8406 thì làm sao lấy được chữ ký của trên
2300 người trong điều kiện rất khó khăn dưới chế độ cực quyền? làm sao
và lấy danh nghĩa gì để giao tiếp với các tổ chức quốc tế và các chính
khách trên thế giới? làm sao tiếp cận được với báo chí thế giới và công
luận quốc tế?
Moskva 16.07.2007
Nguyễn Minh Cần
Ghi chú:
Trên đây là một số quan điểm, người viết xin thẳng thắn trình bày để mọi
người cùng nhau suy nghĩ. Vì không muốn gây thêm sóng gió cho phong
trào, nên người viết đã không nêu tên các tác giả được trích dẫn. Rất mong
độc giả thông cảm. Các câu trích dẫn đều được copy đúng nguyên văn từ
các văn bản đã có trên mạng.
Chưa bao giờ nhạc khúc hào hùng này âm vang mạnh mẽ và thôi thúc như
lúc này trong lòng người dân Việt Nam có lương tri! Vì sao vậy?
Vì, Đất Nước ta – đã được các đấng Quốc Tổ dựng nên trên mấy
ngàn năm trước và được các tiên liệt đổ biết bao xương máu để gìn giữ –
giờ đây đang đứng trước hiểm hoạ mất “đất”, mất “nước”, mất “đảo”, mất
“biển”, và đang từng bước bị mất chủ quyền… bởi thủ đoạn bành trướng
vô cùng thâm độc của “người láng giềng phương Bắc!”
Mối hiểm hoạ này một phần do số phận an bài cho Đất Nước ta, đặt
Tổ Quốc ta bên cạnh một lân bang cộng sản khổng lồ, đầy tham vọng bành
trướng và âm mưu thôn tính. Một phần khác rất quan trọng là do tháiđộ
và chính sách sai lầm, thiển cận của giới cầm quyền cộng sản toàn trị nước
ta, kể từ Chủ tịch ĐCSVN đồng thời là Chủ tịch nước VNDCCH Hồ Chí
Minh cho đến các Tổng Bí thư ĐCSVN về sau này. Họ đã không nhận
thức rõ âm mưu của các lãnh tụ ĐCSTQ, lại muốn dựa dẫm vào “thiên
triều đỏ” để có được sức mạnh bành trướng quyền lực của mình xuống
phương Nam, nên đã có một thời giới cầm quyền nước ta mù quáng, hết
lòng suy tôn, thần phục “thiên triều” họ Mao đến nỗi quên cả quyền lợi
quốc gia! Biểu trưng nổi bật của thời này là bức công hàm ô nhục ngày 14
tháng 9 năm 1958 mà Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng đã gửi cho
Tổng lý Quốc vụ viện CHND Trung Hoa, công nhận lãnh hải 12 hải lý của
Trung Quốc, trên thực tế là công nhận các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa thuộc chủ quyền Trung Quốc, bất chấp sự thật lịch sử là hai quần đảo
đó từ xưa đến nay đã và vẫn thuộc chủ quyền nước ta! Hoặc, vì muốn bằng
mọi giá dựa dẫm vào Trung Quốc để giữ được quyền lực của mình trên
đầu trên cổ người dân sau khi các chế độ “xã hội chủ nghĩa” sụp đổ hàng
loạt ở Liên Xô và các nước Đông Âu, giới cầm quyền cộng sản nước ta đã
thực hành một đường lối hết sức nhu nhược là cứ nhượng bộ dần từng
bước trước tham vọng không đáy của “thiên triều” Đại Hán, bất chấp sự
V. Kết Luận
Vì hiến pháp là luật pháp tối cao xác định giá trị pháp lý của nhà nước, do
I.
Chữ “tư pháp” là chữ rất thông dụng trong ngôn ngữ luật pháp Việt Nam.
Chúng ta thường nói đến bộ tư pháp hay các ngành lập pháp, hành pháp,
và tư pháp khi nói đến cách tổ chức guồng máy nhà nước.
Chúng ta không rõ danh từ “tư pháp” xuất hiện từ lúc nào trong ngành luật
pháp tại Việt Nam.
Trước năm 1945, tại Huế, cơ quan quản lý hệ thống pháp luật quốc
gia (ngoài chính phủ thuộc địa) là bộ hình, là một trong sáu bộ của triều
đình. Cơ quan nầy được lãnh đạo bởi một Hình Bộ Thượng Thư. Đó là hệ
thống pháp luật dành cho Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Do không có tài liệu về tổ
chức guồng máy thuộc địa ở Nam Kỳ nên chúng ta không biết cơ quan nào
của chính quyền thuộc địa có nhiệm vụ trông coi hệ thống pháp lý trong
khu vực hành chính của họ.
Cho đến tháng 3 năm 1945, chữ “tư pháp” mới được chính thức xử
dụng trong chính phủ Trần Trọng Kim với sự thành lập bộ Tư Pháp. Vị bộ
trưỏng tư pháp đầu tiên là luật sư Trịnh Đình Thảo (Sau biến cố Tết Mậu
Thân luật sư Thảo đã theo Việt Cộng vào bưng). Đến năm 1946, hiến pháp
Việt nam chính thức thành lập Bộ Tư Pháp như là một bộ phận trông coi
về pháp lý trong guồng máy hành chính quốc gia. Sau khi đất nước chia
đôi năm 1954, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ở miền Bắc và
chính phủ Việt Nam Cộng Hoà (đệ nhất và đệ nhị) ở miền Nam đều dùng
chữ “tư pháp” để chỉ đến ngành luật pháp và toà án. Sau năm 1975 chữ “tư
pháp” chính thức xử dụng để chỉ hệ thống pháp luật suốt từ nam đên bắc.
Chúng ta có thể nói ngang rằng danh từ “tư pháp” để chỉ hệ thống luật
pháp là một từ Hán Việt tương đối mới. Đồng thời chữ “Tư Pháp” trong
II.
Theo sự tìm hiểu của người viết chữ “tư pháp” trong tiếng Việt có ít nhất
là 3 ý nghĩa:
Thứ nhất, theo tự điển “Giúp Đọc Nôm Và Hán Việt” của Tác Giả
Trần Văn Kiệm (1989) chữ “Tư” có 19 nghĩa trong đó nghĩa thứ năm thì
chữ “tư” được định nghĩa như sau:
Tư Quản lý Tư pháp (lo cho pháp luật được thi hành)
Ở đây, chữ tư pháp có nghĩa là thi hành luật pháp. Có lẽ định nghĩa
này là định nghĩa chính xác nhất được dùng để chỉ Bộ Tư Pháp. Đó là cơ
quan có nhiệm vụ thi hành luật pháp quốc gia. Có lẽ vì ý nghĩa này mà
hiện nay chữ tư pháp được dùng để dịch cho chữ Justice (có nghĩa là công
lý) như trong chữ Justice Department của Hoa Kỳ. (theo Tự Điển Việt Anh
của Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam do Phạm Chấn Liêu, Lê Khả Kế,
Phạmetc, xuất bản 1993 NXB TP Hồ Chí Minh, chữ Tư Pháp có nghĩa là
công lý. Tự diển Việt Anh của Nguyễn Văn Khôn cũng định nghĩa Tư
Pháp là Justice.)
Nghĩa thứ hai của “tư pháp” thường dùng để nói đến ngành toà án.
Khi nói đến quan điểm tam quyền phân lập, tức là nguyên tắc chia quyền
lực nhà nước ra làm 3 ngành: hành pháp, lập pháp và tư pháp, thì chữ tư
pháp ở đây có nghĩa là toà án.
Nghĩa thứ ba của tư pháp có nghĩa là luật dân sự (private law), khác
với công pháp (public law).
III.
Vấn đề xử dụng chữ tư pháp cho ba nghĩa nói trở thành một thói quen của
các nhà làm luật và chuyên gia luật pháp Việt nam suốt 50 năm qua. Thói
quen đó trở thành tập quán. Và muốn hiểu chữ tư pháp chính xác người ta
phải đi qua một quá trình tìm nghĩa trong một vài giây trong trí óc. Quá
trình nầy nhanh đến nỗi không ai còn nhận ra sự hiện diện của nó. Nhiều
chuyên gia luật pháp đưọc đào tạo trong nước không còn thấy được sự cần
thiết về sự phân biệt cách dùng chữ “tư pháp” cho các ý nghĩa nói trên.
Theo như nghĩa thứ nhất thì Bộ Tư Pháp phải được hiểu theo chức
năng thi hành pháp luật mà hiến pháp quốc gia qui định. Nhưng Hiến pháp
IV.
Từ phân tích trên, chúng ta có thể nói rằng, cách xử dụng chữ “tư pháp” đã
tạo ra sự rối loạn trong ngôn ngữ pháp lý của tiếng Việt. Sự rối loạn nầy đã
hiện diện hơn 50 năm qua. Nếu không có sự thay đổi cho ra lẽ, chúng ta sẽ
tiếp tục sống với một ngữ vựng để diễn tả các ý niệm luật pháp khác nhau
và rất mâu thuẩn với nhau.
Hơn thế nữa, sự xử dụng từ ngữ không chính xác có ảnh hưởng rất
lớn lao đến tư duy về chế độ dân chủ pháp trị. Cách dùng chữ không chính
xác dễ dàng gây sự rối trí cho người làm luật, chuyên gia luật pháp và
người dân, đặc bìệt là trong quá trình thiết lập chính thể dân chủ pháp trị
cho Việt Nam.
Do đó, theo thiển ý của người viết chúng ta cần xét lại cách xử dụng
chữ “tư pháp” chung cho 3 trường hợp trên. Chúng ta có thể sửa đổi cách
xử dụng chữ “tư pháp” như sau:
• Chữ “Tư Pháp” dùng trong hệ thống tam quyền phân lập nên được
V.
Đất nước hiện đang ở trong một giai đoạn chuyển mình, sửa soạn giã từ
chế độ chuyên chính vô sản, giã từ xã hội đấu tranh giai cấp được xây
dựng trên chủ thuyết Mác Lê, để tiến đến một chế độ dân chủ pháp trị, đa
Tham Khảo:
Việt Nam Sử Lưọc Trần Trọng Kim, ấn bản điên tử
Việt Sử, Phạm Văn Sơn, ấn bản điện tử
Cuộc đời của Nguyễn An Ninh, Đại Nam An Hành
Duy Nhân Cưong Thưòng, Lý Đông A, ấn bản điện tử chinhkhiviet.com
Black Law dictionary, 5th Editition
Spirit of Laws, Montessquieu Internet edition
Tư Điển Giúp Đọc Tiếng Nôm – Trần Văn Kiệm
Phan Bội Châu toàn Tập – Nhà Xuất Bản Thuận Hoá
Cơ cấu (XH tập Một phần của XH bao gồm các tổ chức
hợp các tổ chức tự và hội đoàn tự nguyện nhằm cung cấp
nguyện) cho dân chúng cơ hội hoạt động tập thể
và môi trường phát triển những giá trị và
kỹ năng công dân.
Chức năng (XHDS XHDS là một lãnh vực công nơi đó công
thuộc lãnh vực công dân có thể phát biểu quan điểm dị biệt,
-public sphere) thương thảo, tranh luận và nghị luận để
đạt sư đồng thuận.
Václay Havel:
Xây dựng XHDS trong thời kỳ trước đổi mới của một xã
hội toàn trị cộng sản là quá trình “gỉải thực” để bóc trần
bản chất giả-hiện thực, bước đầu tiến đến dân chủ hóa
Vai trò đạc biệt của trí thức.
O’Donnel & Schmitter:
Xây dựng XHDS là quá trình “tự do hóa không gian xã
hội”.
Đòi hỏi tự do tôn giáo, tư tưởng và sáng tạo, đảm bảo
nhân quyền và dân quyền đặc biệt quyền hội họp, tôn thủ
pháp trị (rule of law) và độc lập với nhà nước
Vai trò đặc biệt của trí thức, chuyên gia, công đoàn độc
lập
Đặc điểm: mau chậm tùy theo đặc điểm lịch sử, văn hóa
của xã hội và đối sách của chính quyền; liên tục trường
kỳ cho tới.khi có một chế độ hay nhà nước dân chủ; có
thể dẫn đến “bạo loạn xã hội”..
1. XHDS VN (những điểm cần chú trọng khi thảo luận)
Khái niệm:
Phần 3:
Tôi đề nghị dành tối đa là 1 tiếng cho phần này để tôi nêu ra những vấn đề
cần thảo luận tập trung để sau đó qúy vị cùng trong từng nhóm thảo luận
đào sâu trước khi đề xuất phương thức chiến lược và công tác mũi nhọn
cho Tĩnh Hội 2008.
1. Nhận diện và đánh giá XHDS tại VN theo 3 góc độ (chủ trương,
yếu tính khách quan và chủ quan, tích cực và tiêu cực, tương quan
của XHDS đối với chính quyền và cộng đồng VN hải ngoại) và
trên 4 tiêu chuẩn:
Nhân quyền –
Khát vọng Ngàn Đời
Emmanuel Kant (1724 - 1804), người đã từng có đóng góp lớn vào việc
nghiên cứu sự vận hành của trái đất, sự tồn tại của Đại Thiên hà vũ trụ nằm
ngoài Thiên hà chúng ta, lại cũng chính là nhà bác học rất thích nhắc đi
nhắc lại câu ngạn ngữ: “Hãy thực hiện công lý đi, cho dù thế giới có tiêu
vong”.
Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền do Liên hiệp quốc công bố
ngày 10 tháng 12 năm 1948 mở đầu rất thống thiết
“Sự xâm phạm và coi thường nhân quyền dẫn đến các hành
động dã man xúc phạm tới lương tâm của nhân loại, và việc xây
dựng một thế giới trong đó con người không còn phải chịu sự
khủng bố và sự khốn cùng, được tự do ngôn luận và tự do tín
ngưỡng là khát vọng cao nhất của con người. Nhân quyền phải
được pháp luật bảo đảm, để mỗi người không còn bị buộc phải -
khi không còn cách nào khác - nổi dậy đấu tranh chống lại sự tàn
bạo và áp bức”.
Ngày 25 tháng 6 năm 1993, hội nghị thế giới về nhân quyền “trịnh
trọng” thông qua Tuyên Ngôn Vienna và Chương Trình Hành Động dưới
đây:
“Hội nghị thế giới về nhân quyền khẳng định lại cam kết trịnh
trọng của tất cả các quốc gia là hoàn thành nghĩa vụ của họ về
thúc đẩy sự tôn trọng ở khắp nơi, thực hiện và bảo vệ tất cả các
quyền con người và quyền tự do cơ bản cho mọi người phù hợp
với Hiến chương Liên hiệp quốc cùng các văn kiện khác liên quan
tới quyền con người và luật pháp quốc tế...” vv...
Từ 1948 đến nay, sau Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền, Liên
Chú Thích:
1- Lý Quang Diệu - Trả lời phỏng vấn “Tuần báo Thời Đại” ngày 14/6/1993
2- Jan Martenson - “Liên Hợp Quốc và Quyền Con Người Hôm Nay và Ngày
Mai”
3- Lang Yihuai - “Thực Tế Nhân Quyền Trong Xã Hội XHCN và Cuộc Đấu
Tranh Vì Nhân Quyền Trên Thế Giới”.
4- Chen Jinda - “Chế Độ Xã Hội và Nhân Quyền” báo Cầu Thị - 1992.
5- Penovski N. - “Hiện Thực Mới Trên Thế Giới và Quyền Con Người”.
6- Nguyễn Hữu Liêm - “Dân Chủ Pháp Trị”.
7- Các Mác - “Góp Phần Phê Phán Triết Học Heghen”.
8- Báo Nhân Dân ngày 18/6
/1993
Đại hội XI đảng CSVN sẽ khai mạc trong quý 1 năm 2011. Nguy cơ tiếp
tục đưa đất nước theo con đường XHCN, để qua bước quá độ này tiến lên
Chủ nghĩa Cộng sản, hầu như vẫn là một khẳng định của những người lãnh
đạo đảng CSVN. Bài viết này nhằm góp phần ngăn chặn nguy cơ đó.
1 - Về chính trị
Được chỉ đạo bởi tinh thần đấu tranh giai cấp, lợi dụng chuyên chính vô
sản, các nhà nước XHCN và đảng Cộng sản đã tiến hành nhiều cuộc thanh
trừng nội bộ hết sức tàn bạo. Không kể chiến tranh giữa các nước, riêng
các cuộc “cách mạng nội bộ” đã tàn sát hàng chục triệu người.
a - Ở Liên Xô
Với chủ trương quốc hữu hóa ruộng đất triệt để, Stalin đã lùa nông dân
Nga vào các trại tập trung một cách dã man và khủng khiếp không thua gì
các trại tập trung của Đức Quốc Xã ở Auschwitz Ba Lan.
Khoảng 61 triệu 911 ngàn công dân Liên Xô bị chết trong các trại tù
Gulag của Liên Bang Xô Viết.
Lãnh tụ cộng sản không chỉ giết công dân mà giết cả đồng chí của họ,
Khroutsev đã báo cáo trong phiên họp Đảng ngày 25 tháng 11 năm 1956:
b - Ở Trung Quốc
Nhằm gò ép đất nước vào con đường XHCN theo cách hiểu, cách nghĩ của
mình, Mao Trạch Đông đã tiến hành hàng loạt cuộc thanh trừng nội bộ qua
những cái gọi là “Chống xét lại, phòng ngừa xét lại”, “Ngăn chặn diễn biến
hòa bình”, “Tiếp tục cách mạng dưới nền chuyên chính vô sản”, “Ngăn
chặn phục hồi chủ nghĩa tư bản”, “Chống phái đương quyền đi con đường
tư bản chủ nghĩa trong Đảng”, “Lôi ra nhân vật kiểu Khrousev” ….
Riêng cuộc Đại Cách mạng Văn hóa tiến hành trong 10 năm đã giết
chết 20 triệu người, 100 triệu người bị đem ra đấu tố. (Theo Diệp Kiếm
Anh tiết lộ tại lễ bế mạc Hội nghị công tác Trung ương ĐCSTQ ngày
13/12/1978). Tám mươi phần trăm đảng viên cộng sản cương trung bị xử
lý trong cuộc Đại cách mạng này. Từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung
hoa thành lập năm 1949 đến ngày Mao Trạch Đông chết (1976), không
chính thức có nội chiến, không có thiên tai nghiêm trọng mà số người chết
không bình thường lên tới 57, 55 triệu. Lớn hơn rất nhiều so với số tử vong
trên toàn cầu trong Đại chiến Thế giới thứ hai.
Chế độ độc tài toàn trị kiểu Cộng sản cho phép các “lãnh tụ tối cao”
không chỉ tàn sát dân lành mà cả các đảng viên của Đảng. Không chỉ đảng
viên thường mà cả các lãnh tụ khác. Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ cũng bị
Mao Trạch Đông hạ sát rất thê thảm.
Lâm Bưu, người từng được Mao hứa truyền ngôi song chỉ vì dám làm
phật ý, đã bị cho nổ máy bay chết tan xác cùng vợ, con trên đường trốn
chạy.
c - Ở Campuchia
Quan triệt tinh thần cách mạng triệt để, cách mạng vô sản phải thông qua
bạo lực tiêu diệt toàn bộ những tàn tích các chế độ cũ, xây dựng một thiên
đường cộng sản hoàn toàn mới, chính quyền cộng sản Camphuchia trong
thời gian cai trị từ 14/04/1975 đến 07/01/1979 đã tàn sát 2.035.000 người
dân Campuchia vô tội. Tuân theo giáo huấn của “Tuyên ngôn ĐCS”: “Chủ
d - Ở Việt Nam
Không kể cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn vì ý thức hệ, cuộc chiến
tranh không phải “vì ta ba chục triệu con người”, mà “vì ba ngàn triệu trên
đời” (Thơ Tố Hữu) đã tiêu phí 1, 1 triệu liệt sỹ, 559 200 thương bệnh binh,
hơn 300.000 người mất tích, hơn 2 triệu dân thường bị chết, hơn 2 triệu
người lớn và trẻ em bị tàn tật, nhiều cuộc đàn áp phi nhân tính đã diễn ra,
nhiều vết thương tinh thần còn xiết đau tâm can dân tộc không biết đến bao
giờ mới nguôi ngoai:
- Học tập cách mạng thổ cải của Trung Quốc, Cải cách Ruộng đất ở
Việt Nam đã treo cổ, chôn sống, xử bắn, đầy đọa cho đến chết hàng loạt
người dân Việt Nam không chỉ vô tội mà còn là những nhân tài kinh tế
nông nghiệp bị quy địa chủ, phú nông. Không ai đếm xuể và ước định
chính xác được con số thảm họa này. Mười lăm ngàn theo tuần báo Times
ngày 1 tháng 7 năm 1957 hay 500.000 người theo nhà văn-nhà báo Pháp
Michel Tauriac. Thống kê chính thức của nhà nước Việt Nam được đăng
trong cuốn “Lịch sử kinh tế Việt Nam” (tập hai) cho biết là đã có 172.008
người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông mà theo quan điểm của
những người thực hiện cuộc cải cách ruộng đất lúc bấy giờ, đây là những
người bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị “đào tận gốc, trốc tận rễ”.
Điều này đồng nghĩa với việc họ có thể bị bắn tại chỗ hoặc bị lănh án tù rồi
chết trong nhà giam.
- Chỉ v́ đòi được tư do tư tưởng để tinh thần văn nghệ sỹ có cơ hội
thăng hoa trong tác phẩm, đòi văn nghệ được thoát khỏi xiềng chính trị,
đòi trả văn nghệ về phục vụ cho nhân dân chứ không chỉ phục vụ Đảng mà
2 - Về kinh tế
Sau Đại chiến Thế giới lần thứ Hai, trừ Mỹ, tất cả các nước đều phục hồi
đất nước theo con đường kinh tế TBCN. Không kể Nhật Bản từ đống tro
tàn của mấy quả bom nguyên tử đã vươn cao vời vợi thành một trong hai
cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới, tất cả các nước TBCN ngày nay
không chỉ dân chủ hơn, công bằng hơn mà còn giầu mạnh hơn, văn minh
hơn các nước XHCN.
Trong khi đó, Cuba khi mới gia nhập gia đình XHCN đã mang theo
một La Habana hoa lệ nổi tiếng toàn cầu, đời sống nông dân không kém
các nước TBCN là bao, thế mà nay, phải ngửa tay xin cái anh bạn nghèo
Việt Nam mấy tấn gạo, vài cái computer...
Triều Tiên xác xơ đến nỗi nhân dân tìm mọi con đường trốn khỏi đất
nước không chỉ để thoát khổ nghèo mà còn để thoát khỏi cái địa ngục tinh
thần XHCN ấy. Trong khi đó Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của ĐCS đang
trở thành “kẻ cố cùng” đem vũ khí nguyên tử ra quấy rầy cộng đồng quốc
tế, để ân vòi, ăn vạ và dọa phá bĩnh!
Chú thích:
(*) Rút trong cuốn “Mao Trạch Đông ngàn năm công tội” của Tân Tử Lăng
(**) Trong cuốn Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại “Nhân Văn - Giai
Phẩm” trên mặt trận văn nghệ, nhà xuất bản Văn Hoá, 1958.
(***) Lời tựa viết cho bản tiếng Nga quyển “Hồ Chí Minh, Những bài viết và nói
Trong những tháng đầu năm 2006, chúng ta đã chứng kiến sự trưởng thành
và phát triển mạnh mẽ của phong trào vận động cho thể chế dân chủ trong
nước, có sự tham gia của cả đảng viên Cộng sản và người ngoài đảng.
Mục tiêu cũng như khát vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam là xây
dựng một xã hội tự do, dân chủ, công bằng và bác ái với một thể chế chính
trị đa nguyên, đa đảng.
Để đạt được mục tiêu và khát vọng đó thì phải khôi phục lại sự hoạt
động của các đảng chính trị từng có ở Việt Nam trước đây như đảng Xã
hội, đảng Dân chủ, Quốc Dân Đảng, Đại Việt, … và phải có sự ra đời của
những đảng phái chính trị mới.
Tôi là một luật sư hoạt động trong lĩnh vực nhân quyền và tự do tôn
giáo trong nhiều năm. Dưới đây, tôi đưa ra những nghiên cứu và quan
điểm của cá nhân tôi về quyền tự do thành lập đảng ở Việt Nam trong lịch
sử và theo Hiến pháp, pháp luật hiện hành.
Tôi mong muốn có sự đóng góp ý kiến cũng như tranh luận của các
luật sư, các nhà nghiên cứu pháp luật trong và ngoài nước nhằm cổ vũ cho
sự khôi phục lại hoạt động cũng như sự thành lập mới của các đảng phái
chính trị ở Việt Nam.
Về mặt lịch sử
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở Việt Nam có rất nhiều đảng
phái chính trị cùng hoạt động bình đẳng với đảng Cộng sản, và tất cả điều
có mục tiêu chung là dành độc lập dân tộc. Và ngày 2-9-1945 trong Tuyên
ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh tuyên bố với nhân dân Việt Nam và thế giới rằng: “Tất
Nguồn:
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/story/2006/04/060425_quyenlapdang.s
html
Ngày nay những gì được gọi là tư tưởng của Hồ Chí Minh đã trở thành nền
tảng lý luận, và là chỗ dựa tinh thần cũng như để che đậy sự cai trị độc
đoán, chuyên quyền của đảng cộng sản Việt Nam. Gần đây bộ chính trị
cộng sản đã ra chỉ thị 06-CT/TW để yêu cầu toàn dân học tập tư tưởng,
đạo đức Hồ Chí Minh, tiếp theo ngày 16-1-2007 ra quyết định số 35-
QĐ/TW thành ban chỉ đạo trung ương cuộc vân động toàn dân học tập tư
tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Vậy Hồ Chí Minh có tư tưởng gì mà những
người cộng sản phải tiêu tốn nhiều tiền của của nhân dân để nghiên cứu rồi
bắt học sinh, sinh viên, nay là là toàn dân học tập. Sau khi tôi đã đọc quyển
giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh do nhà xuất bản chính trị quốc gia phát
hành tháng 8 năm 2006 và đọc một số cuốn sách viết về tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tôi chỉ thấy trong con người của Hồ Chí Minh có hai nhận thức
quan trọng nhất và mang tính nền tảng trong cả cuộc đời hoạt động chính
trị của ông, nhưng trong suốt 60 năm qua đảng cộng sản Việt Nam đã cố
tình quên lãng, không áp dụng trong đường lối của họ. Hai nhận thức quan
trọng đó là: Nhận thức về tư tưởng dân chủ, tự do, bình đẳng của Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 của Đại cách mạng Pháp, Nhận
thức thứ hai đó là về tư tưởng dân chủ, về giá trị quyền sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của
Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Hồ Chí Minh không có những tư tưởng của
riêng mình, mà ông chỉ tiếp thu và làm theo tư tưởng của những người đi
trước như Mác, Lê Nin, Mao.
Nhận thức về tư tưởng dân chủ của cách mạng Pháp và cách mạng
Mỹ đã được Hồ Chí Minh thể hiện trong Tuyên ngôn Độc lập được đọc tại
quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945 khai sinh ra nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà. Và trong Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam năm 1946.
Mở đầu Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã trích dẫn Tuyên ngôn
Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền của Cộng hoà Pháp năm 1789, điều này cho thấy Hồ
Chí Minh mong muốn xác lập vững chắc những nguyên tắc bảo vệ quyền
cá nhân con người trước quyền lực, khẳng định các quyền tự nhiên không
Trong bài viết trước của tôi về công dân Việt Nam có quyền tự do thành
lập đảng, đã nhận được những ý kiến đóng góp tích cực từ nhiều phía, và
trong đó chủ yếu là những ý kiến ủng hộ đa đảng hay phản đối việc đa
đảng.
Những ý kiến phản đối việc đa đảng thì cho rằng do trình độ dân trí
còn thấp, người dân chưa đủ khả năng và hiểu biết về một xã hội dân chủ
nên việc đa đảng sẽ gây ra nhiều bất ổn trong xã hội.
Trong bài viết này tôi sẽ đưa ra những minh chứng cho việc người
dân Việt Nam hoàn toàn có đủ tri thức và khả năng để tiếp thu và xây dựng
một Nhà nước dân chủ, đa đảng.
Trước hết, chúng ta hãy ngược dòng lịch sử của dân tộc về những
thập niên đầu tiên của thế kỷ 20. Lúc đó dưới sự áp bức, cai trị của chủ
nghĩa thực dân, nhu cầu đánh đuổi thực dân, giải phóng dân tộc để dành
độc lập đã lan rộng trong nhân dân, đặc biệt là tầng lớp trí thức.
Trong một bài viết năm 2006, ông khẳng ñịnh luật Việt
nam không ngăn cấm công dân lập chính ñảng mới, bằng
chứng là sự tồn tại của các Đảng Dân chủ Việt nam và Đảng
Xã hội Việt nam cho ñến năm 1988.
Ông không tham gia ñảng phái nhưng làm tư vấn pháp lý
không chính thức cho nhiều ñảng phái thành lập trong thời
gian ñó. Ông góp phần ñáng kể vào sự ra ñời của Khối 8406.
Ông ñược trao giải Nhân quyền Hellman-Hammet năm
2007.
Ông cùng Ls. Lê Thị Công Nhân, kỷ sư Phạm Văn Trội, và
một số các nhà hoạt ñộng trẻ khác thành lập Ủy ban Nhân
quyền Việt nam.
Ông bị bắt, cùng thời gian với Ls. Lê Thị Công Nhân, vào
năm 2007, lãnh án 5 năm tù.
Nguồn: bbc.com
Cách nay khá lâu, từ việt nam, một người quan tâm tới công cuộc tranh
đấu cho dân chủ việt nam gởi ra hải ngoại đóng góp ý kiến cho một
chương trình hội thảo về tình hình việt nam, có nhận xét để mô tả quan hệ
giửa người tranh đấu với tình trạng xã hội ở Việt nam ngày nay: « xã hội
việt nam ngày nay như một đóng rơm ướt đẩm nước lâu ngày. Những cây
diêm quẹt ném vào đóng rơm tắc ngay, không đủ sức làm khô đóng rơm.
Đốt cháy đóng rơm, chưa biết bao giờ ».
Cây diêm quẹt đốt cháy đóng rơm ngụ ý chỉ nhằm giựt dậy xã hội về
ý thức tranh đấu thay đổi chế độ độc tài toàn trị tiến lên dân chủ tự do.
Tiến hành công cuộc tranh đấu mới là đại sự. Là cả chuyện đội đá vá Trời.
Mà xưa nay, bắt tay vào làm việc lớn thường lại chỉ có ít người Đó là
những người thấy trước việc phải làm vì bộn phận đối với đất nước, với
dân tộc. Họ là những trí thức, những con người ưu tú của xã hội.
Nhưng nếu trí thức tự giam mình trong định kiến mù quán, sai lầm
trong một giai đoạn lịch sử, trong quyền lợi cá nhân, không nhận thấy lẽ
phải, tiền đồ dân tộc, thì không có gì nguy hiểm cho bằng. Người trí thức
trong trường hợp này tự bóp chết sứ mệnh trí thức ngay ở bản thân mình.
Do trí thức mất đi ý thức thời cuộc và khả năng suy tư. Xã hội vì đó ù lì,
không phát triển tiến bộ. Đất nước bị thụt lùi trước những bước tiến của
Nhận xét
Trong một bức thư gởi TW đảng, nhiều nhà cách mạng lão thành nhận
định Đảng đang ở vào tình thế hầu như rất khó thoát khỏi thảm trạng đổ vỡ
cả về tư tưởng và tổ chức. Uy tín của Đảng, lòng tin của nhân dân, của
chính đảng viên đang trong trạng thái khủng hoảng nghiêm trọng (Gs
Tương Lai, Đảng phải là đảng của dân, Internet).
Biến chất, tham nhũng, bao che, dung túng tệ nạn tạo thành hệ thống
cùng nhau cướp đất của dân, tạo sự đối kháng giữa nông dân với Đảng,
chính quyền.
Ở Việt nam ngày nay, tiền quyết định tất cả. Gian ác bao trùm lên xã
hội. Hố ngăn cách giàu nghèo quá nghiêm trọng. Những người lương thiện
cơ hồ như không có đất sống cho mình.
“Vụ án chính trị siêu nghiêm trọng” đã được kết luận từ những nhiệm
kỳ Đại hội trước nhưng đến nay đã không xử lý. Tổng bí thư kiêm Bí thư
Đảng ủy quân sự TƯ đã bao che. Và một việc đặc biệt lưu ý là Lê đức Anh
được tặng huy hiệu 70 năm tuổi Đảng. Gần đây có khá nhiều đảng viên bất
mản tố cáo nó đã liên kết với cơ quan tình báo Trung Quốc để nhằm củng
cố phe cánh cầm quyền, không quan tâm tới quyền lợi đất nước.
Trên đây là những điều kiện khách quan để thay đổi chế độ đã hội đủ
và sẳng nhưng phong trào Dân chủ chưa đủ sức đứng dậy làm cuộc thay
đổi.
Vậy ở Việt nam thật sự có Phong trào Dân chủ hay chỉ có những
người bất đồng chánh kiến?
Phải nói ở Việt nam chưa có một Phong trào Dân chủ đúng nghĩa của
nó. Vì xã hội có nhiều mâu thuẩn, xung đột giửa đảng và chánh quyền với
công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên nên xuất hiện đây đó những
người lên tiếng phê phán chế độ, đòi hỏi chế độ cải thiện hoặc nhiều lắm là
thay đổi chế độ cho dân chủ hơn. Phần lớn dựa vào đảng đang cầm quyền
đòi hỏi thay đổi, loại bỏ người xấu bằng người tốt. Chưa có ai đưa ra đề
nghị có giá trị cơ chế thay đổi như thế nào để thuyết phục những người
cùng có chung ý muốn thay đổi để tổ chức thành một phong trào rộng lớn.
Cho tới nay, người có nhiều tên, có nhiều năm sanh khác nhau, mang
nhiều huyền thoại, phải nói khó có ai hơn được Hồ Chí Minh ở Hà nội.
Sách vở, báo chí, đủ các loại phương tiện tuyên truyền về ông, nếu gom lại
được, là cả một khối lượng không có chổ chứa. Dân chúng trên thế giới, cả
dân phi châu, mặc dầu không học lịch sử Việt nam, có thể biết hoặc một
lần nghe qua tên Hồ Chí Minh.
Nhưng những hành động thật của Hồ Chí Minh phương hại đến dân
tộc Việt nam, sự thật về cuộc đời của ông, về bản chất con người của ông,
thì ít có người biết rỏ bởi Chánh quyền ở Việt nam bưng bít, che dấu để
biến ông trở thành một con người không tì vết, trong suốt như pha-lê. Hơn
nữa, chính Hồ Chí Minh cũng tìm cách che dấu những hành động của ông,
đời tư của ông. Những điều được phổ biến về ông đều do bịa đặt, thêu dệt
ra nhằm đánh bóng ông thành một thứ thần tượng cộng sản cho mục đích
tuyên truyền chánh trị mà thôi.
Khi đề cặp tới Hồ Chí Minh, người dựa vào những thông tin chánh
thức, kẻ phủ nhận nên Hồ Chí Minh trở thành một thứ hiện tượng quái gở
của giai đoạn lịch sử chiến tranh việt nam vừa qua. Và cũng nhờ đó mà Hồ
Chí Minh được tồn tại.
Nay chúng tôi nhắc lại hai chi tiết trong thời hoạt động của ông vào
đầu thập niên 1940 như ông có bị Tưởng Giới Thạch cầm tù không? Và
thật tình ông có phải là tác giả Tập Thơ Tù (Ngục Trung Nhật ký) không?
(Những chi tiết khác về đời tư của ông như ông có học ở Quốc Học Huế
không, thật sự học tới lớp mấy, có tham dự cuộc biểu tình chống thuế ở
Huế năm 1908, có dạy học ở Trường Tư Dục Thanh, Phan Thiết, không?
Chúng tôi sẽ dở lại tập hồ sơ đó vào một dịp khác).
Trả lời những câu hỏi nhỏ này, chúng tôi xin nhường lại cho độc giả
và cũng rất mong được độc giả chia sẻ với chúng tôi sau khi đã đọc qua
những tài liệu của chúng tôi trích dẩn dưới đây.
Việt nam
và Con đường Phục hưng
Đất nước
Sau một thời gian tăng trưởng kinh tế ở mức cao (8-9%/năm), nền kinh tế
Việt Nam đang trong thời kỳ suy giảm. Năm 1998 mức tăng trưởng đạt 5,
8%, năm 1999 là 5%. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm 1998 chỉ bằng
1/3 của năm 1997 và năm 1999 bằng 1/3 năm 1998. Vấn đề quan trọng là
xu hướng giảm của tăng trưởng kinh tế và đầu tư nước ngoài ngày càng rõ
nét. Tình trạng tham nhũng trở thành quốc nạn tham nhũng đã được Đảng,
Quốc hội, Chính phủ và nhân dân thừa nhận. Tệ nạn xã hội - nỗi đau lớn
nhất của dân tộc - đang phát triển không gì ngăn cản nổi. Gần đây, người
ta khám phá ra vụ buôn bán, tiêu thụ ma túy lớn nhất từ trước tới nay, vụ
án được xét xử ngày 13-6 tại Nam Định.
Trước tình hình thực tế của đất nước, có hai cách nhìn nhận, lý giải và
đánh giá. Theo quan điểm chính thống của Đảng và nhà nước thì rõ ràng
những thành tựu mà nước ta đạt được trong thập kỷ vừa qua là vô cùng
ngoạn mục. Tuy nhiên, mấy năm cuối thập kỷ, do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế - tiền tệ châu Á, mức tăng trưởng của nền kinh tế có
phần giảm sút song vẫn ở mức cao nhất khu vực và châu Á. Quốc nạn
tham nhũng thì Đảng và Chính phủ, Quốc hội cũng không bao giờ quên.
Bài diễn văn nào, cuộc họp nào cũng nhắc tới, thậm chí những cuộc tiếp
xúc ngắn ngủi giữa lãnh đạo Đảng với dân, tham nhũng cũng bị đưa ra bàn
bạc, mổ xẻ. Tệ nạn xã hội đích thị là do kinh tế thị trường (mặt trái của
kinh tế thị trường). Không còn phải nghi ngờ gì nữa, chúng ta chấp nhận
kinh tế thị trường cũng phải chấp nhận mặt trái của nó và tệ nạn xã hội là
đương nhiên. Vấn đề là giáo dục đạo đức và khắc phục mặt trái của kinh tế
thị trường.
*
Bài viết này tập hợp tất cả trí tuệ và tâm huyết của bản thân tôi. Với tâm
niệm rằng, cần phải có một đảng chân chính và trung thực ngay từ buổi
đầu thành lập, bằng phương thức đấu tranh công khai và hoà bình cho Tự
do và Dân chủ ở Việt Nam. Tôi biết rằng, có thể tôi sẽ phải hy sinh nhưng
vẫn tin tưởng tuyệt đối là: Lịch sử sẽ sang trang, nhân dân Việt Nam nhất
định sẽ được hưởng Tự do và Dân chủ trong một tương lai không xa nữa.
Và trên nền của Tự do và Dân chủ, nhân dân Việt Nam sẽ làm cho cả thế
giới phải kinh ngạc về dân tộc mình, đất nước mình không kém những gì
họ đã làm trong lịch sử.
Nguyễn Vũ Bình
Trong thời gian gần một năm qua, những người Việt Nam yêu nước không
phân biệt nguồn gốc chính trị, đều sửng sốt, đau lòng và phẫn nộ khi được
biết hiệp định biên giới Việt - Trung được ký kết và phê chuẩn lén lút làm
thiệt hại hàng trăm km2 đất đai tổ tiên cha ông để lại. Đã có rất nhiều
người lên tiếng, nhiều bài viết, bài nói và giải thích khác nhau xung quanh
vấn đề này. Sau khi đuợc tiếp cận với những bài viết và tài liệu cũng như
những phản kháng, kiến nghị của rất nhiều người Việt Nam trong và ngoài
nước, Tôi có một số băn khoăn, thắc mắc xung quanh vấn đề biên giới Việt
- Trung. Qua thời gian nghiên cứu, tìm hiểu, Tôi đã đi tới nhận thức về vấn
đề này.
Trước hết, tại sao lại có sự khác biệt rất lớn giữa thông báo của Nhà
nước về hiệp định biên giới trên bộ với những nguồn thông tin khác. Theo
thông báo của Nhà nước Việt nam, trong số 227 km2 đất đai tranh chấp
suốt dọc biên giới, bằng các nguyên tắc phân chia đuợc che chắn khá kỹ
luỡng, phía Trung Quốc đuợc chia 114 km2 và phía Việt Nam là 113 km2.
Trong khi đó các nguồn tin khác lại khẳng định, diện tích đất đai phía Việt
Nam bị mất là từ 720 km2 - 900 km2.
Phải hiểu vấn đề này như thế nào? Liệu có phải một trong hai nguồn
thông tin này không chính xác hoặc là sự bịa đặt hoàn toàn? Câu trả lời là
cả hai nguồn tin này đều đúng!
Mỗi nguồn thông tin đều có cách đặt vấn đề và cách giải thích theo
cách đặt vấn đề đó. Đối với nguồn thông tin Việt nam bị mất từ 720 km2 -
900 km2 thì đối tượng so sánh là hiệp định biên giới Việt - Trung vừa ký
kết, với hiệp định biên giới Pháp - Thanh. Theo đó diện tích đất đai bị mất
có thể không chỉ bắt đầu từ hiệp định mới ký kết mà từ nhiều năm trước
đó. Còn với thông báo chính thức của Nhà nuớc Việt Nam, diện tích đất
đai bị tranh chấp chỉ là sự so sánh trên thực tế trong một giai đoạn nhất
định, có thể là từ truớc và sau cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung
(1979 - 1986). Một ví dụ là địa danh ải Nam Quan, trên thực tế đã bị mất
vào tay Trung Quốc từ khá lâu trước cuộc chiến tranh biên giới, nhưng chỉ
đến bây giờ người ta mới được biết điều đó (đọc bài “Hận Nam Quan ngày
Nguồn:
http://www.shcd.de/dautranh%20DC/nguyenvubinh/ban%20dieu%20tran
%20ve%20tinh%20tranh%20nhan%20quyen%20VN.html
Việt nam
Sau Ba Mươi Năm Xa cách
Trở về Việt Nam sau ba mươi năm lìa xa, tôi đã đi không ngừng, Saigon ra
Trung, Hà Nội vô Nam; và mong sẽ quên chuyện non nước mình, như qua
lời bản nhạc Tôi Sẽ Đi Thăm của Trịnh Công Sơn. Càng đi tôi càng nhận
thức rằng chúng ta không nên quên chuyện non nước mình. Muốn hướng
tới một tương lai công bằng, dân chủ, văn minh, giàu mạnh ta phải nhớ quá
khứ; nhớ để tha thứ chớ không phải nhớ để nuôi dưỡng hận thù. Theo tôi,
ngày 30/4/75 là ngày thống nhất đất nước, gỉai phóng miền Bắc khỏi sự cơ
cực, dối trá; và không phải là ngày mà cả nước đều đi chung cuộc mừng
với các nhà lãnh đạo Cọng Sản ở Ba Đình.
Tôi đã thấy gì trong chuyến đi thăm xuyên Việt hồi tháng 12/06? Một
nước Việt đang tiến bước và thay đổi rất nhiều. Hà Nội có một nếp sống đô
thị đích thực, khởi sắc, sôi nổi chớ không gượng gạo, dè dặt và buồn như
thời thập niên 80. Thủ đô nước Việt Nam đứng hàng thứ sáu trên cả Bắc
kinh trong cuộc bình chọn 10 thành phố du lịch hấp dẫn nhất ở Châu Á.
Còn Sài Gòn thủ đô của một chế độ đã chết, giờ mang tên mới Thành phố
Hồ Chí Minh hết còn là Hòn Ngọc Viễn Đông, bị tụt hậu tuy có nhiều sửa
sang, xây cất. Nón cối, dép râu, aó quần xộc xệch của cán bộ đã biến đi
đâu mất. Giao thông trong thành phố Saigon Hà Nội là một khủng hoảng
lớn. Giờ cao điểm xe cộ rối nùi; mạnh ai nấy lách, lấn. Đi bộ băng qua
đường là một thử thách. Du khách phải liều và bình tĩnh tiến bước mới
được. Taxi và xe ôm rất thông dụng. Saigon có gần tám triệu dân mà số xe
gắn máy là bốn triệu chiếc.
Chuyện đánh cho Mỹ cút cho ngụy nhào, giờ đã xưa rồi vì rằng Mỹ
không có cút và ngụy cũng chẳng có nhào. Đổi mới thực chất chỉ là trở về
cái cũ. Thật vậy, ảnh hưởng Mỹ và ảnh hưởng của các con rồng, con cọp
kinh tế Á Châu như Nam Hàn, Đài Loan, Singapore, Mã Lai Á, Thái Lan,
Phải mở một Mặt trận Bảo vệ Quyền và Điều kiện lao động
Công nhơn. Hàng hoá Việt nam phải có Đạo đức và Môi
trường.
KẾT LUẬN.
Con đường Phát triển của Việt Nam phải đi với Hoàn cầu hóa.
Ngày nay hiện tượng Hoàn cầu hóa đang bộc phát một cách vô trách
nhiệm.
Luân lý hóa, Đạo đức hóa Hoàn cầu hóa cũng là bổn phận của mỗi
chúng ta. Đem được Đạo Đức vào Phát triển kinh tế Việt Nam, đem được
Môi trường vào Phát triển Việt Nam, đó cũng là làm một cuôc cách mạng
biến đổi được chế độ chánh trị và Dân chủ hóa Việt Nam.
Tháng Tư là một tháng đầy đen tối, tủi nhục của Việt nam.
Tháng tư nhắc nhở cho mỗi chúng ta, người Việt tỵ nạn cộng sản,
những ngày đau khổ của tháng tư năm 1975. Hình ảnh những cơn mưa
pháo bạo tàn xối xả xuống rừng người trốn chạy cộng sản trên con đường
Đông tiến, từ Kontum về Qui nhơn; hình ảnh của bao người chết đuối khi
bơi ra những chiếc tàu để tiến về Nam. Về Nam! Về SàiGòn, về thủ đô, để
may ra… nhưng, rồi Sài gòn vẫn mất, rồi miền nam Việt nam vẫn rơi vào
tay những người vô trách nhiệm, bao nhiêu hình ảnh bi hùng mãi mãi ám
ảnh trong mỗi chúng ta..
Phải, những người vô trách nhiệm, từ ngày 30 tháng tư năm 1975,
đã hoàn toàn thống trị Việt nam, đã đưa Việt nam, một Việt nam hòa
bình, không còn chiến tranh từ đấy, vào một tụt hậu kinh tế chưa từng có
trong lịch sử cận đại Việt nam, kể cả một chuổi dài năm tháng khó khăn vì
những cuộc chiến thi nhau tiếp diễn suốt 3 thập niên.
Tháng tư năm nay, năm thứ 31 của những người cầm quyền vô
trách nhiệm, và là một tháng tư ô nhục thêm lần nữa đến với dân tộc Việt
nam.
Dân tộc Việt nam đã làm nên tội gì, mà nay, trên toàn thế giới, hai
chữ Việt nam đang gieo vào đầu những người ngoại quốc bao nhiêu nghi
kỵ ngờ vực, bởi vì Việt nam hiện là một nước ăn gian, làm ăn cẩu thả,
không tôn trong tiêu chuẩn quốc tế, lại còn”dumping”giá cả để cạnh tranh
công ăn việc làm một cách bất chánh với những nước nhập cảng. Hàng da
giày Việt nam bị đặt chung cùng loại với hàng da giày của những người
đại bịp thế giới: Trung Cộng, bằng thứ giá cả ăn gian, khai rẻ để cạnh
tranh và phá giá hàng Âu châu. Nỗi nhục cho quốc thể Việt nam đang bị
xem như một nước chuyên môn ăn gian như nước Tàu cộng. Nhưng
Tàu cộng còn có Đài loan, Singapore, Hồng Kông gỡ gạc, chứ Việt nam
thì cô đơn và bù trớt. Mà lỗi tại ai? Nào phải lỗi ở công nhơn Việt nam, thứ
Mỗi quốc gia là một thực thể bao gồm ba yếu tố chính. Trước tiên là một
lãnh thổ. Sau đó là một tập thể quần chúng, vì những lý do lịch sử khác
nhau, đã cùng nhau chia xẻ một quá khứ và tiếp tục thoả thuận xây dựng
một tương lai chung. Yếu tố thứ ba là một cơ cấu tổ chức chính quyền, gọi
chung là Nhà nước, điều hành cuộc sống tập thể chung...
Trong mọi trường hợp, Hiến pháp của một quốc gia thường được xem
như là một văn bản pháp lý quy định các điều lệ tổ chức Nhà nước, xác
định các nguyên tắc xây dựng Quyền lực Nhà nước và quy chế chỉ định
tầng lớp người điều hành quyền lực đó. Đó là một đạo luật căn bản chi
phối mối tương quan hỗ tương giữa người dân và Nhà nước và xác định
các cơ cấu tổ chức Quyền lực Quốc gia.
Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản là một đảng cầm quyền từ 60 năm nay.
Trong khoảng thời gian này, bốn văn bản Hiến pháp khác nhau đã được
chính thức đưa ra, quy định thể chế chính trị mà Đảng muốn thực hiện
trong những thời kỳ nhất định. Muốn tìm hiểu một phần nào thực chất của
các chế độ này ta chỉ cần đi vào phân tích các văn bản Hiến pháp nói trên.
Điều 1 của Hiến pháp 1946 ghi nhận: “Nước Việt Nam là một nước
dân chủ cộng hòa”, trong khi đó Điều 9 trong Hiến pháp 1959 ghi nhận
thêm: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến dần từ chế độ dân chủ nhân
dân lên chủ nghĩa xã hội...” Đi xa hơn nữa, qua Hiến pháp 1980, Điều 2
khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
chuyên chính vô sản...” Qua Hiến pháp 1992, Điều 2 (được sửa đổi năm
2001) lại ghi nhận: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa...” Điều 6 của Hiến pháp 1992 và
1980, cũng như Điều 4 của Hiến pháp 1959, quy định: “Quốc hội, Hội
đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều được tổ chức và
7. Tổng luận
Ngay từ khi được thành lập năm 1930, Đảng Cộng sản đã đặt mục tiêu
chiếm đoạt chính quyền để thiết lập chế độ Cộng sản trên toàn lãnh thổ
Việt Nam, qua danh nghĩa của một hình thức Dân chủ trá hình.
Nhìn một cách tổng quát, các Hiến pháp lưu hành ở Việt Nam từ 60
năm qua dưới chế độ Cộng sản chỉ phản ảnh các mục tiêu chiến lược,
chiến thuật,... được Đảng dùng trong những thời kỳ nhất định tùy theo mối
tương quan lực lượng giữa Đảng và các thành phần khác. Khi yếu thế thì
dùng chiêu bài Hiến pháp Dân chủ để giữ nguyên vị trí và tiếp tục thực
hiện ý đồ của mình. Khi nắm được quyền lực trên một phần lãnh thổ thì áp
đặt gián tiếp ở đó một chế độ độc tài với chiêu bài của một Hiến pháp Dân
chủ trá hình. Khi đã làm chủ tình thế trên toàn lãnh thổ thì thực hiện ý đồ
của mình một cách công khai và vĩnh viễn...
Thay vì là một văn kiện giới hạn quyền lực Nhà nước, chứa đựng
những căn bản pháp lý kìm tỏa và chế ngự đối với người hành sử Quyền
lực Nhà nước, trong mục tiêu bảo vệ các quyền căn bản của người dân và
do người dân thoả thuận đưa ra, như trong các chế độ Dân chủ hiện đại,...
thì Hiến pháp dưới chế độ Cộng sản Việt Nam chỉ là một công cụ của
Đảng để áp đặt vĩnh viễn sự chiếm đoạt Quyền lực Nhà nước,... phản ảnh
các quan điểm cố hữu đã từng được nêu ra trong lý thuyết cộng sản:
“Đảng Cộng sản là một tổ chức có quy luật và Hiến pháp chỉ là phản
ảnh các quy luật của Đảng (Mao Tse Tung) “
“Hiến pháp là phản ảnh của một tình trạng đã có, đang có và sẽ có
trong tương lai (Lénine) “.
Ta vừa trải qua thế kỷ 20 đầy biến động: nào chiến tranh thế giới lần thứ
nhất, nào chiến tranh thế giới lần thứ hai, nào bom nguyên tử, nào các cuộc
cách mạng mạng ở Nga, ở Trung Quốc, nào thế giới xã hội chủ nghĩa hình
thành, các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở khắp thế giới, trong đó có
cuộc đấu tranh giải phóng của Việt Nam, nào cách mạng văn hóa Trung
Quốc, diệt chủng ở Campuchia, nào sự chia rẽ và đánh nhau của thế giới
cộng sản, nào sự tan rã của Liên Xô và thế giới xã hội chủ nghĩa, nào
những thành tựu kỳ diệu của khoa học kỹ thuật, của vật lý, sinh học, sự
tiến bộ phi thường của tin học, của điện tử, máy tính, rô bô, v.v...
Vì thế, bước vào thế kỷ 21, ai nấy đều hồi hộp và lo âu, vừa lo âu vừa
hy vọng nhìn về phía trước mà phán đoán. Đã có nhiều nhà tương lai học
phán đoán; nhiều triết gia, nhiều nhà chính trị, nhà lý luận, nhà xã hội học
cũng phán đoán. Tôi cũng ngẫm nghĩ và phán đoán, nhưng tôi rất không đủ
tri thức và thông tin để mà phán đoán. Tôi chỉ dựa vào sự hiểu biết hạn hẹp
của mình về các phán đoán và ghi lại đôi điều. Tôi thấy hình như có thể có
ba kịch bản cho thế kỷ 21 như sau:
Kịch bản thứ nhất. Căn cứ vào điều tôi biết về một số nhà lý luận.
Các nhà lý luận này hầu như không quan tâm đến các biến động chính trị
xã hội đã và đang diễn ra ở thế giới. Các vị ấy rất trung thành và kiên định
với tư duy “hai phe, bốn mâu thuẫn” và tính chất thời đại hiện nay là “thời
kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới”. Từ đó suy ra có thể có một kịch bản cho thế giới như sau: Trong thế
kỷ 21 sẽ lại có một nước nào đó vào loại to lớn, phát triển cao, nổ ra một
cuộc cách mạng vô sản, thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa, phát triển ra toàn
thế giới và hoàn thành tính chất quá độ của thời đại.
Kịch bản thứ hai. Cũng với tư duy như trên và có những nhận định:
sự tan rã của phe xã hội chủ nghĩa chỉ là thất bại tạm thời. Chủ nghĩa xã
hội gặp phải bước thoái trào tạm thời. Như vậy thì trong thế kỷ 21, sẽ có
Ai đã sống từ những năm 20-30 của thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 đều có thể
nhìn thấy và chứng kiến 2 tình trạng, 2 bức tranh hầu như trái ngược của
ĐCSVN. Đầu thế kỷ 20 cho đến năm 1945, Đảng Cộng sản có mấy nghìn
Đảng viên mà thực dân Pháp và Phong kiến triều Nguyễn rất hoảng hốt
lồng lộn. Cả một hệ thống nhà tù. Từ Hoả Lò, Sơn La. Lao Bảo, Kon Tum,
Ban Mê Thuột đến Khám lớn, Côn Đảo…, đều đầy ắp tù Cộng sản. Thế
mà cuộc Cách mạng tháng 8/1945 đã thành công. Sau đó thì ở 3 Kỳ chỗ
nào cũng là người mới ở nhà tù ra làm nòng cốt: Bắc Kỳ thì tù từ Hoả Lò,
Sơn La; Trung Kỳ thì tù từ nhà tù Lao Bảo, Kom Tum, Ban Mê Thuột; ở
Nam Kỳ thì tù từ nhà tù Khám lớn, Côn Đảo. Suốt trong kháng chiến
chống Pháp, ở khắp nơi những người Cộng sản làm cán bộ Quân đội và
Chính quyền và sống ở trong dân, đều ăn, ở như dân và đều nổi bật lên về
tính gương mẫu, về chịu đựng gian khổ và hy sinh tính mệnh. Chỗ nào dân
cũng mong đợi, ngưỡng mộ và yêu mến các “cán bộ” cộng sản, chia cơm,
xẻ áo, và lấy cả tính mệnh mình để che chở, bảo vệ cho những cán bộ
Cộng sản.
Và bây giờ, đầu thế kỷ 21 thì tình trạng và bức tranh là: Đảng Cộng
sản là một đảng cầm quyền lãnh đạo bao trùm cả Quốc hội, Chính phủ và
các cơ quan Nhà nước. Những vị trí quan trọng của Bộ máy Nhà nước:
Chủ tịch, phó Chủ tịch, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Giám đốc và phó Giám
đốc Sở, Ty, Hội trưởng, Uỷ viên chấp hành các Hội quần chúng đều phải
là Đảng viên: Đảng viên có sẵn để Đảng chọn xếp vào các vị trí hoặc chưa
là Đảng viên thì phải phấn đấu vào Đảng, rồi mới hòng được bổ nhiệm
chức nọ, chức kia, từ ở phường, xã lên đến huyện, tỉnh và đến cấp Trung
ương, toàn quốc. Trước đây, cán bộ đi sâu đi sát là có bộ áo nâu rách, quần
ống thấp, ống cao, đeo cái bị cói hoặc một tay nải nhỏ đi len lỏi các nơi
hẻo lánh khốn khó, thậm chí rất nguy hiểm. Còn ngày nay, đi sâu đi sát là
xe hơi bóng láng, mới cáu cạnh toàn của các hãng Tư bản nước ngoài danh
tiếng chế tạo, hoặc từng đoàn xe hơi có công an hộ tống dẹp đường, đến
nơi nào đều có đón tiếp ở khách sạn sang trọng nhất, họp mặt ở những hội
trường sang trọng nhất, gặp các người đứng đầu cơ sở hoặc địa phương
1
Hai câu viết của Hồ Chí Minh (theo trí nhớ): có ai nói là Ðảng ta kém dân chủ,
thì chúng ta giận. Nhưng thực tế có thế thật.
*
Cho nên nguyên nhân cơ bản và sâu xa của sự biến dạng (hay biến
chất) này là sự tư duy thấp kém, bảo thủ giáo điều trì trệ, cần phải thấy rõ
sự xuống cấp về trình độ của các thế hệ lãnh đạo, thế hệ đầu với Hồ Chí
Minh và các học trò gần gũi của Người đều là những trí thức, nhiều danh
vọng trong xã hội, có lịch sử đấu tranh Cách mạng gian khổ và quyết liệt.
Thế hệ tiếp sau thì kém đi một bậc nhưng còn ở mức trung bình. Thế hệ
sau nữa thì ở dưới mức trung bình, thực ra sự thật này dân đều biết hết và
đánh giá như vậy. Các bậc lão thành đã qua các triều đại cũng thấy rõ như
vậy. Một số yếu tố quan trọng tác động vào sự biến dạng, biến chất mang
tính mất dân chủ là các tính tình bình thường của những người lãnh đạo là
thích khen, thích nịnh, thích thành tích, sợ sự thật, sợ “trung ngôn, nghịch
nhĩ”… và không đổi mới tư duy, đầu óc đầy tư duy bảo thủ giáo điều, cổ
hủ. Nếu so với các chế độ vua quan phong kiến mạt vận ngày trước thì
những bậc quan lại “đỏ” ngày nay của cái “triều đình phong kiến” Việt
Nam mang nhãn hiệu Cộng hoà xã hội chủ nghĩa cũng chẳng khác là bao!
Cái thứ tư duy vừa thấp kém, lại bảo thủ giáo điều không có khả năng nhận
thức được các điểm về tình hình như sau:
a. Sau 1975 nước ta đã bước hẳn sang một kỷ nguyên mới. Từ chiến
tranh sang hoà bình, từ chiến đấu sang xây dựng, từ chia cắt sang thống
nhất. Giới lãnh đạo không làm một cuộc tổng kiểm điểm và nhận thức sâu
sắc, rõ ràng những cái mới, nhận rõ những cái cũ không hợp thời để mà rũ
bỏ đi, để học tập cái mới. Đại hội VI đã chỉ ra bệnh nặng là chủ quan duy ý
chí và bệnh quan liêu bảo thủ, giáo điều, nhưng sự chữa bệnh không triệt
để nên các bệnh đó còn kéo dài cho đến tận bây giờ.
*
Qua trình bày trên, rõ ràng con đường đi ra phải là con đường có tính
cơ bản toàn cục và toàn diện, chứ không phải là sự khắc phục các mặt cụ
thể vụn vặt ở chỗ này chỗ khác. Con đường đi ra là con đường đau đớn nó
đụng đến những nơi hiểm yếu nhất của cơ thể. Nó phải chữa từ gốc của
vấn đề. Đó là vấn đề thể chế chính trị. Nó đau đớn lắm. Nhưng như cổ
nhân nói “Thuốc đắng mới dã tật”. Việc này chỉ có tự Đảng cộng sản làm,
nghĩa là Đảng phải tự đổi mới mà Đảng đứng ra làm, thì Đảng vẻ vang
hơn, công lao Đảng to lớn hơn; Đảng hiện nay sẽ xứng đáng với Đảng tiền
bối, xứng đáng với Bác Hồ (Bác Hồ đã từng tuyên bố giải tán Đảng và đổi
tên Đảng).
Đó là Đảng Cộng sản phải tự mình từ bỏ chế độ độc Đảng, toàn trị,
*
Nói khác đi là để có con đường thoát khỏi tình hình rối ren phức tạp
của đất nước hiện nay thì chỉ có con đường thực sự dân chủ hoá, tức là
thực sự thực hiện dân chủ đúng như Hồ Chí Minh đã chọn lựa, thì mới làm
cho toàn dân phấn khởi yên vui, phấn khởi huy động được trí tuệ toàn dân
để khắc phục mọi trở ngại mà đưa đất nước phát triển nhanh, ứng phó sáng
suốt mọi quan hệ đối ngoại phức tạp và tế nhị hiện nay. Không nên chỉ
bằng lòng với việc thêm chữ dân chủ vào khẩu hiệu chiến lược mà mọi
việc vẫn y nguyên. Cần phải đả phá, đấu tranh thật mạnh với một ý kiến
sai lầm là cứ “dân chủ mở rộng thì dân sẽ làm loạn”. Đó mới chính là luận
điệu phản động, cực kỳ phản động. Trên thực tế, sự kiện Thái Bình và sự
kiện Tây Nguyên có phải là do dân chủ quá rộng không hay là do chính sự
thiếu dân chủ và những sai lầm trong chính sách, sự không thu thập ý kiến
1
Hai câu viết của Hồ Chí Minh (theo trí nhớ): có ai nói là Ðảng ta kém dân
chủ, thì chúng ta giận. Nhưng thực tế có thế thật.
*
Con đường ra đã rõ ràng. Cần dân chủ hoá đất nước mà trong công
cuộc này vai trò Đảng cộng sản là quyết định. Hãy nên:
1. Từ bỏ thể chế độc Đảng, toàn trị chấp nhận thể chế đa nguyên: Quá
trình dân chủ của thời đại dân chủ, trước sau cũng phải đi tới đa nguyên.
Chế độ độc Đảng hiện nay đã quá lạc hậu.
2. Thực hiện thật sự mấy quyền dân chủ cơ bản: Tự do bầu cử, ứng
cử. Tự do báo chí, xuất bản và ấn loát. Tự do lập hội, lập Đảng và tự do
hội họp.
3. Thực hiện thật sự quên quá khứ: Xoá bỏ hận thù, đoàn kết rộng rãi
nhân dân Việt Nam trong nước ngoài nước, xoá bỏ triệt để thành kiến phân
biệt địch ta: Nguỵ và Chính, người trong nước và tay sai đế quốc nước
ngoài. Thực hiện hoà hợp và hoà giải dân tộc, đoàn kết mọi người Việt
Nam yêu tổ quốc và thiết tha với sự nghiệp tái thiết đất nước tới hùng
cường và dân chủ tiến bộ. Trong khi chỉ cần giữ sự cảnh giác đúng mức.
4. Thực hiện chính xác và thực thà: Những phương châm đối ngoại đã
có “Việt Nam muốn làm bạn với mọi người”, “Độc lập đa phương, đa
dạng...” Tôi nhấn mạnh chính xác và thực thà là muốn trừ bỏ cái tư duy
địch - ta trong đầu óc nhiều người. Tôi muốn nhấn mạnh rằng phải đổi mới
tư duy, ta chỉ nên cảnh giác với những kẻ địch thật, còn đừng có tưởng
tượng lắm thứ kẻ địch, thậm chí muốn tìm cả địch còn trong trứng để bóp
chết, như thế đất nước khó yên bình. Kẻ địch có thật của ta bây giờ có
không? Có! Đó là tình trạng mất dân chủ và sự tham nhũng; hãy dùng các
thủ đoạn cảnh giác đối với 2 kẻ thù tham nhũng và phản dân chủ.
*
Bàn đến đây, tôi thấy là thật sự đã đụng đến các vấn đề đường lối, và
những điều tôi đề cập đến nó là vấn đề đường lối. Ta không đi thẳng vào
nó mà giải quyết thì cứ loanh quanh ở bên ngoài mà không khi nào có hiệu
lực. Đụng đến vấn đề đường lối thì đau nhưng cũng như chữa bệnh phải
chịu đau (thuốc đắng, mổ và cắt) mới khỏi được bệnh. Tôi cứ mạnh dạn
Cuối ñời, tâm sự của ông ñược gói ghém trong bốn
câu thơ:
Những mơ xoá ác ở trên ñời
Ta phó thân ta với ñất trời
Ác xóa ñi, thay bằng cực thiện
Tháng ngày biến hoá, ác luân hồi.
Ai cũng nói đảng phái chỉ là phương tiện để thực hiện lý tưởng phục vụ tổ
quốc. Thực tế không hẳn như vậy. Lý tưởng phục vụ tổ quốc đã bị đẩy lùi
ít nhiều vào hậu trường trước toan tính phục vụ cho đảng, thậm chí phục
vụ cho một cá nhân, bè phái. Làm thế nào để phương châm “Đảng là
phương tiện, Tổ quốc là cứu cánh” trở thành hiện thực?
Trần Ngọc Sơn: Sinh viên Việt nam Cộng hòa, du học tại
Pháp năm 1964.
Hiện sống ở Paris.
Nhà Nước Pháp Trị (NNPT) là một danh từ luật học tiếng Việt dùng để
dịch những thuật ngữ tiếng Anh, Rule of law, tiếng Pháp, État de Droit,
tiếng Đức Rechtsstaat, tiếng Ý, Stato di diretto, tiếng Y Pha Nho, Estado
de derecho, v.v... [1]
Thật ra, thuật ngữ này đã ra đời ở phương Tây vào khoảng những
năm đầu của phần nửa sau thế kỷ 19. Nhưng nó chỉ mới được đặc biệt
chiếu cố vào thập niên 80 của thế kỷ 20. Người Việt chúng ta ít có cơ hội
tìm hiểu nó, thậm chí cho đến những năm gần đây, còn bị cấm ngặt không
được nhắc đến nó. Bài thuyết trình này không lấy khái niệm NNPT làm đối
tượng nghiên cứu chính, nó chỉ nêu lên một số ý kiến về việc tìm cách thiết
lập NNPT trên đất nước của chúng ta, để Việt Nam sớm hội nhập vào nhân
loại văn minh của thế kỷ 21. Đó là lý do vì sao bài thuyết trình này có tựa
đề « Tiến tới một Nhà Nước Pháp Trị », thiên về hành động hơn là về tư
tưởng.
Tuy nhiên không vì thế mà phần tư tưởng sẽ hoàn toàn vắng thiếu
trong bài thuyết trình. Trong mức độ cần thiết, bài này sẽ phải dựa vào
những cơ sở lý thuyết để bàn sâu về một tiến trình thiết lập NNPT, nói
cách khác, để dự liệu một chuỗi hành động đưa tới sự hình thành loại Nhà
nước này cho Việt Nam. Do đó bài trình bày sẽ chia ra làm hai phần.
Phần thứ nhất, tiến tới NNPT trên bình diện lý thuyết, sẽ duyệt xét
một số cơ sở lý thuyết liên quan tới việc xây dựng NNPT nói chung và ở
Việt Nam nói riêng.
Phần thứ hai nhìn lại một số bước cụ thể cho tới nay đã được dự trù
để đi tới NNPT ở Việt Nam.
Trước khi vào thẳng vấn đề, xin được mở một dấu ngoặc về hai điểm.
Thứ nhất, nói về NNPT tuy có vẻ như nói về một điều mới lạ nhưng thực
ra là chỉ là quay trở lại một số hiện tượng cũ, chẳng những trên thế giới mà
cả ở Việt Nam. Đất nước chúng ta từ nhiều thế kỷ trước cũng đã có NNPT.
Có điều đó là một loại NNPT khác với loại NNPT hiện nay. Thứ hai,
người thuyết trình sẽ trình bày quan điểm của một người bàn về tranh đấu
1. Mặt lịch sử
Nhà nước pháp trị ở phương Tây là sản phẩm của một nền văn hóa, phải
nói cổ truyền, về nhân bản, chính trị, tự do, pháp luật, có hàng ngàn năm
tuổi thọ của văn hóa Hy Lạp-La Mã. Nền văn hóa ấy, trải qua các thời đại,
đã kết tinh thành một luồng tư tưởng pháp trị phương Tây rất phong phú,
thể hiện qua nhiều kiểu Nhà nước pháp trị. Có ba kiểu Nhà nước pháp trị ở
phương Tây có thể giúp chúng ta có một ý niệm rõ rệt hơn nữa về khái
niệm Nhà nước Pháp Trị nói chung, nhờ ở đặc điểm của mỗi kiểu. Đó là
Rule of law (Anh), Due process of law (Mỹ), État de droit (Pháp) và
Rechtsstaat (Đức), theo thứ tự xuất hiện của chúng trong lịch sử.
1.1. Nhà nước pháp trị kiểu Anh: Rule of law
Tư tưởng pháp trị đã manh nha rất sớm tại nước Anh. Khởi đầu là
nhu cầu chống những đặc quyền của nhà vua. Một số thời điểm ngày nay
2. Mặt thực tế
Đặt vấn đề NNPT tại Việt Nam trong lúc này mà chỉ chú trọng bàn luận về
khái niệm NNPT hay lịch sử NNPT ở các nước tiên tiến trên thế giới thì sẽ
Tôi đánh bạo trình bày trước các Anh Chị một số suy nghĩ của tôi, dưới
dạng một cái nhìn tổng quát, và sơ lược, về phong trào dân chủ Việt Nam.
Tôi nói “đánh bạo” vì tôi không biết phương pháp phân chia các giai đoạn,
đánh dấu những điểm mốc của một vận động xã hội, như thế nào. Đây
chẳng qua là cái nhìn của người quan sát. Làm người tuyên truyền chắc dễ
hơn. Đối diện với những hiện tượng đan xen, chồng chéo, tuy cùng nằm
trên một hướng chuyển động, tôi bối rối khi gặp những dấu hiệu phân
cách, thậm chí đối nghịch, bên cạnh những điểm trùng hợp, tất yếu giữa
chúng ta có những nhận định khác nhau. Để tránh những tranh luận ngữ
nghĩa vô bổ, tôi đóng khung khái niệm “phong trào dân chủ” được đề cập
ở đây trong ý nghĩa một vận động xã hội, hoàn toàn không phải với với tư
cách một tổ chức đấu tranh.
Cha tôi sai tôi chở ông lên đường Cổ Ngư cũ về phía Chèm. Tới dốc lên
đê, ông bảo tôi dừng xe.
- Con nhớ lấy chỗ này, quãng gốc cây thứ tư và thứ năm từ trên đê đổ
xuống - cha tôi chỉ tay về phía trước - Nơi này đã xảy ra một tấn thảm kịch
mà rồi đây con phải tìm hiểu để mà viết. Nó là tấn thảm kịch có tính chất
tượng trưng cho một sự đổ vỡ lớn của một nền đạo đức và rộng ra, của một
thời đại…
Mắt cha tôi mờ đi. Giọng ông đứt quãng.
- Con không hiểu bố muốn nói gì...
- Lúc này con không hiểu cũng được, hiểu bây giờ vừa sớm, vừa nguy
hiểm. Việc của bố là đánh động trí nhớ của con, bắt nó ghi lại một lời nói
không rõ ràng để đừng quên, sau này... Thôi ta về.
Trên đường về nhà, cha tôi không nói thêm lời nào nữa. Tôi cũng
không dám hỏi. Nếu cha tôi đã không nói, có nghĩa là hỏi cũng vô ích.
Ông Nguyễn Tạo đã giải đáp cho tôi câu hỏi đó, nhiều năm về sau:
- Bố anh không muốn kể vì vào thời câu chuyện xảy ra, bố anh không
còn làm việc với bác Hồ nữa, bố anh mình không nắm rõ, không trực tiếp
biết sự việc, không biết chi tiết, kể không đầy đủ, không khách quan. Hoặc
giả, bố anh sợ anh biết câu chuyện quá sớm thì hại cho anh... Nhưng bố
anh muốn có lúc anh sẽ viết ra. Bố anh bảo tôi kể cho anh nghe cũng
không ngoài ý đó.
- Bác biết?
Ông gật đầu.
- Không phải mình tôi biết. Còn nhiều người biết. Những người trong
ngành công an ở cấp vụ hồi bấy giờ đều biết cả...
- Vậy chuyện gì đã xảy ra ở dốc Chèm, thưa bác?
- Một vụ án mạng oan khuất.
Tôi sung sướng được viết lời tựa cho ấn bản Miền Thơ ấu tại hải ngoại.
Đối với tôi đây là một niềm vui bất ngờ.
Khi đặt bút viết những dòng đầu tiên của cuốn sách mà hôm nay bạn
đang cầm trong tay, tôi không dám tin rằng sẽ có ngày nó được thấy ánh
sáng mặt trời. Lại càng không thể hình dung được rồi đây nó sẽ tới tay
những người con bất hạnh của nước Việt đau thương giờ đây lưu lạc bốn
phương trời.
Đối với tôi, cuốn sách này có ý nghĩa đặc biệt. Một thời nó đã là
người bạn tâm tình, là cái nạng cho tôi vịn vào mà đi trên con đường vô
định.
Tại Hỏa Lò Hà nội, một viên chấp pháp đã nói với tôi một câu thế
này: “Anh bảo anh không sợ chết. Thế thì tôi phải nói để anh biết rằng có
những cái còn đáng sợ hơn cái chết. ở đây lâu rồi anh khắc biết”. Câu này
tôi nhớ mãi. Càng ngẫm càng thấy anh ta có lý. Cái đáng sợ hơn cái chết
mà anh ta muốn nói là sự ở tù vì tội chính trị. Anh cứ việc nằm xà lim dài
dài, mà không bao giờ biết được ngày về.
Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, cũng như nhà cầm quyền ở bất
cứ quốc gia cộng sản nào khác, rất khoái áp dụng cái chết từ từ cho các đối
thủ chính trị. Người ta tuyên bố không một chút ngượng ngập rằng chuyên
chính vô sản là thể chế không cần tới pháp luật. Trong thể chế này mỗi
công dân là một người tù dự khuyết. Sinh mạng anh ta nằm gọn trong tay
đảng cầm quyền. Cho tới nay, chưa có một thống kê nào đáng tin cậy về số
người bị chết mòn mỏi trong nhà tù tại các quốc gia được gọi là xã hội chủ
nghĩa.
Xà lim có nhiều loại, nhiều kiểu, như mọi người Việt Nam đều biết,
gián tiếp hoặc trực tiếp. Tựu trung, chúng giống nhau ở chỗ xà lim nào
cũng là một căn phòng hẹp, nếu ta có thể gọi cái chuồng người này là căn
phòng, với rất ít ánh sáng và rất nhiều hôi thối. Thêm một cái cùm sắt ở
cuối phản nằm - biểu tượng khắc nghiệt của quyền uy. Tôi ở qua nhiều xà
lim, tính ra gần bốn năm rưỡi liên tục.
11-11-2002
Ông là con cụ Vũ Đình Huỳnh, thư ký
riêng của ông Hồ Chí Minh. Ông bị bắt
năm 1967, sau cha hai tháng, ñi tù 9
năm trong "vụ nhóm xét lại chống Ðảng".
Tác phẩm Miền thơ ấu, viết trong tù
trên những mảnh giấy vụn góp nhặt, xuất
bản sau khi mãn án, ñược giải thưởng của
Hội Nhà văn Việt Nam năm 1988. Sách
Vũ Thư Hiên
ñược nhà Văn Nghệ tái bản ở hải ngoại
năm 2002.
Năm 1993 ông sang Nga làm phiên dịch cho một công
ty thương mại và khởi viết Ðêm giữa ban ngày về những
năm tháng bị giam cầm.
Cuối năm 1995 ông sang Ba Lan. Năm 1996, sau khi
nhận ñược nhiều nguồn tin ñe dọa từ phía chính quyền Việt
nam, ông quyết ñịnh tỵ nạn tại Pháp và hoàn thành Đêm
giữa ban ngày vào tháng 4, 1997.
Ông gọi tác phẩm này là “hồi ký chính trị của một người
không làm chính trị.”
Adam Smith ..................130, 195 Cao Trào Nhân Bản 228, 229, 230,
ADB (Asia Development Bank) 242
............................................36 Carl Thayer ...........................137
Alexandr Bovin.......................87 Carnegie Endowment for
Amartya Sen .........................105 International Peace............133
American Enterprise Institute .54 Câu lạc bộ kháng chiến .........264
Ân Xá Quốc Tế (Amnesty Chân Tín ...........14, 20, 149, 285
International) ....................131 Chỉ số Gini ............................196
André Sapir...........................205 Chính Thống Dân Chủ ..........466
Apartheid ..............................343 Chủ Nghĩa Cộng Sản ............256
APEC ....................221, 223, 285 CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO ....86
ASEAN.............33, 44, 139, 228 Cơ Đốc Phục Lâm.................154
Asia Foundation....................138 Công Đoàn Đoàn Kết
ÂU DƯƠNG THỆ ....................7 Balan ...................................63
Auschwitz .............................344 Công đoàn Độc lập171, 421, 494
Bác Hồ với báo Việt Nam Độc Công Ước Quốc Tế về Những
Lập, NXB Thanh Niên.......386 Quyền Dân Sự và Chính Trị 102
Bạch Ngọc Dương ................494 CPC.........35, 221, 223, 416, 497
Bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận Đặc san Tổ Quốc ..................154
..........................................154 Đặc san Tự Do Dân Chủ ......154
bauxit ..................300. Xem bôxít Đại Cách mạng Văn hóa345, 356
bôxít ........................................59 Đại Việt Quốc Dân Đảng......210
BÙI DIỄM ..............................26 Dân chủ & Phát triển........25, 30
Bùi Minh Quốc 14, 403, 404, 492 Đảng Cộng Sản Đông Dương 212,
Bùi Ngọc Tấn........................347 297. Xem Đảng Cộng sản Việt
BÙI TÍN..................................32 nam
Cách Mạng Tháng 8......257, 260 Đảng Cộng Sản Việt Nam 32, 259,
Cách Mạng Tháng 8..............256 260, 308, 417
Cải cách Ruộng đất...............346 Đảng Dân Chủ (XXI)............102