You are on page 1of 59

Ngũ hành

Khí âm dương luân chuyển biến hoá mà tạo ra ngũ hành. Năm hành của ngũ hành được hình
thành qua 2 giai đoạn
1- Giai đoạn sinh: Nói về số thì : Trời 1 sinh thuỷ, đất 2 sinh hoả, trời 3 sinh mộc, đất 4 sinh sinh
kim, trời 5 sinh thổ. Vậy số 1,2,3,4,5 là số sinh của ngũ hành
2- Giai đoạn thành; Nói về số thì ;
-Trời 1 sinh thuỷ, đất 6 thành thuỷ (1-6 là thuỷ tiên thiên)
- Đất 2 sinh hoả, trời 7 thành hoả (2-7 là hoả tiên thiên)
- trời 3 sinh mộc, đất 8 thành mộc (3-8 là mộc tiên thiên)
- Đất 4 sinh kim, trời 9 thành kim (4-9 là kim tiên thiên )
- Trời 5 sinh thổ, đất 10 thành thổ (5-10 thành thổ)
Phương hướng;
Mộc ở phương đông, hoả ở phương nam, thổ ở trung ương, kim ở phương tây, thuỷ ở phương
bắc. Đây chính là phương vị ngũ hành trong hà đồ.
Ngũ khí ;
- Phong khí ( gió)thuộc mộc
- Thử khí và nhiệt khí( khí nóng) thuộc hoả
- Thấp khí(khí ẩm ướt) thuộc thổ
- Táo khí (khí khô) thuộc kim
- Hàn khí ( khí lạnh)
Tạng phủ
- Kim: đầu, họng, lưỡi, phổi
- Mộc: Lông, tóc, tay chân, gan, mật
- Thuỷ: Máu, mồ hôi, nước mắt, tai, thận
- Hoả: Mắt, tim
- Thổ: dạ dày, lá lách, lưng, bụng
Hình dáng:
- Kim: Tròn, dày
- Mộc: hẹp dài
- Thuỷ : Khúc khuỷu
- Hoả: nhọn sắc
- Thổ: vuông vức
Quẻ dịch;
- Kim: 2 quẻ CÀN, ĐOÀI
- Mộc: 2 quẻ CHẤN TỐN
- Thuỷ: quẻ KHẢM
- Hoả: Quẻ LY
- Thổ; 2 quẻ KHÔN, CẤN
Thiên can:
- Kim: canh, tân
- Mộc: Giáp, ất
- Thuỷ: Nhâm, quí
- Hoả: Bính đinh
- Thổ: Mậu, kỷ
Địa chi:
- Kim: Thân, dậu
- Mộc: dần, mão
- Thuỷ: Hợi, tý
- Hoả: Tỵ, ngọ
- Thổ : Thìn, tuất, sửu, mùi
Sinh khắc của ngũ hành
Sinh:
- kim sinh thuỷ
- thuỷ sinh mộc
- mộc sinh hoả
- hoả sinh thổ
- thổ sinh kim
Khắc:
- Kim khắc mộc
- Mộc khắc thổ
- Thổ khắc thuỷ
- Thuỷ khắc hoả
- Hoả khắc kim
Trong những nguyên lý tương khắc chỉ là sự tương tác giữa những vật thể với nhau để đi đến sự
hủy diệt. Như vậy, trong nguyên lý tương sinh, tương khắc của Ngũ hành, người xưa đã bao hàm
cả triết lý sự sống là bắt nguồn từ Trời (Thượng Đế), nhưng trường tồn hay hủy diệt là do vạn vật
trên trái đất quyết định mà thôi. Ngoài ra, nó cũng bao hàm hết cả quá trình Sinh-Vượng- Tử-
Tuyệt của vạn vật rồi vậy.

Ngũ hành phản sinh

Tương sinh là quy luật phát triển của vạn vật, nhưng nếu sinh nhiều quá đôi khi lại trở thành tai
hại. Điều này cũng tương tự như 1 em bé cần phải ăn uống cho nhiều thì mới mau lớn. Nhưng
nếu ăn nhiều quá thì đôi khi có thể sinh bệnh tật hoặc tử vong. Đó là nguyên do có sự phản sinh
trong Ngũ hành.

Nguyên lý của Ngũ hành phản sinh là:


- Kim cần có Thổ sinh, nhưng Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp.
- Thổ cần có Hỏa sinh, nhưng Hỏa nhiều thì Thổ thành than.
- Hỏa cần có Mộc sinh, nhưng Mộc nhiều thì Hỏa bị nghẹt.
- Mộc cần có Thủy sinh, nhưng Thủy nhiều thì Mộc bị trôi dạt.
- Thủy cần có Kim sinh, nhưng Kim nhiều thì Thủy bị đục.

Ngũ hành phản khắc

Khác với quy luật phản sinh, Ngũ hành phản khắc là khi một hành bị khắc, nhưng do lực của nó
qúa lớn, khiến cho hành khắc nó đã không thể khắc được mà lại còn bị thương tổn, gây nên sự
phản khắc.

Nguyên lý của Ngũ hành phản khắc là:


- Kim khắc được Mộc, nhưng Mộc cứng thì Kim bị gãy.
- Mộc khắc được Thổ, nhưng Thổ nhiều thì Mộc bị gầy yếu.
- Thổ khắc được Thủy, nhưng Thủy nhiều thì Thổ bị trôi dạt.
- Thủy khắc được Hỏa, nhưng Hỏa nhiều thì Thủy phải cạn.
- Hỏa khắc được Kim, nhưng Kim nhiều thì Hỏa sẽ tắt.

Cho nên trong sự tương tác giữa Ngũ hành với nhau không chỉ đơn thuần là tương sinh hay
tương khắc, mà còn có những trường hợp phản sinh, phản khắc sẽ xảy ra nữa. Biết hết được
những điều này thì khi ứng dụng vào Huyền không mới đạt đến mức độ linh hoạt và tinh vi,
chính xác hơn. Chẵng hạn như một ngôi nhà nơi phía ĐÔNG có các vận-sơn-hướng tinh 3-3-7.
Nếu theo thông thường thì thấy 7 thuộc hành Kim khắc 3 thuộc hành Mộc, nên nếu nhà này có
cửa ra vào tại nơi đó thì đoán là nhà sẽ có người bị gãy tay, chân vì Kim khắc Mộc. Nhưng nếu
nhìn kỹ thì thấy nơi đó có tới hai sao hành Mộc. Lại thêm phía ĐÔNG cũng hành Mộc. Cho nên
Mộc nơi này vượng, một sao Kim thế yếu không thể khắc được, mà còn bị phản khắc lại. Vì thế
nhà này không có người bị gãy tay chân, mà chỉ có bị bệnh yếu phổi hay đau phổi mà thôi.
( trích phongthuyhuyenkhonghoc.com)
Lượng thiên xích
Là sự di chuyển của cửu tinh trong lạc thư hay hậu thiên bát quái còn gọi là "Cửu tinh đăng quái"
1- Lượng thiên xích thuận:
đông nam.............nam.............tây nam
............9..............5..............7

đông.....8...............1..............3...tây

...........4................6..............2
đông bắc...............bắc...............tây bắc
(1) Từ trung cung xuống TÂY BẮC.
(2) Từ TÂY BẮC lên TÂY.
(3) Từ TÂY xuống ĐÔNG BẮC.
(4) Từ ĐÔNG BẮC lên NAM.
(5) Từ NAM xuống BẮC.
(6) Từ BẮC lên TÂY NAM.
(7) Từ TÂY NAM sang ĐÔNG.
(8) Từ ĐÔNG lên ĐÔNG NAM.
(9) Từ ĐÔNG NAM trở về trung cung.

2- Lượng thiên xích nghịch


đông nam..................nam...............tây nam
............2....................6................ ...4

đông.....3....................1................. ..8...tây

............7....................5................ ...9
đông bắc...................bắc.................tây bắc
(1) Từ trung cung lên ĐÔNG NAM
(2) Từ ĐÔNG NAM xuống ĐÔNG
(3) Từ ĐÔNG lên TÂY NAM
(4) Từ TÂY NAM xuống BẮC
(5) Từ BẮC lên NAM.
(6) Từ NAM xuống ĐÔNG BẮC.
(7) Từ ĐÔNG BẮC sang TÂY.
(8) Từ TÂY xuống TÂY BẮC.
(9) Từ TÂY BẮC trở về trung cung.
Sự di chuyển thuận, nghịch của Cửu tinh là hoàn toàn dựa vào nguyên tắc phân định âm-dương
của Tam nguyên long.
Cửu tinh và ý nghĩa
- Số 1: Nhất bạch hay tham lang: Đệ nhất cát tinh. Nếu đương vượng mà hình thế loan đầu có
thủy động thì khoa cử đỗ đạt, sinh con trai thông minh trí tuệ. Nếu suy tử thì hại vợ, không thọ,
cuộc đời trôi nổi, mang nhiều bệnh tậ về huyết, thận hư...
* về ngũ hành: thuộc thuỷ
* Về màu sắc: màu trắng
* Về cơ thể : Thận, tai, máu huyết
* về người : con trai thứ
* về tính chất : thuộc dương
- Số 2 : Nhị hắc hay cự môn : Hung tinh. Nếu vượng thì giàu có, điền sản phát mạnh, nhân khẩu
hưng vượng lại phát quí về binh nghiệp. Nếu suy tử thì vợ đoạt quyền chồng, tính tình nhỏ nhen,
thâm hiểm, keo kiệt, khó sinh đẻ, có bệnh về bụng. Trong nhà thường phát sinh bệnh hoạn liên
miên.
* về ngũ hành: thuộc thổ
* Về màu sắc: màu đen
* Về cơ thể : bụng và dạ dày
* về người: mẹ hoặc vợ trong gia đình
* về tính chất : thuộc âm
- Số 3 : Tam bích hay lộc tồn : Hung tinh. Nếu vượng thì tài lộc đầy đủ, chấn hưng gia tộc, cơ
nghiệp vững vàng, con cái dòng trưởng rất hưng thịnh. Nếu suy tử thì người nhà dễ bị điên hoặc
hen suyễn, chân tàn tật, khắc vợ, kiện tụng thị phi hoặc trở thành trộm cướp.

* về ngũ hành: thuộc mộc


* Về màu sắc: màu xanh lá cây
* Về cơ thể : mật, vai và tay
* về người: con trai trưởng
* về tính chất : thuộc dương
- Số 4 : Tứ lục hoặc văn xương : Cát tinh. Vượng thì văn chương lừng danh, khoa cử đỗ đạt, con
gái dung mạo đoan trang lấy được con nhà quyền quí. Nếu suy tử thì phụ nhân dâm loạn, đàn
ông đam mê tửu sắc, gia sản phá hoại, phải lang thang phiêu bạt.
* về ngũ hành: thuộc mộc
* Về màu sắc: màu xanh dương
* Về cơ thể : đùi và 2 chân
* về người: con gái trưởng
* về tính chất : thuộc âm
- Số 5 : Ngũ hoàng hoặc Liêm trinh :Đạt sát tinh. Vượng thì tài đinh đại phát. Nếu suy tử thì bất
kể được sinh hay bị khắc đều rất xấu ví vậy nó tịnh không nên động. Nếu gặp sao thái tuế tới thì
tính hung càng phát mạnh làm tổn đinh, phá tài , nhẹ thì ốm đau, nặng thì mất người
* về ngũ hành: thuộc thổ
* Về màu sắc: màu vàng
* Về cơ thể : không
* về người: không
- Số 6 : Lục bạch hoặc vũ khúc : Cát tinh. Vượng thí quyền uy , làm võ tướng thì công trạng hiển
hách, gia đình giáu có, nhiều nhân đinh. Nếu suy tử thì cô độc hoặc chết trong binh đao, người
nhà thường góa bụa, có nhiều quả phụ.
* về ngũ hành: thuộc kim
* Về màu sắc: màu trắng bạc
* Về cơ thể : đầu, mũi, cổ, xương, ruột già
* về người: cha hoặc chồng trong gia đình
* về tính chất : thuộc dương
- Số 7 : Thât xích hoặc phá quân : tặc tinh. Vượng thì phát về võ quyền, đinh tài đều vượng. Nếu
suy thì trong nhà xuất hiện trộm cướp hoặc có người chết trận hay bị giam cầm, gia đạo không
yên có thể bị hỏa tai mà tổn đinh hoặc xuất hiện người ham mê tửu sắc
* về ngũ hành: thuộc kim
* Về màu sắc: màu đỏ
* Về cơ thể : phổi, miệng, lưỡi
* về người: con gái út
* về tính chất : thuộc âm
- Số 8 : Bát bạch hoặc tả phù: Cát tinh. Vượng thì trung hiếu, phú quí dài lâu, con cháu được
hưởng phúc lộc của tổ tiên. Suy tử thì có tổn thương nhỏ hoặc bị bệnh dịch
* về ngũ hành: thuộc thổ
* Về màu sắc: màu trắng
* Về cơ thể : lưng, ngực và lá lách.
* về người: con trai út
* về tính chất : thuộc dương
- Số 9 : Cửu tử hay hữu bật : trung tính. vượng thì văn chương lừng lẫy, con cháu dòng giữa
được hưởng phú quí. Suy thì hỏa tai hoặc tai họa chốn quan trường, bị bệnh về máu huyết, thần
kinh, mắt hoặc sanh đẻ khó.
* về ngũ hành: thuộc hoả
* Về màu sắc: màu đỏ tía
* Về cơ thể : mắt, tim, ấn đường
* về người: con gái giữa
* về tính chất : thuộc âm
Còn như thế nào là vượng hay suy sẽ phân tích ở phần sau.
Trên đây là những yếu tố căn bản tối thiểu mà người học huyền không phải nắm vững để
ứng dụng sau này
Hướng nhà và Tâm nhà
1- Hướng nhà:
Hướng nhà là một trong nhiều căn bản của Huyền Không Phi Tinh. Tuy là căn bản nhưng lại đòi hỏi
nhiều kinh nghiệm . Nếu không thì sẻ nhận thức sai về phương hướng của căn nhà . Phái phi tinh dùng
hướng nhà chứ không dùng hướng cửa như phái bát trạch
Đại đa số hướng nhà đều đi chung với hướng cửa ngoại trừ vài trường hợp như cửa mở bên hông nhà, nhà
có kiến trúc khác thường, v.v.

Nói một cách đơn giản thì hướng nhà phải là hướng đối ngược với hướng của người đi tới nhà . Như
người đi tới hướng Nam để tới nhà thì hướng nhà là hướng bắc.

Có người dùng cách lấy dương làm hướng, theo cách này thì dương là nơi khí động, có thủy, thấp v.v.
Như vậy sẻ gặp nhiều trường hợp rất khó quyết định, thí dụ như có nhà phía sau trống trải và thấp còn
phía trước thì có đường lộ và đôi khi cao hơn phía sau vậy làm sao định hướng. Có nhà phía sau rộng và
thoáng, phía trước hẹp lại có đường .
Khi phân vân thì ta phải lập nhiều tinh bàn rồi so sánh với diễn biến đã sảy ra trong nhà đó phù hợp với
tinh bàn nào thì dùng tinh bàn của hướng đó.

Đo hướng nhà thì đơn giản hơn nhận định hướng, chỉ cần chọn một vách nhà song song với hướng của
nhà, sau đó căng một sợi giây song song với vách đó và chạy ra khỏi nhà khoản 2-3 mét . Để la bàn song
song với sợi giây đó và xem bao nhiêu độ . Nếu có khả năng canh bằng mắt thì không cần dùng giây .

Trong một vài trường hợp không có vách nào song song với hướng nhà thì chọn một vách vuông gốc với
hướng nhà mà đo, sau đó cộng hoặc trừ 90 độ thì sẻ được hướng nhà
Tại sao phải làm như dưới đây ? Tại gì đó là một cách đo chính xác nhất mà không cần phải có nhiều kinh
nghiệm. Có người thì đứng giửa nhà hay trước cửa nhìn ra hoặc đứng trước nhà nhìn vào v.v. Những cách
này không thể chính xác được . Tại sao ? đó là gì la bàn không có điểm tựa, và người đứng không có
điểm tựa, nhích một chút là đã sai lệch thấp nhất củng 1 độ. Sai lệch 1 độ là rất lớn có thể dẩn tới kết quả
đảo ngược . Tại sao? đó là gì khi phân kim ta phân 24 sơn ra 60 long rồi có người lại phân ra 384 quẻ như
vậy 0.5 độ đã có thể từ quẻ này sang quẻ khác rồi đừng nói gì tới 1 độ
Dụng cụ để đo hướng nhà là la bàn (dụng cụ chuyên nghiệp là La kinh)

2- Tâm nhà :
Tâm nhà củng như hướng nhà là một căn bản mà người học phong thủy lẩn người muốn xem phong thủy
cần biết . Nếu lấy hướng sai thì xem phong thủy sẻ sai, nếu lấy tâm nhà sai thì xem phong thủy củng sai .

Đại đa số những thầy phong thủy đều dựa vào kinh nghiệm của mình và mức phán đoán của mình mà
chọn tâm nhà . Mức độ chính xác dựa theo cách này thì tùy theo kinh nghiệm của mổi người .

Nhưng nếu dựa vào bản vẻ và toán học để tìm tâm nhà thì mức độ chính xác sẻ cao và không phân biệt
giửa người không có kinh nghiệm và người có kinh nghiệm .

Tâm nhà trong phong thủy gọi là thái cực và củng có nhiều người gọi là thiên tâm. Thái cực là danh từ
dùng chung cho các tâm điểm chứ không riêng về tâm nhà . Mọi vật đều có thái cực và ý nghĩa của thái
cực là điểm giửa của các vật, nơi mà vật đó phụ thuộc vào để giử thăng bằng .
Hình dạng nhà cửa ngày nay cũng rất phức tạp và đa dạng, khiến cho việc tìm tâm nhà đang từ là 1 vấn đề
dễ dàng đôi lúc cũng trở nên khó khăn. Đối với những nhà được xây theo hình vuông hay hình chữ nhật
thì tâm nhà là giao điểm của 2 đường chéo.

Đối với những nhà có hình tam giác, lục giác, hình thang... thì cách tính tâm nhà cũng là cách tính tâm
những hình này trong các lớp toán tiểu học. Còn đối với những nhà có nhiều góc cạnh không đồng đều thì
việc định tâm nhà tương đối khó khăn hơn. Phương pháp đơn giản nhất để tìm tâm của những căn nhà này
(và ngay cả những nhà hình tam giác, lục giác...) là vẽ sơ đồ nhà lên giấy kẻ ô vuông theo đúng tỉ lệ kích
thước của căn nhà, rồi in hình đó sang 1 tấm bìa cứng. Sau đó cắt hết những phần thừa của tấm bìa cứng
đi, chỉ để lại phần sơ đồ căn nhà mà thôi. Rồi lấy 1 vật nhọn (như đầu viết chì, viết big...) để nâng tấm bìa
cứng có hình sơ đồ căn nhà lên. Tới lúc nó có thể nằm thăng bằng trên đầu cây viết thì điểm đó chính là
tâm của căn nhà. Dùng bút chì để đánh dấu điểm đó, xong bạn vẽ 2 đường thẳng đi ngang qua điểm đó: 1
đường thẳng góc với 2 bên hông nhà; 1 đường thẳng góc với 2 mặt trước, sau của căn nhà. Đường thẳng
thứ 2 này sẽ là tọa và hướng của căn nhà. Từ đường thẳng này bạn có thể phân ra 8 hướng và 24 sơn
chung quanh nhà để xác định chính xác vị trí của mọi thứ trong nhà trước khi luận đoán cát, hung, hay
tìm cách sửa đổi Phong thủy cho căn nhà đó.

3- Vẽ sơ đồ nhà:

Trước hết ta cần có giấy trắng kẻ ô vuông và một cây thước đo. Ta đo chiều dài, chiều rộng của căn nhà là
bao nhiêu mét (hay feet), rồi tùy theo nhà lớn hay nhỏ mà tính theo tỷ lệ cứ 1mét hay 1 feet = 1 ô hay 2 ô
trên giấy. Kế đến, ta vẽ cách bố trí cuả căn nhà, như cửa chính, cửa sau, cửa sổ, phòng khách, phòng ăn,
bếp, phòng ngủ, phòng vệ sinh, cầu thang, v.v., theo từng khu vực trong khuôn viên của 4 bức tường. Dĩ
nhiên là phải đo kích thước và tính tỷ lệ trước khi vẽ, ví dụ nếu ta muốn vẽ vị trí bếp thì phải đo xem nó
cách bức tường phía trước (hay phía sau) khoảng bao nhiêu. Và cách bức tường bên phải (hoặc bên trái)
khoảng bao nhiêu. Rồi nó lớn khoảng bao nhiêu. Và nhìn về bức tường nào?...

Sau đó, ta áp dụng cách tìm tâm nhà như đã nói ở trên để xác định tâm nhà trên sơ đồ vừa vẽ xong. Kết
hợp với cách tìm và đo hướng nhà (đã nói ở bài trước) ta sẻ xác định được 8 hướng trên sơ đồ nhà. Như
vậy là ta có được một sơ đồ nhà hoàn chỉnh.
Nếu các bạn dùng phần mềm AUTOCAD để vẽ và định tâm nhà thì sẽ cho chính xác khá cao.

PHƯƠNG PHÁP LẬP TINH BÀN

Xác định tọa hướng nhà:


Theo độ số mà ta đã đo áp dụng vào sơ đồ ta sẽ xác định được tọa hướng nhà
Thí dụ: nhà đo độ hướng được 91’ tức nằm trong cung Mão vậy là nhà tọa Dậu hướng Mão

Lường Thiên xích : Là hướng bay của cửu tinh khi có một sao nhập trung cung
Lường thiên xích thuận:

Lường thiên xích nghịch:


Hậu Thiên Bát quái

Sơn & Hướng:


Hậu thiên bát quái được chia thành tám hướng đều nhau, mỗi hướng chiếm 45 độ trên la bàn và đi với
một số của cửa tinh: hướng BẮC (số 1), ĐÔNG BẮC (số 8), ĐÔNG (số 3), ĐÔNG NAM (số 4), NAM
(số 9), TÂY NAM (số 2), TÂY (số 7) , TÂY BẮC (số 6). Riêng số 5 vì nằm ở chính giữa
Mỗi hướng lại chia thành 3 sơn, mỗi sơn chiếm 15 độ:
- Hướng BẮC (số 1): Gồm 3 sơn NHÂM–TÝ-QUÝ
- Hướng ĐÔNG BẮC (số 8): 3 sơn SỬU–CẤN–DẦN
- Hướng ĐÔNG (số 3): 3 sơn GIÁP–MÃO–ẤT
- Hướng ĐÔNG NAM (số 4) 3 sơn THÌN–TỐN–TỴ
- Hướng NAM (số 9): 3 sơn BÍNH–NGỌ–ĐINH
- Hướng TÂY NAM (số 2): 3 sơn MÙI–KHÔN–THÂN
- Hướng TÂY (số 7): 3 sơn CANH–DẬU–TÂN
- Hướng TÂY BẮC (số 6): 3 sơn TUẤT–CÀN–HỢI
Độ số chính giữa của mỗi sơn : sơn NHÂM tại 345 độ; TÝ 360 độ hay 0 độ; QUÝ 15 độ; SỬU 30 độ;
CẤN 45 độ; DẦN 60 độ; GIÁP 75 độ; MÃO 90 độ; ẤT 105 độ; THÌN 120 độ; TỐN 135 đô; TỴ 150 độ;
BÍNH 165 độ; NGỌ 180 độ; ĐINH 195 độ; MÙI 210 độ; KHÔN 225 độ; THÂN 240 độ; CANH 255 độ;
DẬU 270 độ; TÂN 285 độ; TUẤT 300 độ; CÀN 315 độ; HỢI 330 độ;
Độ chính giữa (+)(-) 3 độ thì gọi là chính hướng. Còn (+)(-) trên 3 độ thì gọi là kiêm hướng.
Tam nguyên long:
Tam nguyên long gồm có : Thiên nguyên long, nhân nguyên long và địa nguyên long
@ THIÊN NGUYÊN LONG: có 8 sơn :
* 4 sơn dương: CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN.
* 4 sơn âm: TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU.

@ ĐỊA NGUYÊN LONG: có 8 sơn:


* 4 sơn dương: GIÁP, CANH, NHÂM, BÍNH.
* 4 sơn âm: THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI.
@ NHÂN NGUYÊN LONG: có 8 sơn:
* 4 sơn dương: DẦN, THÂN, TỴ, HỢI.
* 4 sơn âm: ẤT, TÂN, ĐINH, QUÝ.
Dựa vào tính chất âm dương của tam nguyên long mà ta sẽ biết được lường thiên xích đi thuận hay đi
nghịch.

Phương pháp lập tinh bàn:

1 - Vận bàn:
Thời gian được chia làm 3 nguyên, gồm: thượng nguyên, trung nguyên và hạ nguyên. Mỗi nguyên lại chia
làm 3 vận. Mỗi vận là 20 năm
- Thượng Nguyên gồm : Vận 1, 2, 3. Tổng cộng là 60 năm
- Trung nguyên gồm : vận 4, 5, 6. Tổng cộng 60 năm
- Hạ nguyên gồm : Vận 7, 8, 9. Tổng cộng 60 năm
Tổng 3 nguyên là 180 năm. Hết hạ nguyên lại tới thượng nguyên.
Chúng ta đang sống trong hạ nguyên;
- Vận 7 từ 1984 đến 2003
- Vận 8 từ 2004 đến 2023
- Vận 9 từ 2024 đến 2063
Đến vận của sao nào thì lấy sao đó nhập trung cung, xác định các sao khác theo vòng lường thiên xích
thuận

Thí dụ: Nay ta đang ở vận 8. Lấy 8 nhập trung cung bay thuận ta được vận bàn

2 - Hướng bàn: Sau khi có vận bàn ta lấy số ở hướng cho nhập trung cung, rồi cho bay thuận hay nghịch
theo tính chất âm dương của cung nguyên thủy cùa sao ấy.
Thí dụ 1: nhà tọa Càn hướng Tốn, Hướng có sao số 7, lấy 7 nhập trung cung, Tốn là thiên nguyên long.
Thiên nguyên long của 7 là Dậu, Dậu tính chất là Âm nên 7 bay nghịch (thường thì hướng tinh đặt bên
phải của vận tinh)

3 - Sơn bàn: "Sơn" chỉ khu vực sau nhà , tức phương toạ. Lấy số của vận bàn tại phương toạ đem nhập
trung cung, để ở góc bên trái. Xem phương toạ là sơn gì? Thuộc tam nguyên long nào? Thí dụ : toạ càn
thuộc thiên nguyên long.Tiếp theo coi số của vận tinh thuộc tam nguyên long đó tính chất âm dương là
gì? Nếu là dương thì theo lường thiên xích thuận còn nếu là âm thì theo lường thiên xích nghịch Thí dụ :
Vận 8 vận tinh tại càn là 9. Thiên nguyên long của 9 là ngọ, tính chất của ngọ là âm . Vậy 9 nhâp trung
cung bay nghịch.

Tóm tắt
- lấy số của vận bàn tại toạ hoặc hướng nhập trung cung.
- Nếu là thiên hoặc nhân nguyên long: Số chẵn bay thuận, số lẻ bay nghịch.
- Nếu là địa nguyên long: Số chẵn bay nghịch, số lẻ bay thuận

Thế quái
Khi nhà bị lệch (+)(-) Trên 4 độ cho tới dưới 7 độ thì phải dùng thế quái để lập tinh bàn.
Phương pháp lập tinh bàn thế như sau:
- Lập vận bàn.
- tam nguyên long của sơn hoặc hướng là gì?
- coi số của vận bàn tại phương toạ hoặc hướng thuộc tam nguyên long đó gốc là gì?
Thí dụ: toạ càn vận 7. Càn là thiên nguyên long. Bát (8) đáo toạ, thiên nguyên của 8 là cấn
- Không dùng 8 nhập trung cung mà dùng số thế theo bài khẩu quyết của Khương Nghiêu:
Bốn sơn : Tí Quí Giáp Thân, dùng sao Tham Lang (1) thay thế
Năm sơn : Nhâm Mão Ất Mùi Khôn, dùng sao Cự Môn (2) thay thế
Sáu sơn : Tuất Càn Hợi Thìn Tốn Tỵ, dùng sao Vũ Khúc (6) thay thế
Năm sơn : Tân Dậu Sửu Cấn Bính, dùng sao Phá Quân (7) thay thế
Bốn sơn : Ngọ Đinh Dần Canh, dùng sao Hữu Bật (9) thay thế
Thí dụ : theo thí dụ trên thì thiên nguyên của 8 là cấn, dùng phá quân (7) thay thế. Vậy lấy 7 nhập trung
cung. Cấn dương nên đi thuận.

Trong này ta thấy có một số sơn phải dùng thế mà không thế. Thí dụ : sơn Tý thế bằng 1 thực ra số của
sơn Tý cũng là 1.
Ngoại trừ các sơn thế mà không thế ra ta còn:
Hai sơn : Giáp Thân, dùng sao Tham Lang (1) thay thế
Ba sơn : Nhâm Mão Ất, dùng sao Cự Môn (2) thay thế
Hai sơn : Tốn Tỵ, dùng sao Vũ Khúc (6) thay thế
Ba sơn : Sửu Cấn Bính, dùng sao Phá Quân (7) thay thế
Hai sơn : Dần Canh, dùng sao Hữu Bật (9) thay thế
Tóm tắt:
Để dễ nhớ thế quái ta thuộc bài thơ sau:
Cửu, Canh Dần
Nhất, Giáp Thân
Nhị, Nhâm Mão Ất
Lục, Thìn Tốn Tị
Thất, Sửu Cấn Bính
Tức là:
Số 9 thế cho Canh Dần
1 thế cho Giáp Thân….
Thí dụ: Số ở hướng là 3 lại ở địa nguyên long. Địa nguyên long của 3 là Giáp. Vậy số thế cho Giáp là 1
Các cung khác không trong bài thơ này tức không có số thế. Thí Dụ: Số 6 ở thiên nguyên long. Thiên
nguyên long của 6 là Càn. Càn không có số thế nên vẫn lấy 6 nhập trung cung bay thuận.

Lập tinh bàn cho nhà kiêm 7 độ hoặc 7,5 độ


Còn đối với trường hợp hướng nhà lệch 7 độ hay 7 độ rưỡi thì không thể dùng tinh bàn của 1 hướng được
nữa, mà phải lập tinh bàn cho cả 2 hướng. Cho nên ngoại trừ những hướng kiêm giữa quẻ Phụ mẫu
(Thiên) với Thuận tử (Nhân)( dùng thế quái như kiêm 5 độ)ra, còn những hướng kiêm khác đều sẽ xuất
hiện 2 hướng tinh và 2 sơn tinh tại mỗi cung của địa bàn, nếu hướng nhà đó kiêm trên 7 độ.
Nói rỏ hơn là nếu kiêm 7 độ trừ trường hợp kiêm giữa thiên và nhân nguyên long( vì 2 tinh bàn này là 1)
ra ta phải lập tinh bàn thế quái cho cả hai hướng
Dưới đây là trạch vận căn nhà toạ nhâm hướng bính kiêm 7 độ vận 3

.....2 ...........7 .............9


...7 .8 .......3. 3 ..........5. 1
...9 .6 .......4. 2 ..........2. 4

.....1 ...........3 .............5


...6 .9 ........8 .7 .........1 .5
...1 .5 .......................6 .9

.....6 ...........8 .............4


...2 .4 ........4 .2 .........9 .6
...5 .1 ........3 .3 .........7 .8
(Chú ý vì tọa-hướng nhà nằm giữa các sơn NHÂM-BÍNH – TÝ-NGỌ, nên khi lập trạch vận thì đem
những vận tinh tới tọa và hướng nhập trung cung, xong xoay chuyển theo cả 2 chiều thuân-nghịch cho
phù hợp âm-dương với 4 sơn NHÂM-BÍNH – TÝ-NGỌ. Do đó, tại mổi khu vực sẽ có 2 Sơn tinh và 2
Hướng tinh và dĩ nhiên là phải dùng thế quái cho cả hai).

Sự kết hợp của các cặp Sơn - Hướng tinh

Phi tinh (khí) và Loan đầu (hình thế) là 2 yếu tố gắn bó chặt chẽ với nhau trong việc quyết định
cát, hung của 1 căn nhà, còn thiết kế bên trong cũng có tác dụng nhưng yếu hơn, nên chỉ là phụ
thuộc mà thôi. Cũng giống như 1 căn nhà tuy phía trước có biển lớn, phía sau có núi cao, 2 bên
Long, Hổ hùng tráng bảo vệ. Nhưng nếu phi tinh lại gặp phải cách vượng khí của Sơn tinh tới
phía trước, Vượng khí của Hướng tinh tới phía sau thì vẫn bị cách "Thượng Sơn, Hạ Thuỷ" mà
gia nghiệp suy bại thê thảm. Nếu những căn nhà đã bị như thế thì dù thiết kế bên trong có hoàn
mỹ tới đâu cũng không thể làm thay đổi cục diện xấu của căn nhà. Ngược lại, 1 nhà tuy phía
trước có núi cao, còn phía sau có biển lớn, tuy đối với phái Loan đầu là cục diện thất bại, nhưng
nếu có vượng khí của Sơn tinh tới phía trước, vượng khí của hướng tinh tới phía sau thì vẫn có
thể phát phúc 1 thời. Cho nên mới nói Loan đầu phụ thuộc vào Phi tinh, Phi tinh phụ thuộc vào
Loan đầu là vậy.
Về sự tương quan giữa vận-sơn-hướng tinh trong cùng 1 cung thì cũng đã có nhiều sách vở đề
cập tới, thậm chí còn chia ra thành tỷ lệ phần trăm giữa 3 sao này để cứu xét. Nhưng có lẽ các tác
giả đó 1 là không muốn tiết lộ những gì họ biết, 2 là vì không hiểu rõ tính chất vượng, suy hay
"thất, đắc" của những phi tinh nên mới bày vẽ đủ cách tính toán mà thôi. Nhưng thực chất là vì
toạ và hướng là 2 phương vị quan trọng quyết định vận khí của 1 căn nhà, nên Sơn tinh và
Hướng tinh mới có tầm quan trọng đặc biệt, và cũng vì vậy mà khi lấy trạch vận cho 1 căn nhà
thì người ta mới lấy những Vận tinh tới TOẠ VÀ HƯỚNG nhập trung cung xoay chuyển để xác
định những phương vị sinh, vượng, suy, tử của Sơn tinh và Hướng tinh mà thôi. Chứ không ai
lấy hết Vận tinh chung quanh nhà đem nhập trung cung xoay chuyển làm gì, dù là phía trước của
căn nhà đó có thuỷ hoặc cửa ra vào hay không? Hoặc phía sau có núi hoặc nhà cao che chắn hay
không? Điều này cho thấy 2 phương toạ và hướng có tác động quyết định lên vận khí của 1 căn
nhà, và do đó, sức mạnh của Sơn và Hướng tinh mới có tầm quan trong đặc biệt hơn Vận tinh.
Riêng Vận tinh chỉ là vị trí cố định của phi tinh trong từng Vận, nên tác dụng rất yếu, chỉ có khả
năng phối hợp với Sơn và (hoặc) Hướng tinh để làm tăng thêm sự tốt, xấu mà thôi, chứ không
thể có khả năng chi phối hay giảm thiểu, hoặc làm thay đổi tính chất của Sơn, Hướng tinh cùng
vị trí với nó. Còn sự tương tác giữa Sơn tinh và Hướng tinh, trên thực tế phải tuỳ thuộc vào sự
"đắc cách" hay "thất cách" của chúng mới có thể biết được sao nào nắm quyền chủ chốt tại khu
vực đó. Muốn biềt được điều này thì phải nắm vững những nguyên lý về "Thu Sơn, Xuất Sát"
mới không bị lầm lẫn hoặc rối trí trong việc xét đoán những ảnh hưởng của phi tinh trong cùng 1
cung. Biết rằng khí sinh, vượng của Sơn tinh cần phải đóng trên những chỗ cao. Nếu được như
thế thì tức là Sơn tinh đã đắc cách, uy lực của nó đương nhiên được phát huy tới mức tối đa, cho
nên chẳng những nó có đủ sức để chi phối cả Vận tinh và Hướng tinh tại đó, mà nếu gặp trường
hợp Hướng tinh tại đây lại là khí suy, tử thì mọi hung khí của Hướng tinh đều được nó hoá giải.
Cho nên đây chính là trường hợp "dùng Sơn thần xuất sát của Thuỷ thần", hay còn được gọi tắt
là "Xuất Sát".
Ngược lại, khí sinh, vượng của Hướng tinh cần phải đóng tại những nơi có Thuỷ như sông, hồ,
ao, biển, hoặc những nơi có cửa nẻo ra, vào nhà. Nếu được như thế là Hướng tinh đã "đắc cách",
nên uy lực của nó đủ để khống chế cả Vận tinh lẫn Sơn tinh tại đây. Nếu trong trường hợp Sơn
tinh là khí suy, tử thì sẽ được Hướng tinh hoá giải, làm mất hết hung khí, nên đây là trường hợp
"dùng Thuỷ thần để thu sát của Sơn thần", hay còn được gọi tắt là "Thu Sơn".
Trường hợp 1 khu vực có cả Hướng tinh lẫn Sơn tinh đều là khí sinh, vượng: nếu khu vực này có
núi hay nhà cao thì Sơn tinh nắm quyền, chi phối Vận tinh và Hướng tinh. Nếu khu vực này có
Thuỷ thì Hướng tinh nắm quyền, chi phối Vận tinh và Sơn tinh. Nếu khu vực này không có núi,
cũng không có Thuỷ, tức là cả Sơn tinh lẫn Hướng tinh đều không có hiệu lực. Đây là cục diện
ngang hoà, không có sao nào chi phối nhau cả, và cũng không có ảnh hưởng gì tới vận khí căn
nhà.
Trường hợp 1 khu vực có cả Hướng tinh lẫn Sơn tinh đều là khí suy, tử: nếu khu vực này có núi
hay nhà cao thì Sơn tinh đó đắc thế, nên nhà sẽ bị tai hoạ do đối tượng ứng với Sơn tinh đó gây
ra. Lấy thí dụ như nhà trong vận 8, nơi phía ĐÔNG có Sơn tinh 7, hướng tinh 3. Nếu khu vực đó
có núi hay nhà cao thì nhà sẽ bị tai hoạ do Sơn tinh số 7 này mang tới. Vì số 7 thất vận chủ kẻ
tiểu nhân hay trộm cướp, nên nhà này dễ bị kẻ tiểu nhân hãm hại, hay trộm cuớp đến phá nhà.
Trong trường hợp này, Sơn tinh sẽ khống chế Vận tinh và Hướng tinh. Còn Hướng tinh thất vận
lại nằm trên cao nên vô lực. Ngược lại, nếu khu vực đó không có núi, nhưng lại có Thuỷ thì nhà
sẽ bị tai hoạ hay thất tán tiền bạc do Hướng tinh đó đem tới. Trong trường hợp này, Hướng tinh
đã khống chế cả Vận tinh và Sơn tinh. Còn Sơn tinh vừa là khí suy, tử, vừa đóng tại nơi thấp,
trũng nên vô lực.
Cho nên sự tương tác giữa những Sơn tinh và Hướng tinh trong cùng 1 cung là tuỳ thuộc vào sự
thất, đắc của chúng mà thôi. Nói "thất, đắc" không phải là nói thất vận hay đắc vận, mà là ám chỉ
chúng có đóng tại những nơi phù hợp hay không mà thôi. Sơn tinh nếu đóng trên núi cao là "đắc
cách", sẽ có đủ uy lực sai khiến Thuỷ thần (tức Hướng tinh). Hướng tinh nếu đóng tại những nơi
có Thuỷ là "đắc cách", sẽ có đủ uy lực mà điều động Sơn tinh. Nhưng cũng phải phân ra nếu khí
sinh, vượng của Sơn, Hướng tinh mà "đắc cách" thì sẽ chủ đại phúc lộc, còn nếu khí suy, tử của
Sơn, Hướng tinh mà "đắc cách" thì sẽ chủ đại hoạ. Còn nếu khí sinh, vượng của Sơn, Hướng tinh
mà "thất cách", tức là Sơn tinh gặp Thuỷ, Hướng tinh gặp núi thì đã thuộc vào cách "Thượng
Sơn, Hạ Thuỷ" rồi. Cho nên khí sinh, vượng của Sơn, Hướng tinh cần phải "đắc cách" , còn khí
suy, tử thì cần phải "thất cách". Có như thế thì mới bảo đảm phúc lộc lâu dài và tránh được mọi
tai hoạ.
Còn vấn đề dùng Ngũ hành sinh-khắc để luận ảnh hưởng của các sao, cũng như sự phối hợp giữa
chúng mà tạo thành những số "hợp thập", số Tiên thiên hay Hậu thiên, Phản ngâm, Phục ngâm...
chỉ là phụ và sau khi đã biết được tình trạng "thất, đắc" của Sơn tinh và Hướng tinh mà thôi.

Thế nào là thất cách hoặc đắc cách


Đắc cách là Sơn gặp núi cao, nhà cao , cây cao,…Hướng gặp thủy, trống thoáng hay đường đi
Thất cách là :Sơn gặp Thủy, trống thoáng hay đường đi,…Hướng gặp Núi cao hay nhà cao, cây
cao,..

Thế nào là vượng và thế nào là suy ?


Vượng là khi sao vượng được đắc cách ( dĩ nhiên phải là sao vượng, sinh hoặc tiến khí trong
vận đó )như sơn vượng thì có núi cao. Nhà cao, cây cao….Hoặc hướng vượng thì có thủy, trống
thoáng hoặc có đường đi
Suy là khi sao vượng bị thất cách . Như sao sơn vượng, sinh hoặc tiến khí mà lại gặp thủy. Hay
sao hướng vượng, sinh hoặc tiến khí lại gặp sơn . Sao tử khí đắc cách như: Sao sơn là tử khí mà
lại gặp núi hoặc sao hướng là tử khí mà lại gặp thủy
Lấy thí dụ như nhà trong vận 8, nhưng có Hướng tinh số 2 đắc thuỷ của hồ tắm lớn. Đây là
trường hợp tử khí đắc cách, nên trong nhà này vừa bị hao tài, vừa bị bệnh tật liên miên, lại còn
xuất hiện quả phụ. Cho nên đàn ông trong nhà đó dễ bị vắn số. Đó là chưa kể nếu nơi đó lại có
sơn tinh 3, tạo thành thế "ĐẤU NGƯU SÁT", nên gia đình sẽ bị mắc khẩu thiệt, quan tụng liên
miên. Hoặc nếu nơi đó có sơn tinh hay vận tinh 7, kết hợp với hướng tinh 2 tạo thành cặp 2-7
Hoả tiên thiên thì nhà này dễ bị xung đột hoặc trong nhà có người mắc bệnh đau tim. Vào những
năm có niên tinh 9, 7, 2 chiếu tới khu vực này thì bệnh tim càng nặng, có thể chết người. Nếu
khu vực này mà lại nằm tại phía ĐÔNG hoặc ĐÔNG NAM thì vào những năm có niên tinh 4, 3
chiếu tới thì còn gặp hoả hoạn mà sản nghiệp tiêu tan nữa. Cho nên nếu khí suy tử mà đắc cách
thì ngoài vấn đề phá tài, tổn đinh thì còn bị những tai hoạ, bệnh tật khác nữa, chứ không phải chỉ
là làm ăn lụn bại (trường hợp Hướng tinh "Thượng Sơn") hoặc nhân số giảm thiểu (trường hợp
Sơn tinh "Hạ thuỷ") như các trường hợp vượng tinh thất cách, tức là mức độ tai hoạ còn nguy
hiểm và trầm trọng hơn.
Vấn đề khảo sát các sao Vận-Sơn-Hướng (nhất là Sơn và Hướng) thì trước hết cần phải xét đến
thời vận, xem chúng là sinh, vượng hay suy, tử. Sau đó mới xét tới hình thế Loan đầu xem chúng
có đắc cách hay không? Như Sơn tinh vượng cần gặp núi hay nhà cao, Hướng tinh vượng cần có
thuỷ hoặc cửa ra vào... Nếu chúng được như vậy thì dù ngũ hành có bị xung khắc cũng vẫn
không có tai hoạ gì cả. Chỉ khi chúng đều là khí suy, tử, hoặc không đắc cách thì mới xét đến
ngũ hành sinh, khắc để đoán biết hung hoạ mà thôi. Lấy thí dụ :cung KHẢM có các sao 7-8-3
(theo thứ tự Sơn-Vận-Hướng). Nếu là trong vận 7, sơn tinh 7 là vượng khí, nên nếu khu vực này
có nhà cao thì chủ vượng nhân đinh, lại hoá sát của Hướng tinh số 3, chứ không có vấn đề khắc
chế gì cả. Nhưng qua vận 8, sơn tinh 7 biến thành suy khí, khắc chế Hướng tinh 3, nên nhà này
dễ bị trộm cướp hay tai hoạ hình thương, hay có bệnh về thần kinh... Chỉ có khi xét tới niên,
nguyệt, nhật thời tinh thì mới dùng đến nguyên lý ngũ hành sinh, khắc làm chủ yếu. Còn giữa
vận-sơn-hướng khi xét đến sự sinh, khắc thì chủ yếu là giữa Hướng tinh và Sơn tinh, còn vận
tinh chỉ có thể phụ hoạ thêm vào cái sinh hoặc khắc giữa 2 sao đó mà thôi.
Thí dụ : vận 8 ở một cung có cặp sơn hướng 8-6 . Nếu có núi, nhà cao, cây cao thì gọi là vượng
vì 8 là sơn tinh vượng. Nếu có ao hồ thì gọi là suy vì 6 là hướng tinh tử khí trong vận 8

(tham khảo từ phongthuyhuyenkhonghoc.com)


Thu sơn xuất sát

Ở một cung. Nếu sao hướng là vượng khí hoặc sinh khí lại đắc cách tức là loan đầu có thủy hay đường đi,
trong khí đó sao sơn là tử khí thì trường hợp này gọi là “thu sơn” vì sao hướng vượng đã làm mất đi tử
khí của sơn tinh. Nếu sao sơn là vượng khí hay sinh khí lại đắc cách tức loan đầu có núi cao hay nhà cao
cây cao, trong khi đó hướng tinh là tử khí thì trường hợp này gọi là “xuất sát” hay còn gọi là “thoát sát” vì
sơn tinh vượng đã làm mất đi tử khí của hướng tinh.

Ý nghĩa của các cặp Sơn – Hướng tinh

1. Nhất Bạch
Nhất Bạch là sao Tham Lang, hiệu Văn Xương, ngũ hanh thuộc thủy, màu trắng; mùa thu tiến, mùa đông
vượng, mùa xuân tiết, mùa hạ tử . Kẻ sỹ gặp nó ắt được lộc của nó, người thường gặp nó nhất định tiền
bạc sẽ vào nhà, đây là đệ nhất cát thần . Bị khắc sát thì như Trang Tử gõ chậu mà chôn vợ . Nhất Bạch lại
là quan tinh, nếu nó đương vượng, hình thế Loan Đầu bên ngoài lại có thủy phóng quang thì khoa cử đổ
đại, danh lừng bốn bể, sinh con trai thông minh trí tuệ . Nó mà suy tử thì hại vợ, không thọ, cuộc đời trôi
nổi lênh đênh, màng nhiều bệnh tật về huyết, thận hư, hoặc thành kẻ nghiện ngập, trộm cướp

Nhất gặp Nhất là tỵ hòa. Nếu vượng thì có lợi cho tài văn chương hoặc các công việc về văn. Nếu suy thì
dễ bị bệnh về máu, nghiện ngập hoặc chìm đắm trong tửu sắc

Nhất gặp Nhị là khắc nhập. Nếu vượng thì mẫu thân dễ mắc bệnh về tỳ vị hoặc đường ruột . Nếu suy thì
chồng bị vợ nhục mạ hoặc lấn quyền, người nhà dễ mắc các chứng bệnh về thận hoặc tiết niệu

Nhất gặp Tam là sinh xuất. Nếu vượng thì con trưởng được danh giá quyền quý, có lợi cho người thuộc
mệnh Tam mộc, nhân đinh tài bạch đều phát lớn . Nếu suy thì con cháu dòng trưởng suy bại, bị kiện cáo
tù tội hoặc trộm cướp, người nhà dễ mắc các chứng bệnh về gan,chân, hoặc bị ép phải dời đi nơi khác ở
Nhất gặp Tứ là sinh xuất. Nếu vượng thì xuất người nổi tiếng trong khoa cử, quan vận hanh thông thuận
lợi, ra ngoài gặp nhiều điều hay về văn nghiệp, tên tuổi nổi bật . Nếu suy thì cũng đỗ đạt nhưng quý mà
không phú, hoặc vì mang tiến tài hoa mà chìm đắm trong chống nữ sắc sinh ra quan hệ nam nữ bất chính .
Nếu hình thế loan đầu bên ngoài có vật thuộc hành thổ thì đường văn chương hư bại, không con nối dõi,
hoặc con cái chết yểu

Nhất gặp Ngũ là khắc nhập. Nếu vượng thì được cả tài bạch lẫn sang quý (tức có địa vị chức tước). Nếu
suy thì nữ nhân trong nhà dễ mắc các chứng bệnh về đường sinh dục; nặng thì thận suy kiệt, ngộ độc thức
ăn, con thứ chết yểu

Nhất gặp Lục là sinh nhập. Nếu vượng thì từ nhỏ đã được hưởng giàu sang, ngoài ra, nếu sơn Kiền mà
đắc thủy (có sông nước) thì sự nghiệp văng chương có thể phát đên tám đời . Nếu suy thì thủy kim chủ về
lạnh, dễ mắc các chứng bệnh về đầu, xương hoặc bị thương tật vì kim loại

Nhất gặp Thất là sinh nhập. Nếu vượng thì đào hoa, dễ tạo của cải . Nếu suy thì kim thủy đa tình, đam mê
tửu sắc, hoặc vì tửu sắc mà bị kiện tụng thị phi, có khi vì tranh chấp mà sinh ra thù hằn gây gỗ đến nổi
phải mang thương tật

Nhất gặp Bát là khắc nhập. Nếu vượng thì trẻ con trong nhà có họa chết đuối, xuất hiện người có tài về
viết lách . Nếu suy thì vợ mắc chứng vô sinh, có bệnh về tai, thiếu máu, hoặc có con chết non

Nhất gặp Cửu là khắc xuất. Nếu vượng thì thủy hóa đều có đủ, lợi lớn về tiền tài, nhân khẩu cũng thịnh
vượng . Nếu suy thì dễ mắc các chứng bệnh về tim, vợ chồng bất hòa, anh em tranh chấp

2. Nhị Hắc
Nhị Hắc là sao Cự Môn, cũng là bệnh phù. Nếu vượng thì giau có, nhà cửa ruộng vườn thên than, nhân
khẩu hưng vượng, lại phát quý về binh nghiệp . Khi nó suy tử thì vợ đoạt quyền chồng, tính tình nhỏ
nhen, thâm hiểu, keo kiệt, khó sinh đẻ, có bệnh về bụng, trong nhà thường phát sinh bệnh tật liên miên

Nhị gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì giàu có về điền sản, gia cảnh hưng vượng, nhân khẩu đông,
mẫu thân khỏe mạnh sống lâu. Nếu suy thì vợ khắc chồng, đàn ông mất ở tuổi trung niên, quả phụ làm
chủ gia đình, người nhà thường mắc cách chứng bệnh về tỳ vị, đường ruột hay thận

Nhị gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng đất nhiều, có quyền thế, lợi về binh nghiệp. Nếu suy
thì ham mê nữ sắc, dâm đãng, khí lực suy yếu, mẹ già nhiều bệnh tật, người trong nhà thường xảy ra
nhiều chuyện xấu, ra ngoài dễ gặp tiểu nhân ngầm hại

Nhị gặp Tam là khắc nhập. Nếu vượng thì vợ ngắm quyền, gia tài tích lũy do làm việc bất chính, nhưng
con trưởng chẳng ra gì. Nếu suy thì đàn ông vì dâm đãng mà gia đình tan nát, đàn bà dễ mắc các chứng về
đường tiêu hóa . Nhị Tam sóng đôi còn gọi là "đâu ngưu sát" nên vợ chồng thường bất hòa, chống đối
nhau. Người trong nhà chỉ ham an chơi nên ruộng vường bỏ hoang, con cháu dễ thành trộm vặt

Nhị gặp Tứ là khắc nhập. Nếu vượng thì con dâu nắm quyền, gia đình hưng vượng, nhiều nhân đinh. Nếu
suy thì chọ dâu ức hiếp em chồng, nam giới hiếu sắc . Có mẹ già cô khổ, hoặc xuất gia làm ni. Người
trong nhà dễ mắc các chứng bệnh về tỳ vị, đường ruột, đau cách tay. Gia cảnh buồn tẻ vắng lặng, ra ngoài
thường gặp những việc tai tiếng quấn vào thân, hoặc mắc bệnh thương hàn

Nhị gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì tạo dựng cơ nghiệp dễ dàng, tài vận tốt, hưng thịnh nhất là về địa
sản. Nếu suy thì phát sinh đủ thứ bệnh, vợ đau yếu nặng, dễ thành người góa vợ . Đặc biệt người nhà
thường mắc các chứng về tỳ vị, đường ruột mãn tính

Nhị gặp Lục là sinh xuất. Nếu vượng thì gia cảnh bình yên, con cái thuận hòa, gia nghiệp hưng thịnh,
nhiều khả năng hành nghề y cứu đời, hoặc trở thành người có quyền trong nghiệp võ. Nếu suy thì cha già
lắm bệnh, trong nhà có người đi tu, cha con thù oán nhau, chủ khách tranh chấp, thường gặp việc tai tiếng
thị phi, người nhà thường mắc bệnh đau dầu hay điên loạn

Nhị gặp Thất là sinh xuất. Nếu vượng thì trở thành cự phú bằng tiền của bất chính hoặc bất ngờ (hoạnh
tài), nhiều con cái. Nếu suy thì mẹ và con gái thường nghịch nhau, vợ kế không hiền thục . Ngoài ra dễ có
hỏa tai hoặc bị chứng bạch đới cấp tính, kiết lỵ; đàn ông thường hay bị phụ nữ quấy rầy hoặc vì tranh
chấp thị phi mà bị đâm chém

Nhị gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng đất không thấy bờ. Nếu suy thì hay mắc bệnh nhẹ,
đàn bà thường bỏ nhà đi tu

Nhị gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì văn chương chử nghĩa bề bề, đất đai tiền của tích tụ lớn. Nếu
suy thì việc đen tối ập đến ngay, chủ về chuyện nam nữ ám muội, tiền của ra đi nhanh chóng, vả lại còn
xuất hiện người chồng ngu đân . Hóa nóng thổ (đất) khô nên dễ sinh ra chứng bạch đới cấp tính . Khi âm
quá nhiều nên nhiều đời có quả phụ . Thổ tổn thương mắt, con cháu ắt có người mù lòa

3. Tam Bích
Tam Bích là sao Lộc Tồn, tính thích đấu đá nên còn gọi là Xi Vưu. Nếu vượng thì tài lộc đầy đủ, chấn
hưng gia tộc, cơ nghiệp vững vàng . Con cái dòng trưởng đại hưng vượng. Nếu suy tử thì người nhà dễ bị
điên hoặc hen suyễn, chân tàn tật, khoác vợ, kiện tụng thị phi hoặc trở thành trộm cướp

Tam gặp Nhất là sinh nhập. Nếu vượng thì con trưởng được quyền quý, đinh tài đều đại phát, thi cử đổ
đạt. Nếu suy thì con cháu ngành trưởng lụn bại, tính khí ngỗ ngáo, có thể dẩn tới họa quan tụng; hoặc vì
bấtt hòa với xóm giềng mà phải dọn nhà đi xa. Việc làm phần lớn không thuận lợi, hơn nữa còn dễ bị
thương tật ở tai chân.

Tam gặp Nhị là khắc xuất. Nếu vượng thì được giàu có về nhà cửa ruộng vườn, con trưởng tài đinh đại
phát. Nếu suy thì dễ có sát khí chống đối nhau. Gia đạo bất hòa, vợ chồng không êm ấm. Thường vì tranh
chấp với cấp trên mà gặp điều tai tiếng . Dễ mắc chứng đau dạ dày, khó tiêu hóa, hoặc vì đánh nhau mà
chân bị thương tật; nói chung là gia đình gặp nhiều vất vả, trở ngại mà vẫn thất bại tan vở

Tam gặp Tam là tỵ hòa. Nếu vượng thì thanh danh hiển hách, hưng gia lập nghiệp, tiền của tương đối khá
giả. Nếu suy thì trong nhà sinh ra trộm cướp hoặc bị trộm cướp, dễ bị thương tật ở chân tay, hoặc vì đánh
nhau với người mà bị tù tội.
Tam gặp Tứ là tỵ hòa. Nếu vượng thì Tam và Tứ là chính phối, sinh nhiều quý tử, sự nghiệp và tài vận
phát triển hanh thông. Nếu suy thì trong nhà sinh ra trộm cắp hoặc ăn xin, thường mắc chứng dị ứng hoặc
bị thương ở tay chân, đau gan, đau mật. Nếu gặp Thái Tuế e rằng kiếp nạn vì tình hoặc bị rắn cắn

Tam gặp Ngũ là khắc xuất. Nếu vượng thì tiền tài khá giả và quyền quý, có thể làm quan to. Nếu suy thì
dễ bị các chứng độc như bọ cạp, rắn, rết cắn; tâm tư uất kết dễ mắc bệnh gan, hoặc thương tật ở chân.

Tam gặp Lục là khắc nhập. Nếu vượng thì quan trường lao đao vất vả nhưng sự nghiệp ắt thành, trở thành
người phụ tá đắc lực cho cấp trên. Nếu suy thì bị quan tụng hoặc tai họa binh đao, dễ bị thương tật ở chân
tay do kim loại gây nên; đôi khi mắc bệnh gan, gia đạo thường xảy ra tranh chấp.

Tam gặp Thất là khắc nhập. Nếu vượng thì nguồn tiền của tăng tiến, có chức quyền ca/ văn lẫn võ. Nếu
suy thì nó là "Xuyên Tâm Sát", thường mắc các chứng bệnh ở tay chân, gan mật; hoặc bị quan tụng thị
phi. Nếu phương Đoài bị khắc phá thì gan bị thương tổn hoặc mắc chứng thổ huyết. Trong nhà có kẻ đam
mê tửu sắc, bị trộm cướp trèo tường khoét vách phá hoại danh tiết con gái trong gia đình, chốn phòng the
không hòa thuận, các tai họa thường là con trưởng chịu

Tam gặp Bát là khắc xuất. Nếu vượng thì xuất hiện văn tài bậc nhất, lại phát cả tài lẩn đinh. Nếu suy thì
con thứ gặp nhiều tai họa, dễ bị thương gân cốt hoặc bị chó cắn. Anh em trong nhà bất hòa hoặc vì tranh
giành gia sản mà gây ra kiện tụng

Tam gặp Cửu là sinh xuất. Nếu vượng thì phát như sấm dậy, con cháu thông minh, văng tài hiếm thấy,
hưởng giàu sang được nhiều năm. Nếu suy thì tai tiếng thị phi chồng chất liên tiếp, thường mắc các chứng
đau mắt, đau dầu; ngoài ra con dễ gặp hỏa hoạn.

4. Tứ Lục
Tứ Lục là sao Văn Khúc . Nếu vượng thì tai văn chương lừng danh, khoa cử đổ đạt, con gái dung mạo
đoan trang và lấy được con nhà quyền quý . Nếu suy tử thì phụ nhân dâm loạn; đàn ông đam mê tửu sắc,
gia sản phá bại phải lang thang phiêu bạt

Tứ gặp Nhất là sinh nhập. Nếu vượng thì một đời danh giá, đại lợi về văn tài, học hành thì cử đổ đạt. Con
cái thông minh, thành tích thường đứng đầu, nghề nghiệp vừa ý, tài vận thuận lợi. Nếu suy thì dễ mắc
bệnh trúng phong, hoặc vì dâm đãng tửu sắc mà hư bại, gây ra tiếng xấu bên ngoài . Hoặc vợ vô sinh, có
con thì cũng chết yểu.

Tứ gặp Nhị là khắc xuất. Nếu vượng thì tương đối giàu sang, vợ nắm quyền trong nhà, con cái đông. Nếu
suy thì vợ ngỗ nghịch khắc mẹ chồng và ức hiếp em chồng. Không khí gia đình nặng nề, không vui;
người nhà thường hoảng loạn, dễ mắc chứng đau dạ dày; bị chó dại cắn . Mẹ chồng nàng dâu, chị dâu em
chồng thường hay xích mích, mẹ già gặp tai ương. Sự nghiệp suy bại, gia phong càng lúc càng xấu đi,
hoặc có người xuất gia làm ni.

Tứ gặp Tam là tỵ hòa. Nếu vượng thì âm dương phối hợp đúng phép, gia đạo êm ấm, con cái thuận hòa,
sự nghiệp thuận lợi, tương đối giàu sang. Nếu suy thì vợ chồng hay cải vả xích mích, người nhà thường
có ý làm tăng ni, xuất hiện kẻ sống lang thang chẳng ra gì. Thường mang bệnh dị ứng hoặc có tật ở tay
chân
Tứ gặp Tứ là tỵ hòa. Nếu vượng thì hai sao Văn Khúc cùng đến, con cháu thành tích nổi bật, có tinh
mừng về thi cử. Đại lợi về tài văn chương, làm quan văn khá nổi tiếng. Nếu suy thì phiêu bạn khắp nơi,
hoặc trở thành tăng ni. Đàn ông xa nhà bôn ba, sống nơi chân trời gốc bể. Người nhà dễ bị bệnh phong;
quả phụ làm chủ gia đình

Tứ gặp Ngũ là khắc xuất. Nếu vượng thì có tài văn chương, giàu có, sự nghiệp thuận lợi. Nếu suy thì ham
ăn ham uống, ruộng vườn bỏ hoang, cảnh nhà ảm đạm, buồn tẻ; nữ chủ nhân thường hay đau ốm, có ý
hướng xuất gia, khó sinh và khó nuôi con cái, gia đạo lụn bại.

Tứ gặp Lục là khắc nhập. Nếu vượng thì quan binh không dám đụng đến, được mọi người đối đãi tử tế,
gia đạo êm ấm, tài lộc có đủ. Nếu suy thì cha chồng ngược đãi con dâu, dễ khiến con dâu phải bỏ nhà ra
đi. Người trong nhà thường tranh chấp nhau; dễ mắc bệnh gan, mật và thương tật ở tay. Tứ Lục sóng đôi
là tượng "Dịch Mã", nên người nhà dễ phảI tha hương, rày đây mai đó; nặng thì có thể bị đày.

Tứ gặp Thất là khắc nhập. Nếu vượng thì vợ nắm quyền hành, táo bạo hơn người nhưng tích lũy được
nhiều tiên của. Nếu suy thì nam nữ đa dâm, con cháu học hành chẳng ra gì; dễ bị bệnh thổ huyết mà chết
yểu. Ra ngoài thị gặp nhiều thị phi; mẹ chồng nàng dâu bất hòa . Dễ phạm kiếp sát đào hoa

Tứ gặp Bát là khắc xuất. Nếu vượng thì vợ hiền dạy con thảo, của cải chất thành núi. Nếu suy thì người
nhà có người ở trong rừng núi sâu làm ẩn sĩ, hoặc vào chùa làm sư. Con cháu nhiều bệnh tật, học hành
không giỏi giang; dễ mắc bệnh viêm mũi, bệnh phong hoặc bị rắn hay chó cắn.

Tứ gặp Cửu là sinh xuất. Nếu vượng thì hợp với kim Tiên Thiên, được tài lẫn quý, xuất hiện kẻ sĩ văn
chương nổi tiếng. Nếu suy thì thường bị đau mắt hoặc bị hỏa tai. Đàn ông dễ rơi vào cảnh ngộ vi gian
dâm mà gia sản lụn bại

5. Ngũ Hoàng
Ngũ Hoàng là sao Liêm Trinh, là đại sát tinh Mậu Kỷ . Nếu vượng thì tài đinh đại phát . Nếu suy thì bất
kể nó được sinh hay bị khắc đều rất xấu . Vì vậy nó nên tịnh mà không nên động . Nếu gặp lúc sao Thái
Tuế tới thì tính hung càng phát ra mạnh, tức tổi đinh hao tài lớn, nhẹ thì ốm đau, nặng thì hao vài người .
Cuộc này nên tránh không nên phạm

Ngũ gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì tài đinh đại phát, nhưng con giữa không phát. Nếu suy thì con
giửa lại chịu tai ương hoặc đau ốm nặng, đặc biệt là bệnh về đường tiết niệu, bệnh phụ khoa. Ngoài ra còn
thường bị các bệnh về tai, hắc lào . Người nhà bệnh hoạn luôn

Ngũ gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì thì tài đinh đại phát, người mẹ nắm quyền trong nhà. Nếu suy thì
phát đủ thứ bệnh, nhất là cha mẹ. Chủ yếu là bệnh về dạ dày và đường ruột . Gặp lúc sao Thái Tuế tới thì
cha bệnh nặng, mẹ dễ thành quả phụ

Ngũ gặp Tam khắc nhập. Nếu vượng thì tài đinh đại phát, con trưởng được thừa hưởng phúc lộc. Nếu suy
thì thường mắc các chứng bệnh về gan, tụy, mụn nhọt, ghẻ lở ở chân tay hoặc chổ kín. Con trai phản
nghịch, trong nhà có người bị thương tật ở chân, gia đạo không yên ấm
Ngũ gặp Tứ khắc nhập. Nếu vượng thì có tài vănt hơ và giàu có, sự nghiệp thuận lợi. Nếu suy thì con trai
lêu lỏng ăn chơi, ruộng vườn bỏ hoang; phụ nhân có nhọ độc ở vú, phái nam thường bị sởi. Nhà cửa ảm
đạm buồn tẻ, con dâu có ý xuất gia làm ni, gia phong suy bại

Ngũ gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì đinh tài đều vượng, gia nghiệp phồn thịnh. Nếu suy thì khó thoát
hung sát hoành hành, dễ bị chứng bạch đới cấp tính. Nhẹ thì bị nhọt độc, nặng thì hao người

Ngũ gặp Lục sinh xuất. Nếu vượng thì tiền tài tương đối khá giả, con cái hiếu thuận, nhưng chủ nhân
không hưởng được. Nếu suy thì chủ nhân mang bệnh, nhẹ thì đau đầu, đau xương, nặng thì thập tử nhất
sinh, ra ngoài dễ bị thương tổn. Hoạn lộ gặp nhiều khó khăn, thậm chí có thể bị tổn thất

Ngũ gặp Thất sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có sung túc, gia nghiệp hưng vượng. Nếu suy thì tranh chấp
thị phi, chuyện rắc rối xảy ra thường xuyên, hoặc vì tửu sắc mà phá hết gia sản, có khi gây nên tai họa dẫn
tới tù tội. Thiếu nữ trong nhà thường đau ốm . Có người bệnh răng, miệng, họng, hoặc bị thương bởi búa
riều

Ngũ gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng vườn mênh mông, con cái tốt lành gặp nhiều thuận
lợi. Nếu suy thì con trai nhỏ thường đau yếu, trung niên đau mỏi gân cốt. Khí vận của gia đạo suy giảm

Ngũ gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì con cái thông minh, tài vận tốt. Nếu suy thì sinh con ngu đần,
người nhà mắc chứng đau mắt, đau đầu hay trong lòng buồn phiền. Gặp lúc Thái Tuế tới dễ mắc chứng
bạch đới cấp tính

6. Lục Bạch
Lục Bạch là sao Vũ Khúc, là cát tinh. Nếu vượng thì quyền uy chấn động bốn phương, làm võ tướng thì
công trạng hiển hách, gia đình giàu có, nhiều nhân đinh. Nếu suy tử thì sống cô độc hoặc chết trong binh
đau; Người nhà thường góa vợ, có nhiều quả phụ

Lục gặp Nhất là sinh xuất. Nếu vượng thì quan vận thuận lợi, hanh thông, tiền của dồi dào, con cái học
hành đỗ đạt. Nếu suy thì quan lộc tuy không giảm nhưng người nhà thường mắc chứng đau đầu, hoặc gặp
tai nạn sông nước.

Lục gặp Nhị là sinh nhập. Nếu vượng thì phát lớn, giàu có nhiều vàng bạc ngọc quý, cuộc sống bình yên,
xuất hiện người hành nghề y cứu đời. Nếu suy thì tham lam vô độ, bủn xỉn, hoặc xuất gia đi tu, vợ chồng
bất hòa chia cách. Người nhà thường mắc các chứng về đầu, xương, dạ dày, đường ruột

Lục gặp Tam khắc xuất. Nếu vượng thì tài vận và quan vận đều hanh thông, quyền uy hơn người. Nếu
suy thì dễ gặp nạn binh đao, bị thương, cha con bất hòa, có tang tóc.

Lục gặp Tứ khắc xuất. Nếu vượng thì giàu có, thành công trên thương trường, nhất là lãnh vực buôn báng
đường xa, hoặc được làm quan võ. Nếu suy thì khắc vợ hoặc bị khổ sai, có khi người vợ không chịu đựng
nổi, phải bỏ mà đi. Người nhà thường đau tay, đau đầu hoặc bị tê liệt
Lục gặp Ngũ là sinh nhập. Nếu vượng thì tài vận và quan vận đều tốt, nhưng có tiểu nhân ngầm hại. Nếu
suy thì tiểu nhân chống đối, làm hao tổn tinh thần hoặc mất chức. Chủ nhân nhiều bệnh tật, thường là
bệnh đau đầu, tinh thần bất ổn có thể làm điều sai quấy

Lục gặp Lục tỵ hòa. Nếu vượng thì quan vận thuận lợi, hanh thông, quyền chức cao. Nếu suy thì gặp
nhiều rắc rối, khó thoát thân, có khi phải ngầm di chuyển chỗ ở; hoặc bị hung đồ truy đuổi mà phải trốn
chạy, của cải tổn thất, dễ bị tai nạn trên đường.

Lục gặp Thất tỵ hòa. Nếu vượng thì làm văn quan hay võ chức đều có quyền lớn trong tay, tài lộc thuận
lợi. Nếu suy thì dễ bị thương vì đao kiếm, hoặc vì tranh chấp mà bị tổn thương. Nhà có thể bị trộm cướp,
hoặc vì xích mích mà gặp rắc rối . Già trẻ đều không yên, thường mắc bệnh đau đầu, đau miệng, đau họng

Lục gặp Bát là sinh nhập. Nếu vượng thì có văn chức, võ quyền, công danh và bổng lộc đều có, con cháu
được thừa hưởng gia nghiệp hưng thịnh. Nếu suy thì tuy quan lộc không giảm nhưng người nhà phần
nhiều mắc bệnh đau đầu, đau xương.

Lục gặp Cửu là khắc nhập. Nếu vượng thì hỏa chiếu thiên môn nên đinh tài đều vượng, chủ nhân quyền
cao chức trọng lại sống thọ. Người nhà xuất hiện võ tướng tài ba. Nếu suy thì hỏa đốt thiên môn, người
nhà sinh con bất hiếu. Con cháu dòng trưởng sa sút, gặp hỏa khắc kim thì dễ bị bệnh thổ huyết . Hỏa thiêu
dốt thiên môn nên trong nhà dễ sinh nghịch tử; hỏa thịnh thì dễ gặp tai ương

7. Thất Xích
Thất Xích là sao Phá Quân, còn gọi là tặc tinh. Nếu vượng thì phát về võ quyền, đinh tài đều vượng . Nếu
suy thì trong nhà xuất hiện trộm cướp hoặc có người chết trận, bị giam cầm . Gia đạo không yên, có thể vì
hỏa tai mà tổn đinh hoặc xuất hiện người ham mể tửu sắc .
Thất là hung tinh vì vậy nên tịnh mà không nên động . Động thì điều xấu càng nhiều, nhất là nhà ở đầu
phố hay ngã ba thì nguy hại càng lớn . Nếu sao Thất Xích tương ứng với hình thế Loan Đầu thì sẻ các
biểu hiện như:
a. Bên ngoài có sa hình dạng hồ lô thì trong nhà có người hành nghề y
b. Bên ngoài có sa hình dạng con dao thì có con làm nghề đồ tể
c. Bên ngoài có sa hình dạng cái kềm thì trong nhà có người làm thợ thủ công
d. Bên ngoài có sa hình dạng cờ trống thì trong nhà dễ có người phản nghịch
e. Bên ngoài có sa thủy hình dạng thập thò hoặc phình ra bên hông thì trong nhà dễ có kẻ làm trộm cướp
f. Bên ngoài có sa xung chiếu thẳng tới gặp Nhất Lục bay đến thì trong nhà dễ có người thổ huyết nặng

Thất gặp Nhất là sinh xuất. Nếu vượng thì võ chức thăng tiến, con cái đào hoa. Nếu suy thì thủy kim đều
lạnh nên con cháu ham mê tửu sắc, tiêu phá tiền của hoặc vong ơn bội nghĩa. Gặp lúc Thái Tuế bay tới thì
có điều nọ tiếng kia, hoặc bị cướp, bị bệnh ở bụng dưới, thổ huyết, thương tật, hay bị tù đày mà phá sản

Thất gặp Nhị là sinh nhập. Nếu vượng thì tài sản ruộng vườn thêm nhiều, thăng quan tiến chức, phụ nhân
sang quý . Nếu gặp được số Nhị Thất bát quái Tiên Thiên thì trong nhà luôn có đèn chiếu sáng, hưng
vượng nhộn nhịp. Nếu suy thì dễ gặp hỏa hoạn, phụ nữ trong nhà bất hòa, người nhà dễ bị ngộ độc thức
ăn, có bệnh về răng miệng hay kiết lị.

Thất gặp Tam khắc xuất. Nếu vượng thì làm văn thần võ tướng, quyền cao chức trọng, trong nhà xuất
hiện người có tài văn thao võ lược, bốn phương kính phục, con cháu giỏi giang hơn người. Nếu suy thì
đối xử thô bạo với mọi người, con cái hống hách lộng hành. Gia đạo bị xuyên tâm sát dễ gặp binh đao,
trộm cướp . Trong nhà cãi cọ, kiện cáo lẫn nhau; gia đình bất hòa, con cái ly tán . Người nhà dễ mắc bệnh
thổ huyết, bị thương tật hoặc quan tai.

Thất gặp Tứ khắc xuất. Nếu vượng thì phụ nhân sang cả quyền thế, quan lộc đều có, đồng thời gặp vận
đào hoa. Nếu suy thì phụ nữ làm chủ nhân, gặp kiếp đào hoa nên nam nữ ham dâm, trong nhà bất hòa, mẹ
chồng nàng dâu không hòa thuận. Dễ bị bệnh thổ huyết hoặc chết yếu

Thất gặp Ngũ là sinh nhập. Nếu vượng thì giàu có, ruộng vườn của cải đại phát. Nếu suy thì có bệnh ở
miệng, ung nhọt. Thường tranh chấp nên dễ bị kiện tụng hoặc gặp rắc rối vì đào hoa

Thất gặp Lục tỵ hòa. Nếu vượng thì văn võ toàn tài, quan lộc đều có. Nếu suy thì có tranh chấp ở chốn
quan trường, gia đạo bất hòa, dễ bị thương tật vì đao kiếm hoặc tai nạn xe cộ. Dễ bị bệnh tật ở miệng, đau
đầu, viêm nhọt

Thất gặp Thất tỵ hòa. Nếu vượng thì của cải và quyền bính đều được quý nhân phù trợ nhưng kiếm tiền
bất nghĩa. Nếu suy thì dễ gặp trộm cướp hoặc hỏa hoạn; thường hay bị tranh chấp. Trai gái vì ham mê tửu
sắc nên dễ bị quan tai

Thất gặp Bát là sinh nhập. Nếu vượng thì thăng quan tiến chức liên tiếp, tài vận hanh thông, trở nên giàu
có, gia đình hòa thuận, con cháu khỏe mạnh và phát triển thuận lợi. Nếu suy thì tiền tài tổn thất, ra đi
nhanh chóng. Dễ bị tật ở miệng hoặc con nhỏ lắm bệnh tật

Thất gặp Cửu là khắc nhập. Nếu vượng thì hỏa chiếu sảnh đường, gia đạo hưng vượng. Nếu suy thì dễ
gặp hỏa hoạn. Phương vị Thất Cửu nếu có Nhất Bạch bay đến thì dể gặp hỏa tai. Nếu phương vị Thất Cửu
là ở hướng mà động thì gặp hỏa hoạn . Thất Cửu ở phương vị sơn gặp Nhị Hắc thì hung sát càn nặng, dù
không động cũng gây nên hỏa hoạn . Nếu Loan Đầu bên ngoài có nhiều màu đỏ thì khó tránh khỏi hỏa tai

8. Bát Bạch
Bát Bạch là sao Tả Phụ, là cát tinh. Nếu vượng thì trung hiếu, phú quý dài lâu, con cháu được hưởng phúc
lộc tổ tiên. Nếu suy tử thì có tổn thương nhỏ hoặc bị bệnh dịch

Bát gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì đại lợi về văn chương học hành, văn chức thăng tiến, đặc biệt
thuận lợi về kinh doanh địa sản. Nếu suy thì dễ mắc bệnh thiếu máu, bệnh về tai; anh em trong nhà bất
hòa, bạn bè phản bội, hoặc phụ nữ không sinh đẻ, trẻ con chết đuối.

Bát gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có nhờ địa sản. Nếu suy thì dễ mắc bệnh đau dạ dày, đường
ruột, hoặc bị chó cắn. Nếu Loan Đầu bên ngoài có dải núi chạy đi thì có thể xa rời quê hương đất tổ, xuất
gia làm tăng ni hoặc chết ở đất khách quê người

Bát gặp Tam khắc nhập. Nếu vượng thì địa sản (nhà cửa, ruộng vườn) dồi dào, quyền lực tăng tiến lên đột
ngột, nhờ đước số của Tiên Tiên bát quái nên việc hợp tác rất tốt. Nếu suy thì của cải thất thoát, chức
quyền giảm sút. Trong nhà có người bị thương nhẹ ở tay chân hoặc có bệnh gan, dạ dày
Bát gặp Tứ khắc nhập. Nếu vượng thì vợ nắm quyền, giàu có về ruộng vườn và nhà cửa. Nếu suy thì có
tổn thương nhỏ, vợ lấn quyền chồng, gia đạo bất hòa. Ra ngoài dễ gặp tai nạn xe thuyền, hoặc làm ẩn sĩ ở
chốn núi rừng

Bát gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì tài lộc phát đạt, vận thế hanh thôn. Nếu suy thì hao tài tổn sức, dễ bị
bệnh nhẹ, vận thế trở ngại. Dễ mắc bệnh đau bao tử, đường ruột, hoặc ngộ độc thức ăn

Bát gặp Lục sinh xuất. Nếu vượng thì dễ trở thành quan văn, nhiều quyền thế, phú quý và phúc đức tăng
cao. Nếu suy thì thì vẫn giàu sang nhưng cha con bất hòa, dễ mắc bệnh đau đầu, nhức xương.

Bát gặp Thất sinh xuất. Nếu vượng thì văn chức võ quyền đều có, tài lộc sung túc, vợ chồng hòa thuận,
con cái an khang. Nếu suy thì tài sản dễ tiêu tán, vợ chồng mâu thuẩn bất hòa, con cháu tổn thất.

Bát gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì có lợi về văng chương, học hành; phát về ruộng vườn, nhà cửa; giàu
sang phú quý đều có, sự nghiệp hưng vượng. Nếu suy thì sự nghiệp suy tàn, của cải thất tán. Thường mắc
bệnh nhức xương đau vai

Bát gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì tin vui đến dồn dập; giàu có không ai sánh kịp, có địa vị trong
triều đình. Nếu suy thì mắt mũi lắm tật bệnh, bụng nhiệt, đại tiện ra máu, hoặc bị hỏa hoạn.

9. Cửu Tử
Cửu Tử là sao Hữu Bật . Nếu vượng thì văn chương lừng lẫy, vinh hiển đột ngột, con cháu dòng giữa
được hưởng phú quý . Nếu suy thì bị hỏa tai, hoặc tai họa ở chốn quan trường, bị thổ huyết, điên loạn,
bệnh mắt, hoặc sinh đẻ khó

Cửu gặp Nhất là khắc nhập. Nếu vượng thì trong nhà có nhiều việc vui mừng, âm dương chính phối, thủy
hỏa có đủ, vợ sinh nhiều con trai, giàu sang đến đột ngột. Nếu suy thì con cháu dòng giữa lụn bại, có bệnh
ở mắt và tai. Nếu kèm theo Thất Xích bay đến thì e rằng có hỏa tai

Cửu gặp Nhị là sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có về ruộng vườn nhà cửa, mẫu thân quản lý gia sản. Nếu
suy thì sinh con đần độn, tran viên bị hỏa hoạn, dạ dày nóng nên đại tiện ra máu, dễ có bệnh đường ruột
hoặc bệnh mắt.

Cửu gặp Tam sinh nhập. Nếu vượng thì đèn luôn rực sáng sảnh đường, quyền cao chức trọng, uy chất bốn
phương, con cháu thông minh đắc chí. Nếu suy thì e rằng có kiếp nạn vì dâm loạn, có hỏa hoạn. Đàn ông
hung ác, bại hoại thanh danh. Người nhà dễ bị bệnh mắc, hoặc bị thương tật ở chân

Cửu gặp Tứ sinh nhập. Nếu vượng thì sảnh đường rực sáng, chồng vẻ vang danh tiếng, vợ sang quý đẹp
đẽ, con cháu thông minh, tài văn chương nổi bật, có nhiều hoạnh tài, tinh mừng đến dồn dập. Nếu suy thì
nam nữ dâm loạn, danh tàn thân bại, sự nghiệp tiêu tan, thường bị bệnh mă*'c hay lưng eo. Con cháu
hoang đàng bừa bãi

Cửu gặp Ngũ là sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có về địa sản. Nếu suy thì sinh con đần độn, con có tổn
thương về mắt. Nếu Loan Đầu bên ngoài có ngọn núi trọc vi bị tàn phá thì con cháu thi cử khó đỗ đạt;
trong nhà có người bị tật hay mù lòa, hoặc vì sắc dục mà mắc bệnh giang mai, nhọt độc.

Cửu gặp Lục khắc xuất. Nếu vượng thì văn chương hiển đạt. Thất Bát Cửu liền nhau là ứng nghiệm tám
đời đều đó tài văn chương. Chủ nhân khỏe mạnh sống lâu, gia đạo an khang. Nếu suy thì lửa thiêu đốt
thiên môn, trong nhà sinh ra nghịch tử, hoặc con cháu bỏ nhà ra đi. Hỏa khắc kim (phế thuộc kim) nên dễ
bị thổ huyết, hoặc bệnh lao.

Cửu gặp Thất khắc xuất. Nếu vượng thì nam nữ thông minh lanh lợi, tiền của hoạnh tài đến tay. Nếu suy
thì nam nữ nghiện ngập; vì ham mê tử sắc hoặc bị hỏa hoạn mà tài sản tiêu tán, nhà có người mắc bệnh
lao. Cửu Thất là hỏa của Tiên Thiên và Hậu Thiên bát quái, cho nên chủ về hỏa hoạn và củng là quan tai.

Cửu gặp Bát là sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có về ruộng vườn nhà cửa, văn chức thăng tiến, tinh mừng
đến dồn dập. Nếu suy thì hỏa viêm thổ táo, sinh con ngu đần. Nhà có người bị tật mắt hoặc mắc bệnh đau
bao tử

Cửu gặp Cửu là tỵ hòa. Nếu vượng thì tài văn chương hiển hách, nổi tiếng khắp nơi, gia cảnh rực rỡ, đinh
tài phát đột ngột. Nếu suy thì sinh nhiều con gái, nam nữ hiếu sắc. Trong nhà có người bị tật ở mắc hoặc
mù lòa . Trong nhà dễ có người bị bệnh bạch đới cấp tính.

(trích từ Thẩm thị Huyền Không học)

Lập trạch và sự thành bại

Khi chuẩn bị xây dựng một căn nhà mới hoặc chuẩn bị vào ở một căn nhà mới chúng ta cần phải coi cho
kỹ trước khi quyết định. Vì nhiều khi coi không kỹ đến khi vào ở thì những chuyện không may sảy đến,
lúc đó muốn sửa chữa thì thật là nan giải. Sau đây chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu từng trường hợp tạo
nên cát, hung cho một căn nhà.

Vận
Trước hết xin nói rõ hơn về vận khí từng giai đoạn
Theo Huyền Không Phi Tinh thì có 3 Nguyên (gốm THƯỢNG NGUYÊN, TRUNG NGUYÊN và HẠ
NGUYÊN), mỗi nguyên có 3 vận (tất cả là 9 VẬN), mỗi vận là 20 năm. Thí dụ: Chúng ta đang ở vận 8 từ
năm 2004 đến 2023. Vì sự dịch chuyển của thời gian có sai số nên thời gian tính mổi vận vào thời đại
chúng ta có sớm hơm một chút (khoảng nửa năm), như vậy nửa cuối năm 2003 được tính là thuộc vận 8
và tinh bàn sẽ lập theo vận 8.
Thời gian tính để lập tinh bàn :
_ Được tính khi người bắt đầu vào ở ( ăn, ngủ, đốt bếp,…). Không tính giai đoạn làm nhà
_ Khi đổi vận: đỡ mái lợp lại để cho ánh nắng chiếu xuống tới nền nhà đối với nhà trệt, sửa chữa trên
30% căn nhà hoặc thay đổi hình thể căn nhà như: nhà dạng Kim thay thành dạng thổ,…Đi xa khỏi nhà
trên 2 tháng hoặc nhà bỏ trống nhà trên 1 tháng
Sinh Vượng Suy Tử :
Số bằng với số đương vận thì gọi là vượng khí, hơn một gọi là sinh khí, hơn hai gọi là tiến khí. Số đương
vận trừ một gọi là thoái khí, trừ hai và các số còn lại gọi là tử khí
_ TIẾN KHÍ: Số tốt nhưng còn rất xa nên lực không mạnh.
_ SINH KHÍ: Số tốt cần phát huy tuy còn hơi xa.
_ VƯỢNG KHÍ: Số cực tốt, nó chi phối tất cả. Nhà có cửa được vượng khí thì ba cái tẹp nhẹp nhiều khi
không cần tính đến, chỉ khi nào qua vận kế nó trở thành thoái khí thì mấy anh chị kia mới trỗi dậy mà sinh
nhiều vấn đề
_ THOÁI KHÍ: năng lực đã suy thoái trở nên xấu nhưng tác hại chưa mạnh lắm trừ ba sao 2, 5, 7
_ TỬ KHÍ: Số rất xấu cần phải né tránh
Hình thế bên ngoài và Sinh Vượng Suy Tử
_ Hướng tinh: Sao Sinh, Vượng thì cần thấy thuỷ, trống thoáng hay đường đi(gọi là hướng tinh đắc cách).
Nếu khu vực này lại có núi, đồi , nhà cao hoặc cây cao thì lại trở thành Suy, Tử(gọi là hướng tinh thất
cách). Sao hướng tinh suy tử gặp thuỷ càng suy thêm
_ Sơn tinh: Sao Sinh, Vượng thì cần thấy núi, đồi, nhà cao hoặc cây cao( gọi là sơn tinh đắc cách). Nếu
khu vực này lại có ao hồ, trống thoáng hay đường đi thì trở thành Suy, Tử (gọi là sơn tinh thất cách). Sao
sơn tinh là suy tử gặp núi( đồi hoặc nhà cao, cây cao) lại càng suy thêm
“Sơn quản nhân đinh, thuỷ quản tài”
Nếu sơn tinh là sinh vượng khí được đắc cách thì nhà có nhiều người hoặc thêm người, người nhà khoẻ
mạnh ít bệnh tật. Nếu là suy tử khí hoặc thất cách thì nhà thưa vắng hoặc bệnh tật
Nếu hướng tinh là sinh vượng khí được đắc cách thì tiền bạc dồi dào. Nếu là suy tử khí hoặc thất cách thì
tiền bạc eo hẹp

Đại không vong


Trên la bàn phân chia làm 8 hướng mỗi hướng 45 độ tuyến vị nằm ngay vị thế phân chia giữa 2
hướng gọi là đại không vong
Như vậy, có 8 tuyến Đại không vong trên la bàn như sau:

- Tuyến 22 độ 5 (giữa BẮC và ĐÔNG BẮC).


- Tuyến 67 độ 5 (giữa ĐÔNG BẮC và ĐÔNG).
- Tuyến 112 độ 5 (giữa ĐÔNG và ĐÔNG NAM).
- Tuyến 157 độ 5 (giữa ĐÔNG NAM và NAM).
- Tuyến 202 độ 5 (giữa NAM và TÂY NAM).
- Tuyến 247 độ 5 (giữa TÂY NAM và TÂY).
- Tuyến 292 độ 5 (giữa TÂY và TÂY BẮC).
- Tuyến 337 độ 5 (giữa TÂY BẮC và BẮC).

Ngoài 8 tuyến vị kể trên (được coi là 8 tuyến Đại không vong chính), còn có những tuyến nằm
gần sát và 2 bên những tuyến đó trong khoảng 1,5 độ cũng đều được coi là những tuyến Đại
không vong cả.
Những nhà thuộc tuyến Đại không vong đều bị coi là “LẠC QUẺ” hay “XUẤT QUÁI” (tức ra
ngoài phạm vi 1 hướng) bởi vì tạp khí hỗn loạn,
Khi lập tinh bàn cho nhà đại không vong ta lập 2 tinh bàn chồng nên nhau, cho nên khí của 2 quẻ
pha tạp tạo nên sự hỗn loạn. Những căn nhà này dể có nhiều tai họa nghiêm trọng như bị tà khí
chi phối, bị ma quỷ quấy phá, cũng như con người trở nên hẹp hòi, thô lậu, bần tiện, gian trá hơn.
Nhà đại không vong có nhiều tai hoạ mà dẫn tới chủ nhà phải ra đi biến căn nhà thành nhà
hoang.
Tiểu không vong
Mỗi hướng lại có ba sơn (hướng), mỗi sơn chiếm 15 độ vị chi là 24 sơn trên la bàn
Các tuyến tiểu không vong là:
- Hướng BẮC: gồm những tuyến: 352 độ 5, 7 độ 5, và 22 độ 5.
- Hướng ĐÔNG BẮC: những tuyến: 37 độ 5, 52 độ 5, và 67 đô 5.
- Hướng ĐÔNG: gồm những tuyến: 82 đô 5, 97 độ 5, và 112 độ 5.
- Hướng ĐÔNG NAM: những tuyến: 127 độ 5, 142 độ 5, và 157 độ 5.
- Hướng NAM: gồm những tuyến: 172 độ 5, 187 độ 5, và 202 độ 5.
- Hướng TÂY NAM: những tuyến: 217 độ 5, 232 độ 5, và 247 độ 5.
- Hướng TÂY: gồm những tuyến: 262 độ 5, 277 độ 5, và 292 độ 5.
- Hướng TÂY BẮC: những tuyến: 307 độ 5, 322 độ 5, và 337 độ 5.

Tuy nhiên, nếu để ý kỹ thì ta thấy tất cả những tuyến Tiểu không vong cuối cùng của mỗi hướng
như 22 độ 5 của hướng BẮC, 67 độ 5 của hướng ĐÔNG BẮC, 112 độ 5 của hướng ĐÔNG... đó
chính là những tuyến Đại không vong.

Nhà ở tuyến vị tiểu không vong thì âm dương lẫn lộn làm cho gia đạo không yên. Nhưng nếu để
ý thì ta thấy nếu là Thiên nguyên long và Nhân nguyên long trong mỗi hướng đều cùng một khí
Âm hoặc Dương cho nên những tuyến tiểu không vong này thực tế là vô hại. Chỉ khi phạm vào
giữa địa nguyên long với hai nguyên long kia thì cần tránh kẻo mang hoạ.
Nhà gặp tuyến không vong nếu 2 tinh bàn chồng lên nhau lại được những cát tinh vào cùng một
cung thì vẫn luận là tốt
Sau đây là một thí dụ điển hình trích trong TRẠCH VẬN TÂN ÁN
“VỢ; CHỒNG LỤC ĐỤC CHIA TAY”
Bên ngoài cửa Đại Nam, Thượng Hải, có nhà họ Thẩm, xây dựng ở vận 3, sáng sủa rộng rãi. Chỉ
tiếc là có khe hở chạy dài giữa nhà theo hướng NHÂM-BÍNH – TÝ-NGỌ, phạm Không vong,
chẳng thể ở lâu. Nếu ở lâu sẽ chuốc tai tiếng, vợ chồng lục đục dẫn tới bỏ nhau, cốt nhục chia lìa
đau khổ.
(Dưới đây là trạch vận căn nhà)

(Chú ý vì tọa-hướng nhà nằm giữa các sơn NHÂM-BÍNH – TÝ-NGỌ, nên khi lập trạch vận thì
đem những vận tinh tới tọa và hướng nhập trung cung, xong xoay chuyển theo cả 2 chiều thuân-
nghịch cho phù hợp âm-dương với 4 sơn NHÂM-BÍNH – TÝ-NGỌ. Do đó, tại mổi khu vực sẽ
có 2 Sơn tinh và 2 Hướng tinh).
Nhà này trong vận 3, khí khẩu đắc (các) Hướng tinh 8, 6, 1, 4 (nơi ngoại khí khẩu ở khu vực phía
TÂY BẮC, và nội khí khẩu ở khu vực phía TÂY NAM), THANH DANH TỐT ĐẸP. Gian bếp
(nơi khu vực phía ĐÔNG BẮC) có hướng thủ thiên tinh 1, 4 đến (tức nơi đó có 2 Hướng tinh 1
và 4). Nếu mở cửa sau ở gian này, CÓ THỂ NÓI LÀ ĐẠI CÁT. Tiếc rằng lại không mở, để Sơn
tinh 2, 5 hoạt động (nên chủ hại cho nhân đinh). Năm 1926 BÍNH DẦN (lúc đó đã qua vận 4),
Ngũ Hoàng chiếu vào bếp (vì năm đó 2 nhập trung cung, nên niên tinh 5 tới ĐÔNG BẮC), chủ
vợ, chồng ốm nặng, lục đục, dẫn đến ly hôn. Hướng tuy gặp thoái khí Nhị Hắc phải tiêu nhiều
tiền, nhưng có vượng khí Tam bích cùng đến (vì nhà hướng NAM, tại đây có cả 2 Hướng tinh 3,
2 cùng tới). Lại thêm nội khí khẩu Tứ lục là sinh khí cùng tới, nên tiền vào gấp đôi, khá tốt.
Bước sang vận 4, cửa trước, cửa sau 2, 3 đều là khí suy thoái (cửa trước nơi phía NAM có 2
Hướng tinh 3, 2; cửa sau nơi phía BẮC có 2 hướng tinh 2, 3). May nhờ nội khí khẩu ở phía cổng
Tứ lục (tức khu vực phía TÂY NAM) đến bổ trợ, nhưng vẫn khiến chủ nhà thu không bù chi,
luôn lo lắng.
Sang vận 4, thường dùng cửa phía BẮC (nơi có đường xe điện ra vào). Đường dẫn khí tuy nông
(vì cửa nằm ngay sát đường), nhưng dẫn khí sinh vượng nên còn được thuận lợi. Ít lâu sau, chủ
nhà nằm mơ người vợ đã chết về báo mộng là ông sẽ ốm nặng, phải bỏ việc kinh doanh, khuyên
ông nên dời đi nơi khác. Chẳng mấy chốc thấy ngay ứng nghiệm. Trong nhà lại thường thấy có
chuột chết, là điềm gở. Năm ĐINH MÃO, sao Bệnh Phù (Nhị Hắc) chiếu tới bếp căn nhà phía
TÂY (vì nhà này có 2 bếp, bếp này nằm tại khu vực phía TÂY BẮC của phòng này), nên 2 cha
con họ Thẩm ốm nặng từ tháng 5 đến tháng 8. Hiện họ Thẩm đã chuyển đi nơi khác. Tiên sinh
Thẩm điệt Dân (con trai của Thẩm trúc Nhưng) nhận xét:”Phàm hướng Không vong hay thấy ma
quỷ”.
Ta thấy những vấn đề sau:
_ Nhà tuy phạm đại không vong nhưng vì cửa trong và ngoài đều được cát khí nên vẫn tốt
đẹp cả về tài lộc lẫn thanh danh. Chỉ đến khi thất vận mới có tai hoạ mà thôi
_ Nhà này hướng không vong là có hoạ về nhân đinh(như vợ, chồng bỏ nhau, cốt nhục chia
lìa...), nhưng chỉ đến lúc thất vận, hoặc bếp tọa tại những khu vực có Sơn tinh là khí suy, tử
thì họa về nhân đinh mới có.
_ Ngoài ra nhà phạm Đại không vong nếu được thành môn đắc cách thì vẫn vượng phát một
thời. Nhưng khi thành môn hết tác dụng tai họa đến liền kề
_ Nếu cửa chính ra vào nhà bị phạm đại không vong hoặc tiểu không vong cũng là đại kỵ vì
mang tạp khí vào nhà.
_ Nếu mộ phần gặp Đại không vong hoặc Tiểu không vong (giữa Thiên và địa nguyên long)
thì tai họa thật khủng khiếp cho con cháu đời sau.
Những thí dụ cho việc này tôi sẽ trình bày trong phần "Huyền không nghiệm chứng"
Chính sơn chính hướng

Tuyến chính hướng là đường thẳng góc đè lên chính giữa chữ nào đó. Lập chính sơn chính hướng mục
đích là để chọn khí của quẻ sơn và hướng được thuần khiết, không pha tạp. Lập tuyến kiêm hướng là lệch
sang trái hay sang phải để kiêm trái hoặc kiêm phải. Nếu lệch đến một độ số nhất định (theo lý thuyết là
từ 3 độ trở lên) thì không còn là quẻ thuần nữa, khi ấy xuất hiện kiêm quái hay kiêm hướng. Nếu lệch ra
khỏi quẻ sẽ phạm sai lầm “hướng xuất quái”. Nếu lệch bên trong sẽ phạm sai lầm khí âm dương lẫn lộn.
Tuyến không thể lập trạch, nói đơn giản là các tuyến phạm đại không vong và tiểu không vong. Phạm đại
không vong chủ về đại hung, hao người tốn của rất nặng. Phạm tiểu không vong thì dẫn đến hung sát, làm
ngưới không yên, gia đạo bất ổn. Phạm ngũ hành lẫn lộn dẫn đến khí sát, có thể hao tổn tiền tài, người
nhà ốm đau.
Phương pháp lập tuyến đúng phép gọi là “hợp tuyến pháp” nghĩa là không những phải hợp lý với tinh
bàn, mà còn phải phù hợp với hình thế bên ngoài. Nếu vì hoàn cảnh bắt buộc phải lập trạch mà xuất hiện
kiêm hướng thì phải dùng phương pháp quẻ thế để lý khí và hình thế phù hợp với nhau. Nếu hoàn cảnh
địa hình rơi vào vị trí “không vong” thì đành bỏ cuộc đất ấy, không dùng kẻo mang hoạ.
Huyền không phong thuỷ rất coi trọng vấn đề thuần khí.xem nó như là yếu tố đầu tiên quyết định họa
phúc, sang hèn của một căn nhà. Như nhà kiêm hướng khi lập tinh bàn thế thấy vượng sơn vượng hướng,
cho dù được vậy thì vượng mà không vượng vì khí đã pha tạp. Khi an cổng cửa củng phải lưu ý đến vấn
đề thuần khí. Xin được nhắc lại:
THIÊN NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương: CÀN-KHÔN-CẤN-TỐN
• 4 sơn âm: TÝ-NGỌ-MÃO-DẬU
NHÂN NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương: DẦN-THÂN-TỴ-HƠI
• 4 sơn âm: ẤT-TÂN-ĐINH-QUÝ

ĐỊA NGUYÊN LONG:


• 4 sơn dương : GIÁP-CANH-NHÂM-BÍNH
• 4 sơn âm: THÌN-TUẤT-SỬU-MÙI
Ngoài vấn đề thuần khí âm dương Khi an cổng, ngõ lại còn phải áp dụng phép phân kim sẽ được trình
bày ở những hồi sau

Phân kim

Cuối đời Thanh, Thẩm trúc Nhưng tiên sinh, ngưới Tiền Đường là một phong thủy gia lỗi lạc cả
về Bát Trạch lẫn Huyền Không đã đính chính lại cách phân kim của Tưởng bàn. Mỗi sơn giữ 5 vị
trí, mỗi vị trí chiếm 3 độ.
Phương pháp phân kim cụ thể như sau:
_ Sơn Tý có: Giáp Tý (kim), Bính Tý (thuỷ), Mậu Tý (hoả), Canh Tý (thổ), Nhâm Tý (mộc).
_ Sơn Quí có : Giáp Tý (kim), Bính Tý (thuỷ), Mậu Tý (hoả), Canh Tý (thổ), Nhâm Tý (mộc).
_ Sơn Sửu có: Ất Sửu(kim), Đinh Sửu (thuỷ), Kỷ Sửu (hoả), Tân Sửu (thổ), Quí Sửu (mộc)
_ Sơn Cấn có : Ất Sửu(kim), Đinh Sửu (thuỷ), Kỷ Sửu (hoả), Tân Sửu (thổ), Quí Sửu (mộc)
_ Sơn Dần có : Bính Dần (hoả), Mậu Dần (thổ). Canh Dần (mộc), Nhâm Dần (kim), Giáp Dần
(thuỷ)
_ Sơn Giáp có : Bính Dần (hoả), Mậu Dần (thổ). Canh Dần (mộc), Nhâm Dần (kim), Giáp Dần
(thuỷ)
_ Sơn Mão có : Đinh Mão (hoả), Kỷ Mão (thổ), Tân Mão (mộc), Quí Mão (kim), Ất Mão (thuỷ)
_ Sơn Ất có : Đinh Mão (hoả), Kỷ Mão (thổ), Tân Mão (mộc), Quí Mão (kim), Ất Mão (thuỷ)
_ Sơn Thìn có : Mậu Thìn (mộc), Canh Thìn (kim), Nhâm Thìn (thuỷ), Giáp Thìn (hoả), Bính
Thìn (thổ)
_ Sơn Tốn có : Mậu Thìn (mộc), Canh Thìn (kim), Nhâm Thìn (thuỷ), Giáp Thìn (hoả), Bính
Thìn (thổ)
_ Sơn Tỵ có : Kỷ Tỵ (mộc), Tân Tỵ (kim), Quí Tỵ (thuỷ), Ất Tỵ (hoả), Đinh Tỵ (thổ)
_ Sơn Bính có : Kỷ Tỵ (mộc), Tân Tỵ (kim), Quí Tỵ (thuỷ), Ất Tỵ (hoả), Đinh Tỵ (thổ)
_ Sơn Ngọ có : Canh Ngọ (thổ), Nhâm Ngọ (môc), Giáp Ngọ (kim), Bính Ngọ (thuỷ), Mậu Ngọ
(hoả)
_ Sơn Đinh có : Canh Ngọ (thổ), Nhâm Ngọ (môc), Giáp Ngọ (kim), Bính Ngọ (thuỷ), Mậu Ngọ
(hoả)
_ Sơn Mùi có : Ất Mùi (kim), Đinh Mùi (thuỷ), Kỷ Mùi (hoả), Tân Mùi (thổ), Quí Mùi (mộc)
_ Sơn Khôn có : Ất Mùi (kim), Đinh Mùi (thuỷ), Kỷ Mùi (hoả), Tân Mùi (thổ), Quí Mùi (mộc)
_ Sơn Thân có : Nhâm Thân (kim), Giáp Thân (thuỷ), Bính Thân (hoả), Mậu THân (thổ), Canh
Thân (mộc)
_ Sơn Canh có : Nhâm Thân (kim), Giáp Thân (thuỷ), Bính Thân (hoả), Mậu THân (thổ), Canh
Thân (mộc)
_ Sơn Dậu có : Quí Dậu (kim), Ất Dậu (thuỷ), Đinh Dậu (hoả), KỶ Dậu (thổ), Tân Dậu (mộc)
_ Sơn Tân có : Quí Dậu (kim), Ất Dậu (thuỷ), Đinh Dậu (hoả), KỶ Dậu (thổ), Tân Dậu (mộc)
_ Sơn Tuất có : Giáp Tuất (hoả), Bính Tuất (thổ), Mậu Tuất (mộc), Canh Tuất (kim), Nhâm Tuất
(thuỷ)
_ Sơn Kiền có : Giáp Tuất (hoả), Bính Tuất (thổ), Mậu Tuất (mộc), Canh Tuất (kim), Nhâm Tuất
(thuỷ)
_ Sơn Hợi có : Ất Hợi (hoả), Đinh Hợi (thổ), Kỷ Hợi (mộc), Tân Hợi (kim), Quí HỢi (thuỷ)
_ Sơn Nhâm có : Ất Hợi (hoả), Đinh Hợi (thổ), Kỷ Hợi (mộc), Tân Hợi (kim), Quí HỢi (thuỷ)
Nguyên tắc sử dụng phân kim là ở chỗ vượng thì tiết giảm, suy thì bổ cứu, tránh hung theo cát,
tức tránh tương khắc (nếu khắc xuất là tiết), theo cát (sinh nhập, ngang hoà là cát, sinh xuất là
tiết). Tóm lại là phải vận dụng linh hoạt.
Thí dụ : Vận 8 sơn càn hướng tốn.
Địa bàn chính châm của sơn Càn có : Giáp Tuất hoả, Bính Tuất thổ, Mậu Tuất mộc, Canh Tuất
kim, Nhâm Tuất thuỷ. Nay vận 8 , Bát là quẻ Cấn thuộc thổ: lấy năm hạng mục nạp âm ngũ hành
phân kim trên để luận sinh khắc thì :
_ Giáp Tuất hoả, tức hoả sinh thổ, khí của thể được sinh nhiều nên luận là cát lợi.
_ Bính Tuất thổ, tức tỵ hoà nên luận cát lợi.
_ Mậu Tuất mộc, tức mộc khắc thổ, khí của thể bị khắc, sát khí quá nặng nên luận hung.
_ Canh Tuất kim, tức thổ sanh kim, khí của thể bị tiết quá nhiều nên luận không cát lợi.
_ Nhâm Tuất thuỷ, tức thổ khắc thuỷ, khí của thể cũng bị hao tổn
_ Lại coi nạp âm của ngày tháng năm nhập trạch xem sinh khắc thế nào với phân kim thì mới gọi
là hoàn hảo
Ngoài ra cần lưu ý đến làn ranh phân kim, nếu phạm sẽ dẫn đến ngũ hành lẫn lộn mà có nhiều
hung sát
BẢNG TỔNG HỢP của Bác KÉP NHỰT
1_ Trong vòng tròn có 24 sơn: màu đỏ là dương, màu đen là âm.
2_ Trong vòng tròn chia thành 120 phân kim và vòng tròn có 8 hướng: màu đỏ là hoả, vàng là
thổ, đen (vì màu trắng không viềt được) là kim, màu xanh dương là thuỷ, màu xanh lá cây là mộc

Phục ngâm, phản ngâm

Chúng ta đã biết mỗi cung hướng đều đi liền với một số của cửu tinh như: 2, 5, 8 là cung khôn, cung cấn.
3, 7 là cung chấn cung đoài. 4, 6 là cung tốn, cung càn. 1, 9 là cung khảm cung ly. Khi lập tinh bàn mà
gặp trường hợp phi tinh của sơn hoặc hướng là ngũ hoàng nhập trung cung, nếu bay thuận thì số của phi
tinh giống số của địa bàn đó là bị phục ngâm, nếu đi nghịch thì số của phi tinh nằm ở cung đối diện với số
của địa bàn đó là bị phản ngâm.
* Phục ngâm: tức là tăng năng lực vì cùng một số, lúc đó năng lực cửa cửu tinh là tốt hay xấu sẽ tăng lên
gấp nhiều lần(hình)

* Phản ngâm: Tức là lực đối kháng lại, cũng làm năng lực của cửu tinh tăng lên gấp nhiều lần nhưng ở
chiều ngược lại

- Nếu hướng tinh là vượng tinh mà lại bị Phản Ngâm hay Phục ngâm: trường hợp này không ngại, chỉ cần
có thuỷ ở hướng (tức phương có vượng tinh) là vẫn có thể dùng được. Như trường hợp nhà Khôn hướng
Cấn vận 8, nhà có hướng tinh 8 nằm ở phía TÂY NAM (tức phương toạ) tức là bị Phản ngâm. Nhưng
trong vận 8, hướng tinh Bát bạch là vượng tinh, nếu đắc thuỷ thì vẫn tốt như thường. Tuy nhiên, nếu đến
cuối vận 8 mà không tu sửa nhà hay dời chỗ ở thì lúc đó tai hoạ mới xảy ra. Ngược lại, nếu nhà có vượng
tinh bị Phục ngâm, như trường hợp nhà toạ MÙI, hướng SỬU trong vận 8, nếu đầu hướng có cửa hay
thuỷ cũng đều tốt như thường, dù biết rằng trong vận 8 mà có thuỷ ở phía ĐÔNG BẮC là bị Linh thần
thuỷ, chủ phá tài.
- Trường hợp hướng tinh là khí suy, tử mà lại bị Phản, Phục ngâm: nếu trong những trường hợp này,
hướng tinh bị Phản, Phục ngâm lại nằm chung với vượng tinh của sơn thì có thể dùng cách "dùng sơn để
chế ngự thuỷ", tức là xây nhà cao, đắp đất. trồng cây cao tại nơi đó để "xuất sát" của thuỷ thần bị Phản,
Phục ngâm. Ngược lại, nếu cả sơn và hướng tinh đều là khí suy tử thì 1 là tránh làm động chỗ đó. Nếu nơi
đó là cửa ra vào thì nên dời cửa đi nơi khác. Nếu nơi đó là 1 khu vực của căn nhà thì tránh dùng làm
phòng ăn, phòng ngủ, buồng tắm... chỉ có thể dùng làm nhà kho hoặc bỏ trống là tốt nhất. Nếu là phòng
ngủ thì còn cần để ý xem phương vị của cửa phòng có nằm tại phương bị Phản, phục ngâm hay không?
Nếu có thì cũng phải tránh. Còn cách thứ 2 là dùng phương pháp hoá giải tức là nếu sao bị Phản, Phục
ngâm là hành Thổ thì dùng Kim hoá, nếu là hành Thuỷ thì dùng Mộc hoá... để làm giảm nhẹ mọi tai hoạ
đi thôi.
- Nếu sơn tinh là vượng tinh mà lại bị Phản, Phục ngâm thì cũng không ngại. Nơi đó nếu có nhà cao hay
cây cối, gò đống thì vẫn tốt cho vận đó, chỉ đến vận sau mới đáng ngại cho nhân đinh.
- Trường hợp Sơn tinh bị Phản, Phục ngâm: nếu sơn tinh nằm chung với vượng tinh của hướng ở cùng 1
cung thì dùng cách "đắc thuỷ để thu sơn" mà hoá giải. Nếu cả sơn tinh lẫn hướng tinh đều là khí suy tử thì
cũng theo những cách đã nói ở phần trên mà hoá giải.
- Trường hợp Hướng tinh hoặc Sơn tinh toàn bàn phản hay phục ngâm (đây là trường hợp Ngũ hoàng
nhập trung cung). Nếu nơi hướng tinh vượng có thủy và sơn tinh vượng có sơn thì có thể chế ngự được.
Chỉ khi qua vận sau nếu không tu sửa lại thì tai họa mới đến.

Vượng sơn, vượng hướng

Sau khi đã đo lấy độ hướng, xác định căn nhà thuộc sơn_ hướng nào, ta lập tinh bàn cho căn nhà. Nhìn
vào 9 cung hướng của tinh bàn, nơi nào có số sơn hoặc hướng trùng với số đương vận thì gọi là cung
vượng. Nếu là số của sơn thì nơi ấy gọi là sơn vượng. Nếu là hướng thì nơi ấy gọi là hướng vượng. Nếu
sơn vượng ở toạ và hướng vượng ở hướng thì nhà ấy được gọi là nhà vượng sơn vượng hướng.
Nhà được vượng sơn vượng hướng (còn gọi là đáo sơn đáo hướng hay cách cục châu bảo tuyến) lại thêm
hình thế phù hợp, tức phía trước trống thoáng hoặc có đường đi, phía sau có núi, đồi, nhà cao hoặc cây
cao cộng thêm bố trí cổng cửa phù hợp thì vượng phát cả tài lộc lẫn nhân đinh.
“Thanh Nang Tự” viết: “Thức đắc âm dương huyền diệu lý, tri kỳ suy vượng sinh dữ tử. Bất vấn toạ sơn
dữ thuỷ lai, thản phùng tử khí giai vô thủ”. Ý đoạn văn trên nói rằng: Phong thuỷ cần lấy vượng mà bỏ
suy, phương vị có thể xu cát tỵ hung. Mà vượng sơn vượng hướng là “lấy vượng bỏ suy, đón sinh mà
tránh sát”. Cho nên nhà cửa mà được vượng sơn vượng hướng thì không những có ích cho tài vận, sự
nghiệp, mà còn có thể thúc đẩy sự hưng vượng về người, như đang hiếm muộn vào nhà này sẽ có con,
nhà doanh nghiệp có nhiều cộng sự giỏi, …
Các nhà được vượng sơn vượng hướng trong các vận:
1-) Vận 1: Không có
2-) Vận 2: Có 6 nhà
_ Toạ Tốn hướng Càn. Hướng nhà ở 312 đến 318 độ
_ Toạ Càn hướng Tốn. Hướng nhà ở 132 đến 138 độ
_ Toạ Tỵ hướng Hợi. Hướng nhà ở 327 đến 333 độ
_ Toạ hợi hướng Tỵ. Hướng nhà ở 147 đến 153 độ
_ Toạ mùi hướng sửu. Hướng nhà ở 27 đến 33 độ
_ Toạ Sửu hướng Mùi. Hướng nhà ở 207 đến 213 độ.
3-) Vận 3: Có 6 nhà
_ Toạ Mão hướng Dậu. Hướng nhà ở 237 đến 243 độ
_ Toạ Dậu hướng Mão. Hướng nhà ở 87 đến 93 độ
_ Toạ Ất hướng Tân. Hướng nhà ở 87 đến 93 độ
_ Toạ Tân hướng Ất. Hướng nhà ở 297 đến 303 độ
_ Toạ Thìn hướng Tuất. Hướng nhà ở 297 đến 303 độ
_ Toạ Tuất hướng Thìn. Hướng nhà ở 117 đến 123 độ
4-) Vận 4: Có 6 nhà
_ Toạ Giáp hướng Canh. Hướng nhà ở 252 đến 258 độ
_ Toạ Canh hướng Giáp. Hướng nhà ở 72 đến 78 độ
_ Toạ Khôn hướng Cấn. Hướng nhả ở 42 đến 48 độ
_ Toạ Cấn hướng Khôn. Hướng nhà ở 222 đến 228 độ
_ Toạ Thân hướng Dần. Hướng nhà ở 57 đến 63 độ
_ Toạ Dần hướng Thân. Hướng nhà ở 237 đến 243 độ
5-) Vận 5: Có 12 nhà
_ Toạ Mão hướng Dậu. Hướng nhà ở 237 đến 243 độ
_ Toạ Dậu hướng Mão. Hướng nhà ở 87 đến 93 độ
_ Toạ Ất hướng Tân. Hướng nhà ở 87 đến 93 độ
_ Toạ Tân hướng Ất. Hướng nhà ở 297 đến 303 độ
_ Toạ Thìn hướng Tuất. Hướng nhà ở 297 đến 303 độ
_ Toạ Tuất hướng Thìn. Hướng nhà ở 117 đến 123 độ
_ Toạ Ngọ hướng Tý. Hướng nhà ở 357 đến 3 độ
_ Toạ Tý hướng Ngọ. Hướng nhà ở 177 đến 183 độ
_ Toạ Đinh hướng Quí. Hướng nhà ở 192 đến 198 độ
_ Toạ Quí hướng Đinh. Hướng nhà ở 192 đến 198 đô
_ Toạ Mùi hướng Sửu. Hướng nhà ở 27 đến 33 độ
_ Toạ Sửu hướng Mùi. Hướng nhà ở 207 đến 213 độ
6-) Vận 6: Có 6 nhà
_ Toạ Giáp hướng Canh. Hướng nhà ở 252 đến 258 độ
_ Toạ Canh hướng Giáp. Hướng nhà ở 72 đến 78 độ
_ Toạ Khôn hướng Cấn. Hướng nhả ở 42 đến 48 độ
_ Toạ Cấn hướng Khôn. Hướng nhà ở 222 đến 228 độ
_ Toạ Thân hướng Dần. Hướng nhà ở 57 đến 63 độ
_ Toạ Dần hướng Thân. Hướng nhà ở 237 đến 243 độ
7-) Vận &: Có 6 nhà
_ Toạ Mão hướng Dậu. Hướng nhà ở 237 đến 243 độ
_ Toạ Dậu hướng Mão. Hướng nhà ở 87 đến 93 độ
_ Toạ Ất hướng Tân. Hướng nhà ở 87 đến 93 độ
_ Toạ Tân hướng Ất. Hướng nhà ở 297 đến 303 độ
_ Toạ Thìn hướng Tuất. Hướng nhà ở 297 đến 303 độ
_ Toạ Tuất hướng Thìn. Hướng nhà ở 117 đến 123 độ
8-) Vận 8: có 6 nhà
_ Toạ Tốn hướng Càn. Hướng nhà ở 312 đến 318 độ
_ Toạ Càn hướng Tốn. Hướng nhà ở 132 đến 138 độ
_ Toạ Tỵ hướng Hợi. Hướng nhà ở 327 đến 333 độ
_ Toạ hợi hướng Tỵ. Hướng nhà ở 147 đến 153 độ
_ Toạ mùi hướng sửu. Hướng nhà ở 27 đến 33 độ
_ Toạ Sửu hướng Mùi. Hướng nhà ở 207 đến 213 độ.
9-) Vận 9: Không có(hình)
Thí dụ: nhà tọa càn hướng tốn , vận 8 có hướng tinh 8 đến hướng và sơn tinh 8 đến tọa

Điều cần chú ý là vượng sơn vượng hướng chỉ tốt Cho những nhà nằm trong độ số trên, còn những nhà
kiêm hướng dùng tinh bàn thế thấy vượng sơn vượng hướng thì tuy thấy vượng mà không vượng.
Nhà vượng sơn vượng hướng chỉ tốt trong thời gian của vận đó mà thôi. Khi qua vận kế thì sao đương
vận của vận này trở thành thoái khí của vận sau tức thành khí xấu, năng lực suy giảm nên cung toạ và
hướng của nhà trở thành xấu. Đến vận sau nữa thì các cung này lại càng xấu hơn nữa…Do đó vượng sơn
vượng hướng chỉ tốt trong đương vận mà thôi, tức là chỉ tốt nhiều nhất là 20 năm. Điều này giải thích vì
sao một nhà đang làm ăn phát đạt bỗng trở nên suy tàn và càng ngày càng lụn bại.

Song tinh đáo hướng

Song tinh đáo hướng là một cách cục đặc biệt của vượng sơn vượng hướng. Nhà có song tinh
đáo hướng và cặp sơn hướng này là số của đương vận. Nếu phía trước trống thoáng hoặc có
đường đi hay có thủy thì đây là cách “ thu sơn” mà thành “vượng sơn, vượng hướng”, tốt đẹp
một thời.
Thí dụ: nhà tọa canh hướng giáp, vận 8(hình)
Thướng sơn Há thuỷ

Tương phản với vượng sơn vượng hướng là thướng sơn há thuỷ, còn gọi là “Hoả khanh tuyến” tức sơn
tinh vượng tới hướng, hướng tinh vượng tới toạ. Theo phái Huyền Không, phàm toạ hướng của trạch
phạm vào cách cục “thướng sơn há thuỷ”, tức Thủy thần lên núi, Sơn thần xuống nước thì nhân đinh và
tài lộc đều lụn bại.
Trong vận 8 này 6 cách cục phạm thướng sơn há thuỷ là:
_ Toạ Thìn hướng Tuất
_ Toạ Tuất hướng Thìn
_ Toạ Khôn hướng Cấn
_ Toạ Cấn hướng Khôn
_ Toạ Thân hướng Dần
_ Toạ Dần hướng Thân
Thí dụ: nhà tọa Cấn hướng Khôn vận 8

Biện Pháp để hoá giải Thướng sơn há thuỷ là dùng phép “đảo kỵ long”, tức là phía sau phải có thuỷ, trống
thoáng hoặc có đường đi, Phía trước có núi, đồi, nhà cao hay cây cao. Lúc đó lại vượng phát như nhà
vượng sơn vượng hướng
Ngoài cách cục thướng sơn há Thủy còn cách cục song tinh đáo tọa là “vượng đinh, thoái tài”. Cách này
cần có thủy hoặc đường đi và núi hay nhà cao cây cao ở phía sau thì mới hóa giải được
Thí dụ: nhà Mão hướng Dậu, vận 8:
Phong thủy bắt đầu từ hình thế rồi sau phát triển tới lý khí, rồi sau nữa là thời vận. Theo Phái Loan đầu thì
nhà cửa hay mộ phần đều cần có núi che chở như : Thanh Long, Bạch Hổ hai bên, sau có huyền vũ che
chắn, Trước có minh đường trống thoáng để tụ khí. Nhưng Với Huyền không khi lập trạch cần quan sát
sao cho nơi có vượng, sinh khí của Hướng thì trống thoáng. Chỗ có sinh, vượng khí của sơn thì cần có núi
hay nhà cao cây cao. Phối hợp hình thế với phi tinh, Sinh Vượng tinh của hướng gặp Thủy, sinh vượng
tinh của sơn gặp núi là đã được một thời hưng vượng.
Để biết thế nào là sinh vượng khí, ta lấy sao đương vận làm chuẩn
- Trước 1 số là sinh khí
- Trước 2 số là tiến khí
- Sau 1 số là thoái khí
- Sau 2 số là tử khí.
Thí dụ: Ta đương vận 8 thì:
- 8 là vượng khí
- 9 là sinh khí
- 1 là tiến khí
- 7 là thoái khí
- 6, 5, 4, 3, 2 là tử khí
Phối hợp phi tinh với loan đầu bên ngoài:
Sơn quản nhân đinh, Thủy quản tài. Tức là khi xét vượng hay suy thì hướng tinh nói về tiền tài bên
ngoài tới còn sơn tinh nói về người trong nhà.
Hướng tinh:
- Sinh vượng khí: gặp thủy thì vượng, gặp núi thì suy.
- Tử khí: Gặp thủy càng suy thêm. Gặp núi thì xét thêm sơn tinh.
Sơn tinh:
- Sinh vượng khí: gặp núi thì vượng, gặp thủy thì suy.
- Tử khí: gặp núi thì càng suy thêm. Gặp thủy thì xét hướng tinh.
Nếu hướng tinh là tử khí gắp núi, đồi hay nhà cao. Nhưng nếu đi liền với nó là sơn tinh sinh vượng khí thì
sơn tinh sẽ “thoát sát” mà cho hướng tinh thành tốt.
Nếu sơn tinh là tử khí gặp nơi trống thoáng, có thủy hay đường đi. Nhưng nếu liền với nó là sơn tinh
vượng khí thì đây là cách "thu sơn" và làm cho sơn tinh trở lên tốt đẹp.
Nếu hướng tinh và sơn tinh đều là suy tử khí thì nơi đây cần trống thoáng và không có cửa ra vào nhà.
Cho nên theo Huyền không khi nhà đã phối được phi tinh với loan đầu. Những nhà đạt được cách cục như
vậy thì tài sản hưng vượng, con cháu đông đúc, gia nhân trung thành, nhân tài xuất hiện,...Đây gọi là cách
"Châu bảo tuyến" tức là tuyến lập trạch quí như gặp châu báu vậy.
Nhập tù:

Theo Khương Diêu (đệ tử của Tưởng đại Hồng) thì khi Sao đương vận ở trung cung tức là bị tù
thì tai họa khủng khiếp còn hơn cả “thướng sơn, há thủy”. Cho ta thấy khi lệnh tinh (sao đương
vận) nhập tù thì gây nhiều tổn thất về nhân mạng cũng như tài lộc. Khi vượng khí vủa sơn tinh
hoặc hướng tinh nhập trung cung thì nó bị bao vây tứ phía mà không thể phát huy được năng lực
của nó. Khi đó các tử khí mới được dịp tung hoành.
Lệnh tinh (tức là sao đương vận) của hướng nhập Trung-cung thì suy bại, về tài lộc
Lệnh tinh của sơn nhập trung cung thì suy bại về nhân đinh
Như vận 7: hướng Càn, vận tinh bát đáo hướng (số của Vận ở cung hướng
Tây-bắc là 8) như vậy 8 nhập Hướng ở Trung-cung. Ðến vận 8 thì lệnh tinh là 8 nên số của
hướng ở Trung-cung là 8 tức bị tù
Nếu hướng nguyên thủy của sao tù như: dương trạch (nhà cửa) có cửa và đường xá hay của âm
trạch (mồ mả) có thủy thì không bị tù. Thí dụ nhà toạ tốn hướng càn vận 8 có sao 9 nhập trung
cung, qua vận 9 là bị tù, nhưng ở hướng nam (sao nguyên thủy là 9) có hướng tinh 5 mà có thuỷ
thì không bị tù.
Trường hợp vận 5, Ngũ hoàng nhập Trung-cung thì cũng không là tù.
Như vậy, nếu có thủy ở phương có Hướng có Ngũ-hoàng thì có thể hóa giải được tù.
Trong Thẩm thị Huyền không học có đề cập đến những trường hợp vượng tinh nhập tù như sau:
1/ Thẩm trúc Nhưng khi nói về vượng tinh nhập tù có đưa thí dụ là nhà toạ THÌN, hướng TUẤT,
vận 1 nhập trạch thì hướng tinh 2 nhập trung cung bay nghịch, nên hướng tinh 1 tới hướng là đắc
vượng khí. Nhưng qua vận 2 thì hướng tinh nhập tù. Ông có đưa ra cách giải là mở cửa hay có
thuỷ ở phía TÂY NAM căn nhà. Theo tinh bàn thì hướng TÂY NAM có hướng tinh 5. Hướng
TÂY NAM cũng là hướng nguyên thuỷ của 2
2/ Trong Tòng sư tuỳ bút, Khương Diêu cũng đưa ra trường hợp phạm hướng tinh nhập tù nhưng
nhà đó vẫn tiếp tục phát. Khi hỏi Tuởng đại Hồng thì được trả lời là tuy hướng tinh nhập tù,
nhưng ở hướng có thuỷ nên tù mà không tù, nên không được tính là nhập tù nữa.
3/ Trong phần giải đoán của Chương trọng Sơn có nói đến trường hợp 1 ngôi mộ bị song tinh
(sơn và hướng) Nhất bạch chiếu tới, mà phương toạ có hướng tinh Bát bạch, nên vào vận 8 là
nhập tù. Tức là trường hợp mà hướng có 2 sao sơn và hướng cùng 1 số với nhau đến, thì hướng
tinh ở phương toạ là số gì thì đến vận đó sẽ tự động bị nhập tù. Nhưng trong trường hợp này
Chương trọng Sơn cũng nói là trạch vận rất lâu dài, quá tam nguyên cửu vận, nên trong trường
hợp này thì Thẩm trúc Nhưng và Vương tắc Tiên đều chú giải là vì nơi phía sau ngôi mộ có hồ
nước lớn phóng quang, nên tuy vượng tinh bị tù mà không phải tù, vẫn thoát ra được mà làm cho
gia đình này vẫn tiếp tục phát đạt chứ vận khí không chỉ dừng ngay tại đó.
Thí dụ nhà tọa Nhâm hướng Bính. , vận 7 có song tinh đáo hướng. cung đối diện có sơn tinh 8.
qua vận 8 thì nhập tù. Nếu có cây cao hay nhà cao thì có thể hóa giải được, bằng không thì có
họa về nhân đinh

- Vấn đề mở cửa hoặc có sông nước ở phương vị có hướng tinh Ngũ Hoàng: Đây là điều dễ hiểu
lầm ý của Thẩm trúc Nhưng. Đúng ra là ông ta dùng phương vị có hướng tinh Ngũ Hoàng để phá
tù tinh. Nhưng điều này chỉ có thể dùng cho âm trạch (mồ mả) mà thôi. Tức là nếu là âm trạch
mà ở hướng có sao Ngũ Hoàng, lại thêm có thuỷ ở đó tức là vận khí của ngôi mộ đó sẽ lâu dài,
tới vận có hướng tinh nhập tù cũng vẫn phát chứ không bị suy tàn. Nếu ở đầu hướng không có
vận tinh Ngũ Hoàng, nhưng ở 1 phía nào đó có nó, mà nếu khu vực đó lại có thuỷ lớn thì cũng
hoá giải được vấn đề vượng tinh nhập tù. Nhưng dù trong trường hợp nào thì chung quanh mộ
huyệt đó cũng phải thật trống thoáng, nhất là khu vực có hướng tinh Ngũ Hoàng thì phải cần có
đại thuỷ hoặc thuỷ tam thoa (chỗ giao hội của 2 nhánh sông) thì mới có thể hoá giải được. Nói
tới đây thì lại vướng mắc tới vần đề đã nêu ra là sao Ngũ Hoàng là sát tinh chuyên gây tai hoạ,
nếu nơi nó chiếu tới mà còn có thuỷ thì hoạ lại càng khốc liệt, chứ làm sao có thể tốt được (ngoại
trừ tới các vận 4, 5 mà thôi)? Tuy nhiên nếu đọc Trạch vận tân án trong phần nói về sao Ngũ
Hoàng có viết "Ngũ Hoàng tuy là hung thần, nhưng nếu chiếu tới âm trạch (mộ phần) thì lại là
phúc thần, vượng thần, cực kỳ tốt đẹp". Cho nên mồ mả có Ngũ hoàng chiếu tới đầu hướng, hoặc
khu vực nào mà nó chiều tới có thuỷ là điều tốt, chủ trạch vận lâu dài không sợ nhập tù. Nhưng
trên thực tế nhận thấy mồ mả có Ngũ Hoàng chiếu tới cũng chỉ tốt đẹp trong các vận 4-5 và
những vận có vượng tinh nhập tù. Còn những vận khác thì vẫn đòi hỏi phải có thuỷ ở phương vị
của vượng tinh thì con, cháu trong vận đó mới phát đạt được. Chứ không phải là mồ mả có Ngũ
Hoàng chiếu tới đầu hướng là sẽ đại phát hết trong tam nguyên, cửu vận được.
_ Đối với dương trạch thì Ngũ Hoàng là sát thủ số 1, nên khu vực mà nó chiếu tới không thể có
cửa hay sông nước (ngoại trừ trường hợp trong vận 5, tức lúc đó Ngũ Hoàng là vượng khí thì lại
tốt). Nếu có dĩ nhiên là nhà đó sẽ bị hung hoạ liên miên. Chỉ có 1 trường hợp ngoại lệ là khi nhà
đó gặp vận có hướng tinh nhập tù thì lúc đó mới nên mở cửa tại phương vị có Ngũ Hoàng để phá
tù tinh, nhưng cũng phải với điều kiện là chung quanh nhà và nhất là khu vực có Ngũ Hoàng
phải thật rộng rãi, trống thoáng thì mới có hiệu lực. Còn trong các vận khác thì phương này phải
yên tĩnh chứ không thể động. Như vậy đối với dương trạch khi tới vận có lệnh tinh nhập tù thì
mới mở cửa tại phương vị có hướng tinh ngũ hoàng để giải tù tinh, vì lệnh tinh bị bao vây không
lối thoát nay dùng khí đồng nguyên tức là phương vị nguyên thuỷ của nó mà giải nó
_Lại nữa, đối với những nhà có bất kỳ hướng tinh gì nhập trung cung thì đối tượng mà sao đó
biểu tượng cũng đều có vấn đề, bệnh tật, tai hoạ dễ bị thương tật , hư hỏng, ăn chơi phá phách
hoặc không làm gì được ra trò. Nhưng nếu phương vị nguyên thuỷ của sao đó mà có cửa hay ngã
ba, ngã tư hoặc có thuỷ thì đối tượng đó tuy vẫn có tai hoạ nhưng sẽ đỡ hơn nhiều. Nhưng
phương này lại là phương có hướng tinh ngũ hoàng nên không dùng cách này được. Cách này
chỉ dùng khi đền vận đó mà thôi.Lấy thí dụ như nhà toạ NHÂM hướng BÍNH, trong vận 7 thì
hướng tinh số 2 nhập trung cung. Mà số 2 là biểu tượng của người mẹ, người vợ, nên những gia
đình này thường gặp tai hoạ xảy đến cho người vợ, người mẹ. Nếu như phía TÂY NAM (là
phương vị nguyên thuỷ của số 2) của những nhà này có thuỷ hay cửa hoặc ngã 3, ngã tư thì mức
độ tai hoạ lại giảm đi. Một cách giải khác là coi cung có sơn tinh 2 (trong trường hợp này) xem
có bị xung khắc để tìm cách chế hoá đi. Như trong thí dụ này thí cung TỐN có sơn-vận-hướng là
2-6-3. Sơn tinh 2 (thổ) khắc 3(mộc) lại ở trong cung TỐN cũng thuộc mộc nay lại còn sanh cho
6(kim) nên rất suy yếu. Ta dùng màu đỏ (hoả) và màu xanh dương (thuỷ) mà sơn tường , làm
gạch nền hoặc thảm cho khu vực này thì lúc đó mộc sanh hoả, hoả sanh thổ, thổ sanh kim, kim
sanh thuỷ,….

Tóm lại

1) Vượng tinh nhập tù: Trung cung hướng tinh trùng với vận tinh của đương vận. Ví dụ sơn Tốn
hướng Kiền vận 7, trung cung có hướng tinh 8. Qua vận 8, trạch vận này phạm tù tinh, tài lộc sẽ
suy bại

2) Tọa hoặc hướng có 2 sao sơn và hướng cùng 1 số với nhau đến (song tinh đáo hướng hoặc
song tinh đáo sơn), thì sơn hoặc hướng tinh ở phương toạ hoặc hướng đối diện là số gì thì đến
vận đó sẽ tự động bị nhập tù.
3) Hướng tinh ở trung cung là tù tinh: Bất kể tinh bàn lập ở vận nào, hướng tinh của trung cung
là tù tinh khiến cho đối tượng mà sao đó đại diện dể có nguy cơ bệnh tật, tai hoạ. Ví dụ toạ TÝ
hướng NGỌ vận 7, trung cung có hướng tinh 2. Mà số 2 đại diện người mẹ, người vợ, nên những
người này thường gặp tai hoạ như bị thương tật, tàn phế.

Tuy nhiên, tất cả các trường hợp trên có ngoại lệ đối với hướng tinh là Ngũ Hoàng. Bất kể là
trường hợp nào, khi Ngũ Hoàng nhập trung cung đều không phạm tù tinh, vì Ngũ Hoàng ở
Trung cung là địa vị chí tôn, là "hoàng cực" nên không bị tù.

Cách giải "Tù tinh" thì tùy trường hợp có khác nhau. Điều quan trọng là phải theo dõi và
nghiệm chứng để điều chỉnh cách giải tù tinh thích hợp hơn.
4) Sơn tinh nhập tù là vượng tinh thì sẽ suy bại về nhân đinh. Người trong nhà sẽ bỏ đi hoặc gặp
tai họa. Nhà thưa vắng người hoặc tuyệt tự.
__________________
Thành môn

Thành môn là cửa ngỏ vào khu đất hay khu nhà. Nhà tuy hướng xấu nhưng nếu thành môn có vượng
khí thì vẫn tốt đẹp một thời.
Khi hai bên của đầu hướng có thuỷ(ao hồ…) hoặc cổng, ngõ vào thì gọi nhà đó có thành môn.
_ Thành môn chính : ở một hướng mà kết hợp với hướng chính(liền bên) thành một cặp số của hà đồ ( số
tiên thiên: 1-6; 2-7; 3-8; 4-9) thì gọi là thành môn chính.
_ Thành môn phụ : Ở một hướng mà khi kết hợp với hướng chính(liền bên) không thuộc các cặp số hà đồ
thì gọi là thành môn phụ
Thí dụ : Hướng chính là Bắc có số cửu tinh là 1. Hai hướng bên cạnh: đông bắc và tây bắc là thành môn.
Trong đó tây bắc có số cửu tinh là 6 nên là thành môn chính, đông bắc có số cửu tinh là 8 nên là thành
môn phụ.
_ Thành môn ngầm:
• Khi an vận bàn mà vận tinh 5 đến 1 trong hai hướng bên cạnh mà ở đó có ao hồ hay ngõ vào thì nơi đó
có thành môn ngầm (thí dụ: nhà toạ mão hướng dậu, vận 8 khi an vận bàn thì 5 đến tây nam. Nếu nơi đây
có thuỷ hoặc ngõ vào thì tây nam có thành môn)
• Khi các sơn hay hướng tinh tới 2 phía bên cạnh đầu hướng, mà chúng lại kết hợp với địa bàn(số cửu tinh
tại cung hướng đó , như hướng bắc là 1, hướng nam là 9,…) tại nơi đó thành các số Tiên thiên. Nếu khu
vực đó có cổng, ngã ba, ao, hồ( khi là hướng tinh), núi cao, cây cao(khi là sơn tinh)... thì cũng được xem
như có Thành môn.
* Khi Hướng tinh ở 1 trong hai bên kết hợp với hướng tinh ở đầu hướng thành 1 cặp số tiên thiên (1-6; 2-
7; 3-8; 4-9) mà ở đó lại có thủy hay cổng, ngõ thì xem như có thành môn
Thí dụ: nhà tọa CANH, hướng GIÁP (75 độ), nhập trạch trong vận 8. Nếu an Vận bàn thì vận tinh số 6
tới hướng. Bây giờ nếu muốn an Hướng bàn thì lấy số 6 nhập trung cung xoay nghịch (vì hướng GIÁP
tương ứng với sơn TUẤT của số 6, là sơn âm nên xoay nghịch – xin xem lại bài PHƯƠNG PHÁP LẬP
TINH BÀN) thì số 3 đến ĐÔNG BẮC. Vì ĐÔNG BẮC nằm bên cạnh khu vực đầu hướng của căn nhà, mà
số cửu tinh của đông bắc là số 8, nên khi gặp hướng tinh số 3 tới sẽ tạo thành cặp số Tiên thiên 3-8. Nếu
nơi này có ao hố hay cổng, ngõ vào nhà thì được xem là có Thành môn.
Thành môn là then chốt cho sự thịnh suy của ngôi nhà. Tuy hướng không vượng nhưng được thành môn
có vượng khí thì vẫn tốt đẹp hay nhà đã được vượng khí mà lại được thành môn thì đã vượng lại càng
vượng thêm. Tuy nhiên không phải cứ hai bên đầu hướng có thuỷ, cổng hay ngõ vào là đã tốt mà phải coi
có đắc thành môn hay không.
Cách tìm thành môn
• Xét cung hướng chính thuộc tam nguyên long nào? Cung hướng của thành môn phải cùng tam nguyên
long với đầu hướng
• Đưa vận tinh tại hướng đó cho bay thuận hay nghịch tuỳ theo tính chất âm dương của tam nguyên long
đó.
• Xem vượng tinh có tới hướng đó hay không? Nếu có vượng tinh tới hướng thì có thể mở cổng, cửa ngõ
vào khu đất hay để nước ( phải là nước lớn như ao, hồ,…)Cho dù hướng tinh ở đó là suy, tử thì vẫn có thể
dùng không ngại
Trong 3 loại thành môn trên thì thành môn chính là có tác dụng mạnh nhất thứ đến là thành môn phụ.
Thành môn ngầm tuy lực yếu hơn nhưng lại không phụ thuộc vào một sơn như 2 thành môn kia mà bao
trùm hết 3 sơn trong hướng đó

Tóm lại
Tìm thành môn là tìm cách mở cổng, ngõ hay nơi có thuỷ bên ngoài nhà
Cách tính Thành Môn đơn giản chỉ là:
1/ Hướng có Thành Môn phải cùng 1 Thiên, Địa hoặc Nhân nguyên long với toạ, hướng của căn nhà
(hoặc ngôi mộ).
2/ Hướng của vận tinh tới Thành Môn là sơn âm, xoay nghịch thì Thành Môn sẽ đắc vượng khí và
dùng được. Nếu là sơn dương, xoay thuận thì chỉ gặp toàn khí suy, tử tới Thành môn nên không thể
dùng. 3/Nếu khí Thành môn vượng thì dù hướng tinh ở nơi đó có là suy , tử cũng nên đặt nước. Tuy
nhiên, nếu đã đặt thì nước phải lớn mới có tác dụng. Hay nơi khí thành môn vượng mà có ngã ba,
ngã tư thì rất tốt.
4/ Nếu khí thành môn đến cung không đồng ngyuên với hướng thì chỉ tốt trong vận đó mà thôi
Phép mở cửa dùng “thành môn quyết”

Đối với những nhà ở hoặc cơ sở kinh doanh có hướng bị kiêm hướng, hướng không có vượng khí tới
hướng hoặc có vượng khí tới hướng nhưng muốn mở thêm cửa phụ tại những cung có hướng tinh là sinh,
tiến khí thì ta cần dùng “thành môn quyết” còn gọi là "bí quyết thành môn" để mở cửa.
Điều cần lưu ý là khi dùng “ thành môn quyết”để mở cửa phụ là vấn đề hoà hợp âm dương. Thí dụ: cửa
chính tại sơn dương thì cửa phụ tại sơn âm và ngược lại. Có như thế thì mới được lâu dài, bằng không thí
chỉ được lúc đầu mà thôi.
Ngoài ra còn một số trường hợp sau:
1)_ Nhà bị kiêm hướng hoặc hướng không có vượng khí. Thí dụ: nhà GIÁP hướng CANH vận 8. Khi an
hướng bàn thì tử khí tam bích(3) tới hướng. Nếu mở cửa tại CANH thì gặp tử khí. Nay dùng bí quyết
thành môn xét cung DẬU: Vận tinh 1 nhập trung cung, DẬU là thiên nguyên, thiên nguyên của 1 là TÝ,
TÝ tính chất là âm nên 1 đi nghịch, vượng khí 8 tới DẬU. Vậy nếu mở cửa tại dậu thì sẽ có vượng khí tới
cửa. Điều này sẽ làm vượng những nhà có hướng không vượng hoặc bị kiêm hướng. Cần lưu ý cửa chỉ để
trọn trong cung đó mà thôi, không nên cho lấn qua cung khác vì lúc đó âm dương lẫn lộn mà mất đi cái
tốt đẹp.
2)_ Nhà qua vận sau không còn vượng khí. Thí dụ: Nhà TUẤT hướng THÌN vận 7 có cửa tại TUẤT được
vượng sơn vượng hướng, nay qua vận 8 thì 7 trở thành thoái khi. Nếu có đổi vận thì cũng không tốt đẹp vì
tinh bàn vận 8 tử khí 6 tới hướng. Nay không dùng cửa tại THÌN nữa mà mở cửa khác tại TỐN (hoặc
TỴ), dùng bí quyết thành môn với vận bàn 8 nhập trung cung, vận tinh tại TỐN là 7, TỐN là thiên
nguyên, thiên nguyên của 7 là ĐOÀI, ĐOÀI âm nên 7 đi nghịch, vượng khí 8 tới TỐN
3)- Nhà có hướng tinh là sinh vượng khí nhưng mở cửa không đúng cách thì cũng không nhận được
vượng khí vào nhà mà làm ăn suy bại. Thí dụ: nhà tọa Càn hướng Tốn. Thay vì mở cửa ở Tốn hay Tị, nay
lại mở ở Thìn. Xét cung Đông Nam vận 8 có vận tinh 7. Thìn là địa nguyên long, Địa nguyên long của
thất xích là Canh. Canh dương nên đi thuận thì tử khí lục bạch đến cung Thìn. Vậy nhà không nhận được
vượng khí.

4)- Nhà Tuy không được vượng khí đến hướng nhưng nếu mở cửa có khí thành môn thì vẫn không đến
nỗi suy bại. Thí dụ nhà tọa Thìn hướng Tuất vận 8. bị Thướng sơn hà thủy, có hướng tinh 1 đến hướng. 1
tuy là tiến khí nhưng còn xa. Nếu mở cửa tại cung Càn hoặc Hợi thì vẫn tốt đẹp một thời.

5)_ Nhà đả được cửa có vượng khí nay muốn mở thêm cửa phụ tại hướng có hướng tinh là sinh hoặc tiến
khí. Thí dụ: Nhà SỬU hướng MÙI vận 8. Tinh bàn có vượng tinh 8 tới hướng, sao sinh khí 9 tới hướng
BẮC. Nay muốn mở cửa tại BẮC ta áp dụng bí quyết thành môn. MÙI thuộc địa nguyên long, địa nguyên
long tại hướng BẮC là NHÂM. Vận tinh tại BẮC là 4, lấy 4 nhập trung cung bay nghịch (địa nguyên
long của 4 là THÌN, tính chất của THÌN là âm) vượng khí 8 tới NHÂM. Để ý ta thấy tính chất của MÙI là
âm và tính chất của NHÂM là dương
Để tìm cung có vượng khí trong nhà hầu đặt bếp hoặc đặt thủy kích tài, Ta cũng cần dùng "bí quyết thành
môn".
Trong vận 8 này các cung có vượng khí theo "thành môn quyết" là:
- Hướng Nam: Ngọ, Đinh
- Hướng Tây Nam: Mùi
- Hướng Tây: Dậu, Tân
- Hướng Tây Bắc: Càn, Hợi
- Hướng Bắc: Nhâm
- Hướng Đông Bắc: Sửu
- Hướng Đông: Giáp
- Hướng Đông Nam: Tốn, Tị
Thí dụ: Nhà Nhâm hướng Bính vận 8. Cung Đông Bắc có (1-6), nay muốn đặt nước kích tài thì cung đặt
nước có tác dụng mạnh nhất là trong cung Sửu. Hướng Bắc có cặp (8-8), nay muốn đặt bếp thì vị trí tốt
nhất là cung Nhâm. Đối với các vật khí khác cũng vậy...
Theo đồ hình của lạc thư thì cửu tinh được bài bố như ta đã biết như sau:

[IMG] [/IMG]

Chính thần là dùng nơi cao sơn của sao đương vận tức vượng khí của sơn mạch, mà thu nhận
khí. Như vận 1 thì Nhất bạch là đương vận, nên lấy phương vị nhất (khảm) làm chính thần. Vận
2 thì Nhị hắc là đương vận, nênlấy phương vị Nhị (khôn) làm chính thần.….Nếu phương vị của
chính thần mà có :Sông, hồ, biển,… thì khu vực đó (làng mạc hay khu dân cư,…)sẽ có nhiều
hung họa. Như vậy phương của chính thần cần có sơn và không được có thủy, nếu có thì sẽ có
nhiều tai họa trong vận đó.

Linh thần là phương đối lại của chính thần. Như vận 1 phương đối lại của chính thần là vị trí
Cửu (ly) làm linh thần, vận 2 thì phương đối lại của chính thần là vị trí Bát (cấn) làm linh thần,…
Riêng vận 5 có 20 năm, mà Nhị (Khôn) của Thượng nguyên và Bát (Cấn) của Hạ nguyên đều
thuộc thổ, nên mười năm trước lấy Nhị (Khôn) làm chính thần và mưới năm sau lấy Bát (Cấn)
làm chính thần
Phương vị của Chính Thần cần có cao sơn thực địa
Phương vị Linh Thần cần sông nước, trũng thấp

[IMG] [/IMG]

Coi về Chính thần, Linh thần là coi về vượng suy của một làng mạc hay thành phố
Thí dụ : vận 8, phương vị của Linh thần nằm ở phía TÂY NAM. Do đó, nếu khu vực đó của làng
mạc hay đô thị... mà có sông, hoặc cửa biển... thì rất tốt, chủ vượng phát về mọi mặt. Ngược lại,
nếu khu vực đó lại có thế núi hay thế đất tiến tới thì ngôi làng hay đô thị đó sẽ gặp nhiều tai biến,
hung họa.

Còn về nhà ở thì lấy sơn tinh đương vượng làm Chính Thần và hướng tinh đương vượng làm
Linh Thần. Phương Linh Thần nên có Thuỷ, thấp trũng hay đường đi. Đây gọi là:”Khơi thuỷ
nhập Linh đường”. Nếu phương vị của Hướng tinh sinh, vượng khí lại vào vị trí của Linh thần
đương vận mà có thuỷ , thấp trũng hay đường đi thì như: “Gấm thêm hoa” đã vượng càng thêm
vượng. Còn Hướng tinh sinh vượng khí vào vị trí Chính thần của đương vận thì vẫn cần có thuỷ
thì mới vượng phát được, còn gặp cao sơn thì vẫn suy như thường
__________________
Chọn hướng nhà và mở cổng , cửa

Nhà ở Việt Nam thường không được chính hướng và không có cửa sau lại chỉ cần chút mặt tiền rồi chạy
dài ra sau tạo nên nhà hình ống. Ngay cả ngày nay đất dự án người ta cũng phân lô theo 4m hay 5m . Cho
nên để thay đổi một nếp suy nghĩ của người mình không thể một sớm một chiều mà có khi mất nhiều thế
hệ.
Trước hết phải nói đến vấn đề thuần khí. Không những thuần khí cho hướng mà còn thuần khí cho cửa.
Dùng tinh bàn thế quái cho nhà kiêm hướng cho dù có được "vượng sơn vượng hướng" đi chăng thì vẫn
khó có thể ở lâu dài và có nhiều hung họa chực sẵn, con người tuy có tiền của nhưng bủn xỉn keo kiệt,....
Đối với mở cửa cũng vậy, rất cần nằm trong một cung tức trong một nguyên long mà thôi.
Khi mở cổng cần lưu ý vấn đề thuần khí như sơn-hướng ở nhân hoặc thiên nguyên long thì cổng, cửa
cũng cần ở nhân hoặc thiên nguyên long, địa nguyên cũng vậy. Nếu nơi mở cổng có ngã 3 hay ngã tư lại
đắc thành môn thì phát phúc một thời. Một điểm quan trọng khác là tuy tọa-hướng và cổng, cửa của 1 căn
nhà cần phải cùng 1 Nguyên Long với nhau, nhưng phải trái ngược âm-dương mới bảo đảm được phúc,
lộc lâu dài .
THIÊN NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương: CÀN-KHÔN-CẤN-TỐN
• 4 sơn âm: TÝ-NGỌ-MÃO-DẬU

NHÂN NGUYÊN LONG:


• 4 sơn dương: DẦN-THÂN-TỴ-HƠI
• 4 sơn âm: ẤT-TÂN-ĐINH-QUÝ

ĐỊA NGUYÊN LONG:


• 4 sơn dương : GIÁP-CANH-NHÂM-BÍNH
• 4 sơn âm: THÌN-TUẤT-SỬU-MÙI

Chọn hướng nhà

Trước hết cần được chính hướng. Thí dụ: hướng Ly là 180 độ, hướng Đinh là 195 độ,….Chỉ có thể lệch
không quá 3 độ (với những nhà đã xây cất thì khi đo không quá 2 độ vì sợ ánh hưởng của các vật dụng
bằng điện từ hoặc bằng sắt, thép). Sử dụng thế quái khi chẳng đặng đừng mà thôi. Vì khi lên tinh bàn với
nhà kiêm hướng thấy tinh bàn có lệnh tinh ở hướng, tuy vượng mà không vượng. gặp những trường hợp
phạm Đại không vong hoặc tiểu không vong (giữa Địa và Thiên nguyên long) thì dứt khoát không dùng.
Sau đó coi ở hướng cặp sơn-hướng tinh sinh nhập, khắc nhập thế nào? sinh nhập thì cát, sinh xuất thì
hung hoặc khắc nhập thì cát, khắc xuất thì hung. Nhưng nếu biết thì nhà "vượng sơn vượng hướng" vẫn
có thể dùng, qua vận kế thì đổi nhà hoặc đổi vận. Tiếp theo coi các cặp sơn – hướng ở hướng có bị các
cặp hung sát

Sau cùng coi vị thế loan đầu tức hình thế bên ngoài có phù hợp với tinh bàn hay không. Quan trọng nhất
là TỌA và HƯỚNG ngoài ra những nơi có cửa ra vào nhà cũng cần xem xét cẫn thận.

Mở cổng , cửa

Nếu nhà được vượng hướng tức hướng tinh là vượng tinh tới hướng thì cửa chính cần ngay chính giữa
nhà và nằm trọn trong cung này. ở VN ngày nay người ta có xu hướng làm cửa chính gần hết mặt tiền
nhà, điều này làm cho cửa chính bị tạp khí, âm dương lẫn lộn. Đối với những nhà không được vượng khí
tới hướng ta có thể dùng “bí quyết thành môn” để mở cửa tuy rằng sự tốt đẹp không thể bằng nhà vượng
hướng nhưng cũng giúp cho gia chủ đỡ chật vật về tài chính (đây chỉ là biện pháp chữa cháy mà thôi
không có tính lâu dài) Thí dụ : nhà tọa dậu hướng mão vận 8. tử khí tứ lục tới hướng nếu mở cửa tại mão
hoặc canh thì tứ lục tới cửa. Nhưng nếu mở cửa tại Giáp thì lại được, vì áp dụng bí quyết thành môn thì
vượng tinh 8 tới cửa.
Một lưu ý nữa là nếu nhà bị tử khí tới hướng nhưng khi xét thành môn mà đắc thành môn lại có thể mở
Cổng ở phương này thì nên dùng sẽ không thua nhà vượng hướng là bao.
Nhà ở VN ngoài phố thường không có cửa sau vì tấc đất tấc vàng nên người ta tận dụng từng cm một. Có
nhiều nhà “vượng sơn vượng hướng” hoặc “tam ban quái” nhưng tại sao chỉ tốt đẹp trong một số năm đầu
rồi sau đó lụi tàn dần? Vì cửa sau là lối ra của suy khí . Khi bố trí cửa sau cũng cần theo nguyên tắc thuần
khí và âm dương trái ngược nhau (âm dương hòa hợp).
Đạt được các điều trên thì 90% có Phú quí, phúc lộc đầy đủ
Tam Cát
Huyền Không phong thủy được cho là từ "Kỳ môn độn giáp". Theo Kỳ môn thì 3 cửa: Hưu,
Khai, Sinh là 3 cửa tốt nhất, sẽ đem lại thuận lợi, may mắn.
Lạc thư Nhất Bạch ở phương Khảm, cửa hưu của Kỳ môn cũng ở phương Khảm; Lục Bạch ở
phương Càn, cửa Khai cũng ở phương Càn; Bát Bạch ở phương Cấn, cử sinh của kỳ Môn cũng ở
phương Cấn. Cho Nên ba sao: Nhất Bạch, Lục Bạch, Bát Bạch là ba cửa Hưu, Khai, Sinh của Kỳ
Môn.
Thế nào là Tam cát? Tức Nhất bạch, Lục bạch, Bát bạch. Nhất bạch là đầu chín sao(cửu tinh),
thống lãnh các quái, là đứng đầu của tam hợp. Thiên khí thì giáng xuống, địa khí thì bốc lên,
cũng là nơi dung chứa sự cao thấp,một khi hai đường Bát, Lục khác nhau tương sinh, kim cứng
gặp thổ là giàu sang cực độ.
Ngũ cát
Ngũ cát tức là hợp tam ban mà kiêm lấy Tham Lang với Tả Phụ. Như vận 1 lấy thủy Nhất Tam
Nhị phối với Lục Bát. Vận 4 trung nguyên lấy thủy Tứ Ngũ Lục phối với Bát Nhất. Vận 7 hạ
nguyên lấy thuỷ Thất Bát Cửu mà phối với Nhất Lục .

Nếu bày bố tam cát, ngũ cát đúng phép, xuyên suốt liên nhau thì phát phúc lâu dài mà không cần
phải dùng thế tinh (tức làm lệch hướng nhà để dùng thế quái)

Thủy pháp

“Sơn quản nhân đinh, thủy quản tài”. Dùng thủy pháp là bố trí thủy tại những nơi có hướng tinh là “tam
cát, ngũ cát” để làm hưng vượng tài lộc

Thí dụ nhà Tý hướng Ngọ vận 7, tinh bàn như sau:

Nhà này trước nhà là đường lớn tức là hư thủy. Hướng Nam có hướng tinh 6, hướng đông nam có hướng
tinh 1, hướng tây nam có hướng tinh 8. Tuy vào vận 7 hướng tinh 6 là tử khí nhưng vì trước nhà có tam
cát lại có đường đi nên không đến nỗi suy bại mà tài lộc lại có phần khá. Tuy nhiên vì vận 7 cửa mở tại
Ngọ là không có vượng khí nên chỉ bình bình, qua vận 8 thì làm ăn có chiều hướng phát triển tốt hơn. Chỉ
có điều sơn tinh 8 bị tù nên con cái đi học xa hoặc xuất ngoại, nhà thưa vắng người.

Trong nhà nếu bố trí thủy vào cung hướng có hướng tinh là tam cát, ngũ cát cũng làm thúc đẩy tài vận
(lưu ý nên dùng "thành môn quyết" để vào đúng vị trí)
Thẩm Trúc Nhưng đã nói:Then chốt của "cát, hung, hoạ, phúc" là Sơn thần phải ở trên núi và thuỷ thần
phải ở dưới nước. Tức là hướng có hướng tinh là vượng sinh tiến khí cần có thuỷ hoặc trống thoáng hay
đường đi. hướng có sơn tinh là vượng sinh tiến khí thì cần có núi hoặc đồi cao hay cây cao.
Hướng vượng gặp nước là vượng thủy. Hướng suy gặp nước thì lại suy hơn. Trái lại, Tọa vượng gặp nước
thì lại rất xấu. Do đó, các bố trí về thủy như bồn tắm,bồn rửa mặt, hồ cá, hồ bơi, vòi nước, máy giặt... đều
cần phải đặt đúng vị trí để làm cho suy vượng. Phía bên ngoài nhà nếu có thủy nơi các Hướng, Tọa
vượng, suy như sông ngòi, hồ ao... có thể thấy được từ nhà nhìn ra thì cũng có ảnh hưởng quan trọng đến
những người cư ngụ trong căn nhà đó. Ta có thể dùng thuỷ nhân tạo như làm hồ nước lớn hoặc đài phun
nước ở những nơi cần có thuỷ và làm non bộ (lớn) hoặc trồng cây cao tại những nơi cần có sơn (đối với
bên ngoài nhà).

Đối với những nhà có hướng không vượng hoặc bị kiêm hướng. Trước hết cần dùng bí quyết thành môn
để mở cổng hoặc cửa chính (thí dụ: Nhà toạ dậu hướng mão vận 8 ở hướng có hướng tinh 4 là tử khí
nhưng nếu mở cửa chính tại cung giáp thì sẽ đỡ lại tuy vẫn chịu ảnh hưởng của tử khí Tứ Lục, dĩ nhiên là
không thể bằng nhà có vượng tinh đáo hướng). Sau là phối hợp thuỷ pháp để kích tài.
Thuỷ pháp còn là cách bố trí thuỷ trong nhà tại những nơi có hướng tinh là:
_ Tam cát : Nhất bạch, lục bạch, bát bạch. Đặc biệt nơi có hướng tinh 6 nếu bố trí thuỷ động như phong
thuỷ luân hoặc hồ cá thì sẽ kích tài mạnh vì cặp số 1-6 hoá thuỷ tiên thiên chủ về công danh và tài lộc.
_ Ngũ cát : gồm có tam cát cộng hai sao là vượng khí và sinh khí.
Trong nhà bồn rữa chén, wc, bồn nước đều coi là thuỷ. Tuy nhiên nếu đường nước đi ngầm hoặc đậy kín
thì không ảnh hưởng bao nhiêu
Những nơi không nên có thuỷ:
- những hướng tinh hung sát như: 5; 2; 7 ( trừ trường hợp chúng nằm trong ngũ cát)
- các cặp sơn hướng tinh: 2-3; 7-6; 9-7; 2-7; 7-3
- Các khu vực có các sao vận-sơn-hướng đều là sao âm như: 2; 4; 5; 7; 9 thì không nên thấy thuỷ ( thí dụ:
2-5-9; 2-4-7; ....). Nếu có thì sẽ có người đàn bà làm loạn hoặc làm mất hạnh phúc gia đình. Đặc biệt sao
toạ là 4 mà có thuỷ thì gia đình tan vỡ, vợ chồng ly thân...

Mọi cục diện đều có sơn cùng thủy tận. Khó bề duy trì mãi một thời kỳ. Vì vậy đừng để đến lúc
tận cục. Khi bắt đầu cảm thấy không chịu đựng nổi, tức là khí sinh vượng của âm hoặc dương
trạch đã suy giảm hoặc cùng kiệt, hoặc sử dụng không hợp thời, thì hãy nhớ câu minh triết của
dịch lý: “Cùng tắc biến, Biến tắc thông”. Người am hiểu đại số lạc thư muốn cứu nhân độ thế,có
thể sử dụng nguyên lý biết ắt thông,suy tính cách thay đổi cục diện vốn có, để chuyển bại thánh
thắng, chuyển bĩ thành thái. Thay đổi, cải tạo bằng cách nào? Người khá giả thì đập đi xây mới,
hoặc lợp lại mái nhà vào mÙa khô, ngày nắng ráo, hoặc tạm thời chuyển đi chỗ khác vài tháng
sau mới trở về, sẽ thấy ngay hiệu lực của việc thay đổi, cải tạo. Song muốn cải tạo âm, dương
trạch, phải tính toán thiên tinh hiện thời cho chuẩn xác, tu tạo phải chọn ngày giờ phù hợp với
hành độ của thiên tinh (tinh bàn)
Trích Trạch vận Tân Án

Cách cải tạo mệnh vận, còn gọi là đổi vận thường có các cách sau:
• Đập cũ xây mới.
• Xây mới thêm trên 2/3 diện tích cũ.
• Bỏ nhà trống trên 100 ngày (có nhiều trường hợp 49 ngày đã có tác dụng, nhưng không bảo
đảm)
Trong thời gian làm các việc trên chúng ta lo sửa chữa để bố trí cho hợp với tinh bàn của vận
mới. Sau đó sẽ chọn giờ lành tháng tốt mà nhập trạch trở lại

Hướng pháp và thủy pháp của huyền không

Phàm xem đất, trước hết xem hình cục của sơn thủy và bình dương có hoàn mỹ hay không. Sau
đó đối chiếu vận tinh (sao vận) với địa bàn xem sinh khắc thế nào, tiếp đó lệnh tinh (sao vượng)
của sơn hướng có đáo sơn, đáo hướng hay không, rồi xem Chính thần, Linh thân ra sao, tiếp đó
xét lệnh tinh chiếu tới Thành Môn, bởi thành môn tùy vận mà biến hóa, xem thành môn nên lấy
hay bỏ. Rồi dùng tiêu chuẩn lập hướng tiêu thủy để xác định phân châm tọa hướng, xem có thể
kiêm hay không được kiêm. Có người sẽ hỏi: “Nếu âm, dương trạch đáo sơn đáo hướng lại phải
thu được vượng khí của thành môn và thu sơn thoát sát, còn phải tùy tiết khí mà chọn đất, thì quá
phức tạp, liệu có phương pháp nào đơn giản hơn chăng?. Có thể giải đáp như sau: “Về chân long
huyệt, thì nên lấy vượng tinh của hướng, nhưng nếu Thành môn đã thu được vượng khí , thì có
thể nhân lúc lệnh tinh đang vượng mà tu sửa. Cách này tương đối đơn giản, nếu phải hạ táng, tuy
không có điều kiện chọn ngày, vẫn có thể nạp cát; còn nếu tu sửa phần mộ tối kỵ sát chiếm
hướng, nhất là hướng động khí và thủy khẩu.
Phương pháp lập hướng phải chú trọng những gì? Trước tiên phải xem vị trí lai Long nhập thủ,
xem có cục nào trong Thiên, Nhân, Địa nguyên, sau đó đối chiếu cục ấy hợp với nguyên, vận
nào, nếu thuộc dương lệnh đáo sơn đáo hướng thì có thể lấy mà dùng, nếu thuộc lỡ vận, không
đương lệnh, thì dụ hình cục hoàn mỹ cũng chớ tham mà chuốc họa tuyệt diệt, suốt đời ôm hận.
Sau khi phân biệt ba nguyên, lại xem thủy lai thủy khu81 (thủy đến, thủy đi), phối hợp sơn
hướng, xác định xem có thể kiêm hay không thể kiêm, cần có sao vượng đáo sơn hoặc trhu3y xứ,
cần có sao suy đến cửa thủy khứ. Ví dụ: Vận 7 là đầu của Hạ nguyên, là do sao Phá Quân quản
cục, thì cần sao đương lệnh 7 đáo sơn đáo hướng, còn ở phương đi của thủy khẩu phải là sao
3,4,5,6 phương đến của thủy khẩu phải là các sao 8,9,1 chiếu tới mới hợp lý khí
Chú thích: Hướng vượng gặp thủy tức là thủy vượng, không gặp thủy, hoặc gặp thứ thủy tù đọng thì là thủy suy.” Thiên Bảo kinh” từng dặn đi dặn lại
rằng: “Long phải hợp hướng, hướng phải hợp thủy”.
__________________
Có người hỏi:” Lập hướng hai vận 1, 9 là khó nhất, dễ phạm hung hơn cả, nên xử lý thế nào? .
Đáp: “Vận 1, 9 như ngụ ý Dương Quân Tùng đã nói: Long Giang Nam đến, Giang Bắc ngóng
trông, là phụ mẫu trong vận 9, lại là thống lĩnh trong vận 9, sức long từ xa tới mà sao từ phương
vượng đến thường là song hành, nên hai vận 9, 1 đều không có tọa hướng lý tưởng về đáo sơn
đáo hướng, duy trong vận 1 chỉ có tọa Ngọ hướng Tý là khả dụng, trong vận 9 chỉ có tọa Canh
hướng Giáp là khả dụng. Nếu thế, có phải trừ hai hướng đó , các hướng còn lại đều phạm hung
chăng? Không hề! Ở đây, trước hết hãy xem lực của hai Long mạnh hay yếu, tiếp đó xem có phải
Long chân huyệt hay không. Nếu lực của hai Long mạnh mà không phạm Quá quái và là sai thố,
lại thuộc Long chân huyệt, lai thủy và khứ thủy với lai Long đều cùng một nguyên, hợp thành
quẻ thuần túy, thì có thể dùng phép thế quái đem sao vượng đến chỗ lai thủy, ở hướng đó hoặc ở
nơi lai Long nhập thủ sẽ có thể phát phúc lâu dài”.
Câu “Chính sơn, chính hướng lưu chi thượng quả yêu ngộ hình trượng” trong Thiên Bảo Kinh
của Dương Quân Tùng, có nghĩa là sơn Thiên nguyên cần thủy lưu Thiên nguyên, sơn nhân
nguyên cần thủy lưu Nhân nguyên, sơn Địa nguyên cần thủy lưu Địa nguyên, chớ để lẫn lộn.
Chữ “Chính” trong “chính sơn chính hướng” nghĩa là sơn thiên can (ví dụ: nhâm, quí, bính, đinh,
canh, ất,…) cần kiêm ít chứ không được kiêm nhiếu, nếu kiêm nhiều sẽ phạm sai thố. Ba chữ
”Lưu chí thượng” có nghĩa sơn thiên can không thể khác địa chi với thủy lưu của nguyên, nếu
phạm, e sẽ cô quả hoặc bị thua kiện. Do dó, sơn hướng cùng một nguyên cần có phối hợp âm
dương. Chính hướng, chính sơn còn gọi là chủ hướng chủ sơn, kiêm hướng còn gọi là Chi Thần ,
nghĩa là Long, Sa, Thủy đều phải cùng một nguyên với Chính tọa chính hướng, không được cùng
nguyên với kiêm hướng (Chi Thần). Đó chính là Thủy pháp, Sa pháp và tôn chỉ lập hướng của
Huyền Không phong thủy.
Huyền Không phong thủy lại phân biệt cục Thuận Tử và cục Nghịch Tử, lấy Càn Khôn Cấn Tốn,
Giáp Canh Nhâm Bính, Dần Thân Tị Hợi làm Dương. Lấy Tý Ngọ Mão Dậu, Thìn Tuất Sửu
Mùi, Ất Tân Đinh Quí làm Âm, đem Dương đặt trong thủy, nghĩa là thủy khẩu lai khứ đều thuộc
Dương; đem Âm đặt trên sơn, nghĩa là tọa sơn, triều sơn đều thuộc Âm, thành cục Thuận Tử.
Nếu đem Âm đặt trong thủy, đem Dương đặt trong sơn, thì thành cục nghịch tử. Như vậy, mỗi
sơn có hai cách dùng, là chính cục và kiêm cục, 24 sơn vị chi là 48 cục, đúng như câu kinh: “24
sơn song song khởi”.
Trích TRẠCH VẬN TÂN ÁN

Ý nghĩa của các cặp sơn- hướng tinh

Sự kết hợp của các cặp sơn - hướng tinh hoặc đường lối đi trong hay ngoài nhà tạo thành các cặp hướng
tinh cũng nói lên nhiều ý nghĩa trong bố cục của căn nhà.
Những cách 1-6, 2-7, 1-4, 6-7 đều đáng kể và phải được đặc biệt chú tâm tới, nhất là nếu chúng lại có
ngoại hình hay cấu trúc bên trong ứng hợp, mức độ tốt, xấu sẽ từ đó biểu hiện hoặc gia tăng khốc liệt. các
cặp 1-6, 1-4 không bao giờ bị luận là suy tử, chỉ trừ khi bị ngoại hình bên ngoài làm hỏng mà thôi, còn
thường thì chúng đều rất tốt đẹp. Cặp 2-7 chỉ tốt nếu chúng là vượng khí, hoặc đi với những khí sinh,
vượng là Thổ như 5, 8. Còn nếu không thì cần phải đề phòng. Cặp 6-7 là Giao kiếm Sát thì chỉ trừ lúc 1
trong 2 sao là khí sinh, vượng thì không sao, còn nếu không thì sẽ có vấn đề tranh chấp hay bị trộm cướp
hoặc án mạng.
Cũng có thể dùng 1-6, 2-7 để luận Ngũ hành sinh, khắc của cung này, nhưng như đã nói là vẫn phải để ý
đến ngoại hình và thiết kế, cũng như động tĩnh của khu vực này trước, sau đó mới tính đến vấn đề Ngũ
hành sinh khắc, và vì vậy sẽ có muôn ngàn trường hợp khác nhau, tuy rằng trạch vận căn nhà thì giống
nhau. Lấy thí dụ như khu vực này của 1 căn nhà mà có hồ tắm thì 1-6 đắc thế, khu vực này có kim-thuỷ
vượng, chủ sinh ra người tài hoa, văn chương cái thế, học hành giỏi dang. 2-6, nếu như khu vực này lại có
núi thì lúc đó Sơn tinh 2 vượng, nhưng là tử khí nên là cách trong nhà phát sinh quả phụ, người đàn ông
trong nhà nếu có giỏi dang cũng yểu chết, khó thành danh. Nếu chỗ đó có bếp cũng chủ nhân đinh suy
bại, gặp năm niên tinh 7 tới hoá hợp thành Hoả tiên thiên 2-7 là Hoả vượng khắc Kim 6, sợ rằng người
cha, người chủ gia đình có tai hoạ lớn. Cho nên Huyền Không là biến hoá, muôn hình vạn trạng, chứ
không có 1 công thức nhất định tính độ vượng, suy của ngũ hành hoặc phi tinh.
Cặp 3-8/ 8-3 cũng vậy, tuỳ theo địa hình, cấu trúc mà tính chúng là tốt hay xấu trong vận 8. Nhưng thông
thường thì chúng là tốt, nhất là nếu nơi đầu hướng có 8, bên mé phải hoặc trái lại có 3.
- 1-6: Hợp hoá thành thuỷ tiên thiên, nếu có nước thì đắc lôi quan thuỷ, lợi cho tài vận và công danh.
- 2-7: Hoà tiên thiên: Chủ bệnh tật nặng và lâu dài, rất có thể bị đau tim và cao máu.
- 7-9: Hoả hậu thiên : Bực bội, thần kinh căng thẳng.
- 4-9: Kim tiên thiên: Nếu ở cung càn thì công danh thuận lợi. học hành thi cử đỗ đạt.
- 3-8: Mộc tiên thiên: Đại lợi cho công danh và tài lộc.
- 9-2: Lưỡng âm hoả: Có chuyện xích mích, cãi cọ.
- 6-7: Thương kiến sát: Chủ về tai nạn thương tật hoặc trộm cướp.
- 2-7: Đấu ngưu sát: Chủ về tranh chấp dẫn đến đánh nhau.
- 3-7: Xuyên tâm sát: Chủ về cãi cọ, bất hoà,...
- Các cung có các sao toàn âm (-) : 2;4;5;7;9. Vdụ: 9-4-7 hoặc 5-9-2; ...Nếu có thuỷ ở đó là nguy hại cho
ngườii đàn ông trong nhà, nên đoán nếu người chồng không bỏ nhà đi xa thì ắt phải chết sớm .
- Tam ban quái ở trung cung (258; 369; 147): Gia đình hòa thuận, con cái ngoan hiền, có chí,...
- Hỏa khí quá mạnh: Như nhà tọa dậu hướng mão vận 7: Đầu hướng có 2-7(hỏa tiên thiên) lại thêm vận
tinh 5 rồi vào trung cung gặp 9-7 (hỏa hậu thiên) cộng với hướng tinh 5 cũng đếu là hỏa . Rồi đến phương
tọa gặp 7-9 cũng hỏa hậu thiên thêm hướng tinh 3 là thế mộc sinh hỏa. Mà hỏa thịnh thì khắc kim nên
đương nhiên ngực, phổ, cổ họng bị đau. Còn một yếu tố nữa là nhà có hỏa khí mạnh thì con người bực bội
nên trong nhà hay có cải cọ , to tiếng

Luận về nhà bếp

Bếp là nơi chế biến thức ăn cung cấp năng lượng nuôi sống con người. Tức là nơi phát sinh và dẫn hỏa
vào nhà. Cho nên nó liên quan mật thiết đến sức khỏe, dân số trong nhà đó. Vì thế cách bố trí bếp người
ta thường tránh đặt bếp gần thuỷ như bồn rửa chén, vòi nước, bể nước, wc, tránh các xung sát như cầu
thang, lối đi chiếu vào bên hông hay đằng trước, thậm chí vòi nước cũng không được chĩa vào bếp. Bởi vì
những thứ này đều là thủy, mà thủy thì có thể làm tắt hỏa, dẫn đến nguy hại cho sức khỏe và nhân đinh
trong nhà. Bếp còn không được nằm dưới xà nhà, hay nhà có nhiều tầng thì không được kê giường trên
bếp hoặc wc cũng không được ở trên bếp, bếp không được để vào chỗ mà khi trước là wc vì nơi này đã
trở nên ô-uế, Cầu thang cũng không được ở trên bếp

Theo Huyền không thì bếp đặt vào cung có sinh, vượng khí của sơn tinh sẽ làm cho người nhà khỏe
mạnh, con cái mau thành đạt
Về vấn đề Thủy ở gần bếp thì hiện nay còn nhiều tranh cãi, chúng ta còn phải tiếp tục chiêm nghiệm. Tuy
nhiên cũng có một vài ý sau:
- Nơi để bếp có sơn tinh là suy tử khí, nhưng hướng tinh là sinh vượng khí - Cần Thủy
- Bếp tại cung Ly (hướng Nam) hay sơn hướng tinh kết hợp thành hỏa hậu thiên hay hỏa tiên thiên (2-7);
(7-2); (7-9); (9-7) - Cần Thủy
- Bếp tại cung có hướng tinh 6 hoặc 7 (hỏa khắc kim) - Cần Thủy
- Khu vực đặt bếp có sinh vượng khí của sơn tinh và Suy, tử khí của hướng tinh thì không được có thủy
- Khu vực đặt bếp có sao tử tôn tinh (3-4); (4-3) không được có thủy
- Bếp để ở khu vực có sơn hướng kết hợp thành tủy tiên thiên (1-6); (6-1) hoặc cung Khảm,...không được
có thủy, sẽ dập tắt hỏa.

Về cầu thang và lối đi chiếu vào bếp thì lại cần coi tinh bàn như thế nào.
Đặt tinh bàn của nhà vào tâm của bếp. Nếu hướng cầu thang hay lối đi chiếu vào có sinh, vượng khí của
hướng tinh thì được coi là tốt. Còn ngược lại nếu là suy tử khí của hướng tinh thì được coi là xấu.

Chúng ta cần chiêm nghiệm thêm


Hướng bếp

Theo Huyền Không thì nơi để bếp chủ về sức khỏe và nhân đinh, còn hướng bếp là chủ về tài lộc. Nếu
hướng bếp (phía lưng người nấu) có hướng tinh là sinh, vượng khí thì rất tốt cho tài lộc hoặc có hướng
tinh là:
- Nhất bạch Thủy: được “Thủy hỏa ký tế” nên là bếp tốt.
- Tam bích, tứ lục Mộc: Mộc sinh hỏa nên cũng là bếp tốt.
- Bát bạch thổ: Hỏa sinh Thổ (bát bạch là cát tinh) nên là bếp tốt vừa.
- Cửu tử: tị hòa nên cũng tốt vừa.
- Nhị hắc, Ngũ hoàng: Cũng hỏa sinh thổ nhưng nhị hắc và ngũ hoàng là hung tinh nên là bếp xấu.
- Lục bạch, thất xích Kim: Hỏa khắc Kim nên là bếp xấu
Luận về phòng ngủ

Con người ta cần 1/3 thời gian trong ngày cho việc ngủ, nghỉ. Nên phòng ngủ đối với mỗi người
trong nhà là rất quan trọng. Cùng một ngôi nhà nhưng mỗi người đều có sự thịch suy khác nhau,
nếu phòng ngủ hay giường ngủ đặt vào chỗ hung nhiều khi có thể bệnh tật triền miên hoặc chết
người.
Vì phòng ngủ là quan trọng nên người ta cho phòng ngủ là 1 trong 3 yếu tố quan trọng trong ngôi
nhà (cửa chính, bếp, phòng ngủ). Phòng ngủ không được có bếp tựa vào, cửa phòng không được
có cầu thang hay lối đi chiếu vào, giường ngủ không được dưới wc hay dưới xà nhà,…
Ngoài yếu tố theo Huyền Không là cửa phòng ngủ nên có hướng tinh là tam cát hoặc ngũ cát tính
theo tâm phòng ngủ (dùng tinh bàn của nhà), người ta còn kết hợp dụng thần của người ngủ
trong phòng đó.
Như người có dụng thần, hỷ thần là Hỏa nên ở phòng hướng Nam(so với tâm nhà), dụng thần, hỷ
thần là Thủy nên ở phòng hướng Bắc,…..Đầu giường cũng nên quay về các hướng này
Về giường ngủ thì cần xét các yếu tố sau (tính theo tâm nhà):
1/- Những vị trí nên tránh:
• So với chi của năm sinh tránh những cung nằm trong Địa chi tương hình:
- Dần-tị-thân
- Sửu-tuất-mùi
- Tý-Mão
- Thìn-Thìn; Ngọ-Ngọ; Dậu-Dậu; Hợi-Hợi

• Năm gặp Thái Tuế, Tuế Phá: Nếu là năm hạn và đặc biệt là năm mệnh xung Thái tuế tại cung
hướng gặp Thái tuế có hướng tinh là sinh, vượng khí thì không sợ Thái Tuế, còn không được thì
không nên kê giường tại nơi này kẻo tai họa đến.
- Phương Thái Tuế: Năm Tý ở phương Bắc, năm Sửu ở phương Sửu,…
- Phương Tuế Phá: Năm Tý ở phương Nam, Năm Sửu ở phương Mùi,…
- Mệnh xung Thái Tuế: Thần-Dần; Mão-Dậu; Thìn-Tuất; Tị-Hợi; Ngọ-Tý; Sửu-Mùi

• Năm gặp Ngũ Hoàng: Gặp niên tinh Ngũ Hoàng đến phương nào thì nên tránh kê giương ngủ
tại phương đó.

• Năm gặp Tam sát: Nếu tại phương gặp năm có tam sát cũng nên tránh không kê giường tại
phương này trong năm
Phương tam sát:
- Năm Hợi, Mão, Mùi tam sát ở các phương: Thân, Dậu, Tuất
- Năm Dần, Ngọ Tuất tam sát ở các phương: Hợi, Tý, Sửu
- Năm Thân, Tý, Thìn tam sát ở các phương: Tị, Ngọ, Mùi
- Năm Tị, Dậu, Sửu tam sát ở các phương: Dần, Mão, Thìn
2/- Những vị trí nên đặt giường: Gặp nhưng năm có hạn hoặc mệnh xung Thái tuế, để giảm tai
họa ta nên kê giường vào những vị trí sau:
• Tuế hợp với can:
Năm Giáp ở phương Kỷ (khôn); năm Bính ở phương Tân; năm Quí ở phương Mậu (cấn); năm
Nhâm ở Đinh; năm Tân ở Bính, năm canh ở Ất; năm Kỷ ở Giáp; năm Mậu ở Quí; Năm Đinh ở
Nhâm; năm Ất ở Canh.

• Phương Lục hợp: cần biết hành hóa là hành gì có tị hòa hoặc sinh cho dụng thần, hỷ thần thì
tốt, bằng ngược lại thì không nên dùng.
Năm Tý ở Sửu, Tý-Sửu hóa Thổ; năm Dần ở Hợi, Dần-Hợi hóa Mộc; Mạo tuất hóa Hỏa; Thìn-
Dậu hóa Kim; Tị -Thần hóa Thủy; Ngọ-Mùi hóa Thổ…và ngược lại.
__________________
Luận về cửa chính

Trong căn nhà của chúng ta (dương trạch) nếu được bếp tốt mà phòng ngủ xấu thì cŨng không được tốt.
Nếu được bếp và phòng ngủ tốt mà cửa chính (cửa thường ra vào nhà) xấu thì cũng không phải là căn nhà
tốt. Cho nên khi nhập trạch vào một nhà mới thì cái cửa chính vẫn là quan trọng nhất, thứ đến là phòng
ngủ và bếp. Trong “thuật phong thủy” người ta coi trọng ba cái này mà gọi là CHỦ-MÔN-TÁO.
- Chủ: là phòng chủ (phòng lớn nhất trong nhà)
- Môn: là cửa chính
- Táo: là bếp
Theo “Dương trạch tam yếu” thì người ta cho phối vị trí đặt của 1 trong 3 cái này với hướng nhà, nếu
được du niên tốt (sinh khí, thiên y,…) thì tốt, còn nếu phạm vào du niên xấu (tuyệt mệnh, ngũ quỉ,…) thì
phải tránh. Ngay cả cửa phòng, cửa bếp cũng phải đặt vào vị trí tốt mà tránh vị trí xấu.
Theo phong thủy “Huyền Không” thì Cửa chính là nơi nạp khí vào nhà và là cái quan trọng cần đặc biệt
quan tâm. Nếu cửa chính bố trí đúng cách và được hướng tinh là vượng khí thì cho dù phòng ngủ, bếp bố
trí có hơi sai một chút thì cũng không sao vì đã được “nhất chính đương quyền mà bách tà phải phục” rồi.
Chỉ khi nào qua vận sau, lúc đó hướng tinh thành suy khí thì mấy anh chị này mới nổi lên “quậy” mà thôi.
- Trước hết Cửa chính hay cửa thường ra vào nhà cần bố trí ở cung hướng có hướng tinh là Tam
cát hay Ngũ cát. Nếu được hướng tinh là vượng tinh thì càng tốt.
- Điều sau này là quan trọng không kém. Đó là dùng “bí quyết thành môn” để tìm cung có vượng
khí của vận chúng ta đang sống mà mở cửa ngay đó. Vì có như vậy thì mới nạp được khí tốt vào nhà
Thí dụ: nhà hướng Nam 180’ vận 8 có hướng tinh 8 tại cung hướng Nam. Nay nếu mở cửa tại cung Bính
thì nhà vẫn khó khăn như thường vì không nạp được vượng khí, chỉ khi mở cửa tại cung Ngọ hoặc Đinh
thì mới khá được. Khi qua vận 9, tuy hướng Nam vẫn có hướng tinh là tam cát (1-6-8) nhưng nếu cửa vẫn
ở Ngọ hoặc Đinh) thì tài vận lại đi xuống, nếu chuyển cửa qua Bính thì sẽ giử được tài lộc.

Trên đây là 3 vấn đề cốt lõi, gọi là CHỦ-MÔN-TÁO theo “Huyền Không”

Luận về Mượn / cướp khí & sự thông nhau giữa các cung

Trong các cách cục "Vượng sơn vượng hướng" thì sự tốt đẹp cho nhà cửa hoặc phần mộ chỉ được trong
vận đó mà thôi (tối đa được 20 năm). Khi qua vận kế tiếp, sao hướng trở thành thoái khí nên nhà hay mộ
phần trở thành suy mà tai hoạ ập tới. Nếu muốn tiếp tục phát ta phải sửa lại mộ phần hay căn nhà.
Ngoài cách cục “vượng sơn vượng hướng” mà thời gian hưng vượng ngắn ngủi ra người ta còn tìm được
một số cách cục khác có sự hưng vượng lâu dài hơn, đó là các dạng nhà có sự thông nhau giữa các cung
Khi khí giữa các cung được thông nhau thì có thể mượn được khí của VẬN hoặc NGUYÊN khác về sử
dụng cho vận hiện tại gần giống như những chiếc bình thông nhau. Theo một số nhà phong thủy: Nhà
được thông khí thì khi vượng sẽ vượng gấp 4 lần nhà "vượng sơn vượng hướng" ( trong điều kiện của
vùng đất có phong thuỷ như nhau). Nhưng theo tôi : Nhà “thông khí” không phải gấp 4 lần nhà “vượng
sơn vượng hướng” mà gấp nhiều ngàn lần, Nó giống như một lỗ đen hút vật chất vậy.
http://vn.answers.yahoo.com/question...6214935AAP9t0v
Khi nhà được thông khí, nếu vượng thì tiền tài hút vào kinh khủng có thể đến mức mà gia chủ không thể
kiểm soát nổi, nhưng nếu suy thì cực suy vì lúc đó nó đã suy lại còn bị cướp mất khí nên sự suy bại không
thể lường được, có thể đến tán gia bại sản.
Đối với môn phong thủy cấp cao thì người học phong thủy đều phải có lời thề với môn sư, từ đó người
thầy nhận xét mà trao những chìa khóa đặc biệt theo cá tính từng người. Bởi vì người học phong thủy nếu
chưa tỏ tường các môn lý số đã vội đem áp dụng thì gieo họa chứ không phải phúc. Thí dụ: một người mà
mệnh số chỉ có thể sử dụng tốt ở mức 5-10 ngàn đồng, nay bất ngờ có trong tay hàng triệu, hàng tỷ thì con
người đó sẽ như thế nào? Chắc chắn đây là một tai họa với người đó.

Chúng ta cần tìm tòi, học hỏi và chiêm nghiệm nhiều. Nếu có căn duyên thì sẽ gặp

Các cách cục được thông khí mà chúng ta sẽ lần lượt khảo sát qua là:
1)_ Thiên tâm thập đạo.
2)_ Tam ban xảo quái.
3)_ Phụ mẫu tam ban quái.

Thiên tâm thập đạo


Dùng số 10 để thông với ngũ hoàng (5) ở trung cung của cửu cung, là nơi giao hội, xuất nhập của Nhật
Nguyệt mà tạo thành thế “Thiên tâm Thập đạo” của Lạc thư và Hậu thiên Bát quái. Vì Thập (10) là âm
Kỷ, thuộc Địa, còn Ngũ (5) là dương Mậu, thuộc Thiên, nên khi lấy Thập (10) ở tám cung mà phối với
Ngũ (5) tại Thiên tâm (chính giữa) thì sẽ tạo thành sự kết hợp giữa Thiên- Địa, Phu – Phụ, Âm – Dương.
Thiên tâm thập đạo có thể thông khí giữa 8 cung gọi là “thông quái” Giúp cho nhà dù ở thế suy bại
( trường hợp bị thướng sơn hà thuỷ) cũng chuyển thành vượng mà phát phúc, lộc dồi dào.
Thiên-Tâm Thập-đạo chĩ áp dụng cho các sao về Vận, Tọa và Hướng mà thôi.
Có nhiều loại Hợp thập:
• Tổng số là 10 của Tọa của các cung tọa và hướng.
• Tổng số là 10 của Hướng của các cung tọa và hướng.
• Tổng số là 10 của Hướng hay Tọa của các cặp cung (1, 6), (2, 7), (3, 8) và (4, 9).
• Hợp thập quái: là tổng số của Tọa và Hướng ở Trung-cung là 10, chủ phát vượng nhanh
chóng.
• Tổng số là 10 của Hướng hay Tọa của các cặp cung đối xứng qua Trung-cung.
Vì đây là cách cục đặc biệt, nên chỉ có 6 trường hợp, và đều xảy ra trong Vận 5 cho những nhà có tọa-
hướng CẤN-KHÔN, KHÔN-CẤN, THÂN-DẦN, DẦN-THÂN, GIÁP-CANH, CANH-GIÁP mà thôi.
- Thí dụ: nhà tọa CẤN hướng KHÔN (tức hướng 225 độ), nhập trạch trong vận 5. Nếu lấy trạch vận thì ta
thấy:
- Sơn tinh 5 ở phía TÂY NAM + Hướng tinh 5 ở phía ĐÔNG BẮC = 10;
- Sơn tinh 1 ở phía TÂY + Hướng tinh 9 ở phía ĐÔNG = 10.
- Sơn tinh 9 ở phía TÂY BẮC + Hướng tinh 1 ở phía ĐÔNG NAM = 10.
- Sơn tinh 4 ở phía BẮC + Hướng tinh 6 ở phía NAM = 10.
- Sơn tinh 2 ở phía ĐÔNG BẮC + Hướng tinh 8 ở phía TÂY NAM = 10.
- Sơn tinh 6 ỏ phía ĐÔNG + Hướng tinh 4 ở phía TÂY = 10.
- Sơn tinh 7 ở phía ĐÔNG NAM + Hướng tinh 3 ở phía TÂY BẮC = 10.
- Sơn tinh 3 ở phía NAM + Hướng tinh 7 ở phía BẮC = 10.
Ngoài ra nếu nhìn vào trung cung thì cũng thấy Sơn tinh 8 + Hướng 2 = 10, nên đây là cách toàn bàn Hợp
thập giữa Sơn tinh và Hướng tinh.

• Hợp thập số là tổng số là 10 của một cặp Tọa, Hướng hay Vận trong mổi cung xung quanh
Trung cung, chủ hương vượng. Đây là toàn cuộc Hợp-thập
1)_ Sơn tinh và Vận tinh:
- Vận 1: Tọa TỐN hướng CÀN, tọa TỴ hướng HỢI.
- Vận 3: Tọa NGỌ hướng TÝ, tọa ĐINH hướng QUÝ.
- Vận 4: Tọa CANH hướng GIÁP.
- Vận 6: Tọa GIÁP hướng CANH.
- Vận 7: Tọa TÝ hướng NGỌ, tọa QUÝ hướng ĐINH.
- Vận 8: Tọa SỬU hướng MÙI, tọa MÙI hướng SỬU.
- Vận 9: Tọa CÀN hướng TỐN, tọa HỢI hướng TỴ.
Thí dụ: nhà tọa Sửu hướng Mùi, vận 8
2)_ Hướng tinh và Vận tinh:
- Vận 1: Tọa CÀN hướng TỐN, tọa HỢI hướng TỴ.
- Vận 2: Tọa SỬU hướng MÙI, tọa MÙI hướng SỬU.
- Vận 3: Tọa TÝ hướng NGỌ, tọa QUÝ hướng ĐINH.
- Vận 4: Tọa GIÁP hướng CANH.
- Vận 6: Tọa CANH hướng GIÁP.
- Vận 7: Tọa NGỌ hướng TÝ, tọa ĐINH hướng QUÝ.
- Vận 9: Tọa TỐN hướng CÀN, tọa TỴ hướng HỢI.
Thí dụ:
nhà toạ Ngọ hướng Tý vận 7

Bất kể sự kết hợp giữa hướng tinh với vận tinh hay giữa sơn tinh với vận tinh thì khi đã được thiên tâm
thập đạo thì toàn bàn đã được thông khí, 2 khí âm-dương Mậu-Kỷ đã tác hợp nên Sơn vượng thì Hướng
cũng vượng và ngược lại.
Trong cách cục Thiên Tâm Thập Đạo tuy toạ hướng có thể lâm vào tình trạng “:thướng sơn há thuỷ” tức
suy bại về tài lộc và nhân đinh nhưng chỉ cần cung có sao sinh khí hoặc tiến khí được phù hợp hình thế
mà trở lên vượng thì toàn bàn đều trở lên vượng mà không sợ “thướng sơn há thuỷ” nữa. Thí dụ nhà toạ
TÝ hướng NGỌ vượng phát trong vận 7, qua vận 8 thì trở lên suy bại vì hướng tinh 7 đã trở thành thoái
khí. Nhưng nếu cung hướng NAM (có hướng tinh 8 là vượng khí) hay cung hướng ĐÔNG BẮC (có
hướng tinh 9 là sinh khí) có thuỷ, trống thoáng hay đường đi hoặc cung hướng TÂY NAM (có sơn tinh 8)
hay cung hướng ĐÔNG (có sơn tinh 9) có núi, đồi, nhà cao hay cây cao thì nhà này vẫn vượng phát như
thường (dĩ nhiên những khu vực này cần có cửa để đón nhận vượng khí)

Thiên Tâm thập đạo có thể phá được thế Phản phục ngâm toàn bàn nếu có cửa thu vượng khí.

Ngoài ra Thiên tâm thập đạo còn cần hình thế chung quanh phù hợp thì mới được thông khí.

Tam ban quái & Thất tinh đả kiếp


Các bộ số (1-4-7); (2-5-8); (3-6-9) được gọi là bộ số của quẻ tam ban.
Phép dùng Tam ban quái và Thất tinh đả kiếp (đả kiếp là cướp đoạt khí của tương lai) là phép
dùng quẻ Tam ban để cướp đoạt khí của tương lai như Thượng nguyên thì cướp đoạt khí của
Trung nguyên, Trung nguyên thì cướp đoạt khí của Hạ nguyên...
Có 3 loại tam ban quái:
1)_ Tam ban quái liên châu.
2)_ Tam ban xảo quái.
3)_ Phụ mẫu tam ban quái. Trong đó lại chia làm hai loại:
a_ Ly cung đả kiếp (đả kiếp thật)
b_ Khảm cung giả kiếp (đả kiếp giả)

Tam ban quái liên châu

Liên châu tam ban quái được cho là quý trong các cuộc đặt biệt và có thể đem tới nhiều điều tốt
cho chủ nhà ( dĩ nhiên là loan đầu phải phù hợp ). Có người lại cho rằng Tam ban quái liên châu
chỉ tốt được vài năm đầu, sau đó là suy bại. Đó là họ chưa biết cách kích hoạt cho thông khí mà
thôi.
Liên Châu Tam Ban Quái là cuộc bao gồm 9 cung mổi cung đều có sơn tinh, vận tinh, và hướng
tinh liền nhau. 3 sao liền nhau , tức là 3 sao đều là (1-2-3) hoặc (2-3-4) hoặc (3-4-5) hoặc (4-5-6)
hoặc (5-6-7) hoặc (6-7-8) hoặc (7-8-9) hoặc (8-9-1)
Thí dụ:

Tam ban xảo quái

Tam ban xảo quái là trong mổi cung đều xuất hiện một trong các bộ số tam ban (1-4-7); (2-5-8);
(3-6-9)
Thí dụ:

Cũng gần giống như các cuộc thiên tâm thập đạo. Các cuộc Tam ban quái liên châu và Tam ban
xảo quái tuy có thể phạm vào cuộc “thướng sơn há thuỷ”, nhưng chỉ cần một cung hướng vượng
và một cung sơn vượng thì toàn bàn đều vượng (dĩ nhiên vẫn cần có cửa để thu nhận khí ờ các
cung vượng này). Còn nếu không được cung nào vượng thì thật là nguy hiểm, vì lúc đó khí bị
cướp đi hết mà sinh ra tai hoạ khó lường

Phụ mẫu tam ban quái

Còn gọi là THẤT TINH ĐẢ KIẾP. Khi các hướng tinh thuộc bộ số tam ban: (1-4-7); (2-5-8); (3-
6-9) phân bổ vào các cung lần lượt là LY-CHẤN- CÀN và KHẢM –ĐOÀI-TỐN kết hợp với cặp
song tinh là vượng tinh ở đầu hướng thì đây là phép thất tinh đả kiếp.
Điều cần biết là vị trí của các số trong mỗi nhóm cung định chiều quay của khí trong nhóm này,
chẳng hạn như các sao Hướng của nhóm Khảm là Đoài, Khảm và Tốn có số hướng tinh xắp theo
thứ tự là (1,4, 7) cho biết chiều quay của khí trong nhóm này là theo chiều kim đồng hồ. Chiều
quay của khí trong nhóm Ly phải theo hướng ngược chiều kim đồng hồ. Hai chiều khí này phải
ngược với nhau để có thể được coi là đồng liệt. Như vậy trường hợp trên đây được coi như có 2
bộ số tam ban .
Thí dụ 1:

Thí dụ 2:

Song tinh đáo hướng ở một trong các cung: LY-CHẤN-CÀN thì đây là LY cung đả kiếp (phép
đả kiếp thật)
_ Song tinh đáo hướng ở một trong các cung: KHẢM-ĐOÀI-TỐN thì đây là KHẢM cung giả
kiếp (phép đả kiếp giả)
Sau đây là một vài loại Thất Tinh Đả Kiếp khác:
• Các sao Tọa và Hướng của các cung tọa và hướng hợp thành 2 cặp số của Thất Tinh Đả cuộc
hợp thành quẻ Tam ban tức là Vận, Tọa và Hướng của mổi cung hợp nhau lại thành Tam ban
quái. Trường hợp này không cần điều kiện song tinh đáo hướng. Thí dụ: Vận 2, sơn Cấn hướng
Khôn.
Kiếp.
• Các sao Tọa và Hướng của mổi cặp cung tọa và hướng có các số cung hợp với nhau thành
một cặp số sinh thành của Hà đồ như là (1, 6), (2, 7), (3, 8) và (4, 9). Cả 4 sao của các cặp
cung này hợp lại thành 2 cặp số Thất Tinh Đả Kiếp như thí dụ trên.
• Cả 4 sao Tọa và hướng của mổi cặp cung đối xứng nhau qua Trung-cung hợp nhau thành 2
cặp số Thất Tinh Đả Kiếp.
Ngoài ra còn có trường hợp Toàn bàn Thất Tinh Đả Kiếp mà người ta còn gọi là Tam-Ban Xảo
quái (đã khảo sát ở phần trên).
Điều quan trọng cần chú ý là các phép MƯỢN KHÍ làm khí trong nhà được đưa lên rất cao nên
có thể đưa tất cả các điều tốt xấu lên cao độ khiến cho rất thịnh vượng hoặc rất suy bại tùy theo
tình trạng phong-thủy tốt xấu. Như vậy, khi Ngũ-hành của sao và cung kỵ nhau, kỵ thủy và kỵ
sơn, ta vẫn phải tìm cách giải cho thỏa đáng để triệt tiêu cho bằng hết tất cả chuyện xấu.
Trong phép THẤT TINH ĐẢ KIẾP thì những điều kiện sau đây cũng cần có:
1)_ Hướng tinh hoặc sơn tinh là sinh vượng khí cần được đắc cách
2)_ Ngũ-hành trong các cung đều phải sửa đổi cho tốt.
3)_ Kỵ Sơn và thủy cũng cần phải giải quyết cho thỏa đáng ở các nơi cần thiết.
4)_ Hình thế bên ngoài phải không kỵ hay được an bày để không kỵ.
5)_ Không bị Tù tức là vượng tinh của hướng không được nằm trong Trung-cung (trường hợp
tam ban xảo quái và các trường hợp khác)
Hậu quả có thể vô cùng tai hại nếu các điều kiện trên không đuợc toàn chỉnh.
__________________
"Tam hợp thị Huyền không
Hướng lấy từ Tam hợp"

Chính là nói việc phân kim lập hướng, Huyền không lập hướng chia làm hạ quái khởi tinh và thế
quái khởi tinh, Tam hợp lập hướng chia làm 24 vị châu bảo, 48 vị cô dương, hư âm và sát diệu.
Lập hướng dù hạ quái hay thế quái đều phải chọn cho được 24 vị châu bảo, tránh 48 vị cô dương,
hư âm và sát diệu.
Nội dung hai câu trên là như vậy, nhưng cao hơn nữa bạn có hiểu nó hàm ý gì nữa không? Nó
nhắc nhở địa sư phải chọn cho hài hòa không thiên vị, lấy cái lợi chung cho mọi người. Như Tý
sơn phân kim Bính tý, Canh tý là châu bảo, nhưng nếu chọn nữa bên trái của Bính tý thì con cả
hưởng hết, chọn bên phải Bính tý thì con cả và con thứ chia nhau; Nếu chọn nữa bên trái Canh tý
phân kim thì con thứ hưởng hết, chọn nữa bên phải Canh tý phân kim thì con thứ và con út chia
nhau. Nếu bên chọn có hình loan tốt đẹp, bên không được chọn có hung sát thì một bên phát, một
bên bại tuyệt. Lấy tọa sơn chia 3 phần: tả vi trưởng phòng; trung vi thứ phòng; hữu vi tiểu phòng
mà đoán định, âm dương nhị trạch như nhau.(tôi viết phần này cho anh Văn Hoài vì tôi chắc bạn
sẽ không hiểu được đâu)

Huyền không suy luận bàn


Biết rõ cơ trời đất
Phong thủy tự sắp bày

Cái này chính là nói việc ai tinh định sinh vượng suy tử. Ai tinh này không phải là việc lập tinh
bàn Vận-Sơn-Hướng bàn của huyền không đâu mà chính là sơn thủy nhị bàn. "Âm dương phân
lưỡng lộ, Sơn thủy định nhị bàn", sơn một đường, thủy một đường chia rõ. "Phiên thiên đảo địa
đối bất đồng" là vậy. "Biết rõ cơ trời đất", không phải là nói trời đất mà chính là nói thiên
bàn(sơn bàn), địa bàn(thủy bàn).

"Phong thủy tự sắp bày" chính là nói thiên nhiên định sẵn, long sơn hướng thủy đã an bài; hình
loan hợp lý khí hợp tất phát phúc; hình loan hợp lý khí bất hợp tức chờ thời không nên cưỡng
cầu, nên nói "tiên khán kim long động bất động"; lý khí hợp hình loan bất hợp chính là nơi
không nên vọng cầu; hình loan và lý khí bất hợp chính là bại tuyệt địa cục.

Tam Ban Cục mỗi phái có sở đắc riêng, đứng trên quan điểm một phái đương nhiên không thể
chấp nhận quan điểm các phái khác. Đứng trên quan điểm nhiều phái lấy cái hay để dùng, tùy
cục mà định, lấy cái ưu của bên này bổ cái khuyết của bên kia, từ từ sẽ nhận thấy chân quyết, nếu
không vượt qua được cái "tôi" thì sao nhận chân khẩu quyết?

"thức đắc phụ mẫu tam bàn quái ,tiện thị chân thần lộ .
bắc đẩu thất tinh khứ đả kiếp ,li cung yếu tương hợp ."

Thiên quái, Địa quái, Phụ mẫu quái: tam ban quái
1-6 hợp dụng 4-9: Kim Thủy tương sinh
2-7 hợp dụng 3-8: Mộc Hỏa tương sinh
Nếu như 1-6 hợp dụng 3-8: Kim Mộc tương sát
2-7 hợp dụng 4-9: Thủy Hỏa tương sát
Hợp 1-6, 2-7, 3-8, 4-9, hợp 5, hợp 10, hợp 15 là hợp, còn lại bất hợp

Tam Ban Quái có thấp có cao, dụng có hợp có bất hợp nên có cát có hung, toàn lấy nguyên lý
trên mà xét sẽ rõ. Như 2-5-8 là toàn hợp, 1-4-7 là hợp thượng trung, trung hạ nguyên bất hợp, 3-
6-9 là thượng trung bất hợp, trung hạ nguyên hợp
__________________
Các thế "sát" trong phong thủy

Cổ nhân có câu 'Ðất lành chim đậu'. Phong thủy được coi là phương pháp chọn đất
lành, tránh đất dỦ Nó chú trọng về môi trường, địa điểm, hướng, phương vị và thời
gian. Như môi trường trong sạch gần sông, gần biển tốt hơn gần các nhà máy, hảng
xưởng... mà môi trường bị ô nhiễm, địa điểm cũng vậy, nhà ở cũng the^'... Theo
thuyết 'Vạn vật tương tác', mọi vật đều có tác động hổ tương nên khoa Phong thủy
cho rằng Tiên thiên và Hậu thiên hình đều có tác động gây ảnh hưởng đến dương
trạch. Khoa này cũng xem đường sá chung quanh nhà như những dòng sông để luận
khí đến hoặc đi, để biết khí tốt hay xấụ Khí gây ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp
đối với nhà ở hay thương nghiệp, nó rất lợi hại, nó giống như nước nâng thuyền và
cũng làm thuyền chìm. Khí làm cho căn nhà vượng, nó cũng làm cho căn nhà bị
bại... Sau thời gian dài nghiên cứu các vị trí của Tiên thiên hình, Hậu thiên hình,
đường sá cùng địa điểm của nhà ở, người ta kết luận rằng: Cửa chính của căn nhà là
nơi quan trọng nhất để tiếp nhận các tác hại do Tiên, Hậu thiên hình và đường sá
gây rạ Các tác hại này khoa Phong thủy gọi là các thế sát. Có tất cả 32 thế sát chính
sau đây:

1. Âm sát Phía trước và sau của dương trạch có quá nhiều cây lớn, không theo thứ
tự ngay hàng thẳng lối (loạn mộc), nhà ở giửa cánh rừng rậm, hay phía sau nhà có
nhiều cây lớn, quá cao, tàng cây che phủ làm cỏ không mọc được nên tụ nhiều âm
khí, hoặc trước cửa nhà phía ngoài đường có gốc cây lớn của Hội đồng Thành phố
địa phương trấn án ngăn chận vượng khi'. Tùy theo nặng nhẹ, trạch chủ sẽ bị thất
tán về tinh thần, việc làm ăn bị xuống dốc, nợ nần càng ngày càng gia tăng, gia đạo
bất hòa hoặc con cái không nghe lời cha mẹ và hôn nhân của chúng đến rất muộn.

2. Cắt cước sát Cắt cước có nghĩa là cắt chân, bị què quặt, không đủ sức để chiến
đấụ Ðó là các nhà ở sát bờ biển (không có con đường trước nhà), kế bên xa lộ hay
cạnh đường rầy xe lửa, hoặc gần phi đạọ Bị thế Cắt cước sát, đầu óc của gia chủ
thường bị đảo điên, vận khí khi trồi khi sụt, sự nghiệp nghiêng ngửạ Tài lộc tán
nhiều hơn tụ, dễ bị hàm oan, mang tiếng thị phi, con cái xa rời cha mẹ, gia tộc và
bạn bè ít khi tới lui thăm viếng.

3. Cô dương sát Nơi thờ phượng như nhà thờ, chùa, đình, miếu... thường được xây
dựng nơi có linh khí, nếu địa chưa được linh thì về sau nhờ nhiều tín đồ thường
xuyên cầu nguyện, hay do nhang khói cùng những lời vái van của thập phương bá
tánh nên sinh khí tích tụ ngày càng nhiều, lâu năm trở thành linh khi'. Những căn
nhà nào ở phía trước đối diện với nơi thờ phượng mới bị thế Cô dương sát, vì vượng
khí đã bị nơi thờ phượng hút hết. Ðường công danh bị trắc trở, chủ gia gặp khó khăn
về tài chánh, gia đình luôn bị phiền muộn. Trái lại nhà nào ở cạnh hoặc ở sau nơi thờ
phượng đều vượng phát, các căn nhà này luôn nhận được sinh khí vì nơi thờ phượng
tích tụ quá nhiềụ Gia chủ thường được quới nhơn giúp đỡ, được của hoạnh tài, gia
đình yên vui, con cái hiếu thảọ

4. Cô độc sát Thế này còn gọi là 'Khẩn thủy trược tẩú, có nghĩa là nước chảy xuống
bên dưới quá nhanh, không thể đọng lại trên mặt đất, do đó khí không thể tu.. Nhà ở
trên núi cao, hay nhà nằm trên vị thế đất cao, đất ở phía trước và phía sau thấp có
độ dốc trên 35 độ (tính từ mặt đường), hoặc cao ốc đứng riêng biệt không có các
cao ốc khác ở kế cận. Chủ gia thường bị khó khăn về tài chánh, bị 'cuồng' tức tâm
trí điên loạn, thường nóng nảy thái quá, gia đạo bất an, con cái học hành không đến
nơi đến chốn. Theo khoa phong thủy, các nhà nào bị thế Cô độc sát thì thường vợ
hoặc chồng phải có người 'ra đí trước, người còn lại sẽ sống lẻ loi suốt đờị

5. Câu liêm sát Chỉ xuất hiện ở các nhà lớn 'kín cổng cao tường', vì miếng đất quá
rộng, nhất là rộng chiều ngang phía trước, nên chủ nhà thường làm hai cổng, một
bên xe vào, một bên xe ra hầu dễ dàng cho sự di chuyển (hình dáng driveway này
giống như cây cung, bề lồi hướng vào cửa nhà). Câu liêm sát còn gọi là Ðộn liêm
đao, tức lưỡi liềm cùn vì cạnh ngoài của lưỡi hái không bén, nhưng đây cũng là điều
phạm phong thủy, giống như thế Liêm đao sát. Mặc dù là thế Liêm đao sát thu nhỏ,
chỉ bị ảnh hưởng nhẹ, nhưng nó làm cho gia chủ bị hao tài vì những trò chơi đỏ đen,
con cái trong nhà không hòa thuận, gia thế càng ngày càng mất tiếng tăm.

6. Ðao trảm sát Nhà ở bên trái của con đường như chữ L hay bên phải của chữ L
ngược phía, con đường giống như con đao chém xuống căn nhấ Mặc dù sát khí của
nó nhẹ hơn Liêm đao sát nhưng nó vẫn làm tổn hại cho cho gia chủ nhiều hơn Câu
liêm sát. Người chủ sẽ gặp phải nhiều tai nạn bất ngờ, bị dính dáng đến pháp luật,
con cái không sống chung với cha mẹ hay việc học của chúng bị dở dang và tình
duyên nửa chừng đứt đoạn.

7. Ðoạn hổ sát Ðối diện với căn nhà, bên kia đường ở phía bên phải có một mái nhà
lớn hình chữ L ngược đầu, như lưỡi của máy chém ở vị trí sẵn sàng rớt xuống bất cứ
lúc nàọ Khi vận của chủ gia thịnh thì không có gì trở ngại,nhưng vào những năm bị
Tam tai hay vận niên xấu, người chủ và người phối ngẫu dễ bị các chuyện thị phi
hoặc bị tiểu nhơn dèm pha, hãm hạị

8. Ðộc âm sát Là căn nhà nào ở gần bên nhà quàn, kế nhà xác, sát bên bệnh viện
hay khu vực nghĩa trang, bị sự tích tụ của loại khí nặng nề tức âm khí và tử khi'. Nhà
nào lâm vào thế Ðộc âm sát này thì người chủ sống trong bi quan, bị bệnh mất ngủ,
thường lo sợ viễn vong, tiêu cực, không thích tranh đua với đời, tài đức kém. Gia
đình ít con, thường buồn bã, thân quyến và bạn bè không lui tới viếng thăm. Con cái
có tư tưởng yếm thế và sống cô độc, ít có bạn bế

9. Hỏa sát Các nhà ở dưới hoặc gần sát bên đường dây dẫn điện cao thế, kế cận
trạm biến điện, hay thấy trụ sắt điện cao thế từ cửa trước hoặc cửa sau, hoặc các
vật nhọn đầu chĩa vào cửa nhấ Những người cư ngụ bên trong căn nhà này đều có
thể bị bệnh hoại huyết, vật dụng và tài sản trong nhà có thể bị hỏa hoạn thiêu sạch.
Của hoạnh tài không bao giờ tới cửa, làm nhiều nhưng lợi tức không có bao nhiêu
nên hậu vận nghèo khô Ðường công danh sự nghiệp của con cái bị tắt nghẽn, tình
duyên lận đận.

10. Kiệu sát Sau lưng căn nhà có dốc núi là thế cát (kháo sơn), rất tốt cho những
người cư ngu.. Phía trước, đối diện căn nhà đang ở có một cao ốc hay một tòa nhà to
lớn gấp mấy lần nhà mình đang cư ngụ là bị vô thế Kiệu sát (giống như trước mặt
căn nhà có dốc núi, nên bị treo ngược, thế hung). Gia chủ bị lừa dối, bị nói xấu sau
lưng, gặp tiểu nhơn mưu hại, cuộc đời gặp nhiều trở lực, nghiệt ngẩ Vì thế thường
thiếu tự chủ, bi quan yếm thế, tự ti mặc cảm, về già sống cô độc. Con cái không thể
tự lực tự cường, gặp nhiều trở ngại trên đường học vấn và hay đau buồn về chuyện
gia đình.

11. Kim tự sát Trước cửa nhà, thấy nhà đối diện có nóc hình tam giác, đỉnh nhọn
chĩa thẳng về hướng cửa nhà mình, hay cả hai nhà đối diện có nóc nhọn chĩa thẳng
vào nhau thì cả hai đều bị trúng thế Kim tự sát. Nhà nào cao nhà đó bị nặng hơn.
Trúng thế này gia chủ thường bị bệnh nhức đầu, công ăn chuyện làm bị đình trệ, khi
có khi không, tiền bạc khi được khi mất. Con cái dù đỗ đạc cũng khó kiếm việc làm,
đường công danh trắc trở,lận đận và việc hôn nhân đến muộn.

12. Kình quyền sát Nhà đối diện có mái che trước cửa hình vuông hay chữ nhựt lồi ra
chĩa thẳng về hướng nhà mình, nếu ngay cửa chính thì bị nặng hơn, mái che đó như
lưỡi dao sắp lóc một miếng thịt. Nhà bị thế Kình quyền sát không bị tác hại nặng
nhưng cũng làm cho gia chủ bị bệnh về hô hấp, có thể bị thương tích từ dao kéo hay
vật nhọn, bén. Con cái bị ảnh hưởng nhẹ, có tư tưởng bi quan và không có sự yên ổn
của tâm hồn.

13. Liêm đao sát Liêm đao là loại đao ngắn (người Mông cổ thường xử dụng để đánh
cận chiến), hình dạng như mặt trăng lưỡi liềm. Liêm đao có cạnh bén ở bề lồi, lưỡi
hái có cạnh bén ở bề lõm. Căn nhà nào có con đường phía trước uốn cong, phía lồi
hướng tới cửa là bị phạm Liêm đao sát. Khí đến cũng nhanh, đi cũng chóng, nên
không thể tu.. Vô thế này, tinh thần của gia chủ bị suy vi điên đảọ Dễ bị tai nạn,
nhất là về xe cộ, trong nhà
cũng bị đứt tay, đứt chân, đổ máụ Tránh xử dụng binh khí, nếu không có thể bị đáo
tụng đình. Không nên cho con cái chơi các môn thể thao nguy hiểm như bắn súng,
đua xe...

14. Phản quang sát Tòa nhà cao lớn đối diện được bao bọc từ dưới lên trên cao bằng
lớp kiếng hay perspex dầy làm phản chiếu ánh sáng mặt trời, chiếu thẳng qua nhà
mình làm chói mắt mỗi khi nhìn đến, đây là thế Phản quang sát. Gia chủ dễ bị tai
nạn tại nơi làm việc, thần kinh luôn bị căng thẳng, thiếu tự chủ, nóng nảy và giận
hờn vu vợ Con cái dễ bị bệnh về mắt, nhẹ cũng mang kính cận hoặc viễn thi.. Thuở
nhỏ chúng không chịu gò bó trong kỷ luật khắc khe của gia đình, lớn lên hay cãi vả
dù biết mình sai và thường bị lôi thôi về tiền bạc. Hôn nhân của chúng bị cách trở
khó thành và nhiều lần dang dở

15. Phi nhân sát Nhà bị góc vuông của bức tường lớn (ở bên kia đường đối diện) chĩa
thẳng vào cửa chính gọi là Phi nhân sát. Ðây là một thế sát nhẹ trong các loại sát,
nhưng không vì vậy mà khinh thường ảnh hưởng của nô Ngày qua ngày, tháng qua
tháng, thời gian càng kéo dài thì càng bị nặng thêm. Phạm thế này, gia chủ thường
bị bệnh, sức khỏe ngày càng kém, tiền bạc khi có khi không, sự nghiệp hơi nghiêng
ngửạ Về gia đình, trong lòng có nhiều vướng bận, thắc mắc, tin vui chậm đến.

16. Phong sát Nhà ở trên đỉnh núi cao không có chỗ dựa hay trên tầng cao nhất của
cao ốc, chịu đựng sức gió thổi từ năm này qua tháng nọ, gió làm khí bay tán loạn
nên không thể tụ, sẽ bị phạm vào thế Phong sát. Phạm thế này gia chủ thường bị
cảm cúm, tài vận yếu kém, sống cô độc không có người thân giúp đỡ. Con cái
thường sớm bỏ nhà ra đi, cuộc đời gặp nhiều đau xót.

17. Quang sát Ðối diện nhà có trụ đèn hoặc đèn pha của hãng xưởng chiếu thẳng
vào trước cửa chính, ánh sáng này được gọi là Quang sát. Gây bất lợi cho gia chủ về
phương diện sức khỏe, tâm trí rối loạn, trong người nóng nảy thường gây gổ vô cO
Tài lộc tụ tán bất thường, con cái bất hòạ

18. Tà thương sát Nhà bị con đường lộ đâm xéo tới là bị trúng Tà thương sát. Nếu
đâm vào bên trái cửa ở vị trí của Thanh Long, người nam bị tổn hại, nếu đâm bên
phải ở vị trí của Bạch Hổ người nữ bị thiệt thòị Nếu bị ngay chính diện cửa thì tất cả
những người cư ngụ đều bị tổn hại về tài sản. Con cái trong nhà sẽ bỏ học, đi rong
và phá củạ

19. Thám đầu sát Phía sau tòa nhà đối diện trên cao nhất có mái hiên (như carport).
Hình tòa nhà đối diện này có phần trên là cổ, phần dưới là thân, nhìn từ xa giống
như mất đầụ Bị phạm thế Thám đầu sát con cái khó dạy, tuổi trẻ hư hỏng, lớn lên
thường làm chuyện bất lương, đầu trộm đuôi cướp. Hay bị dính đến pháp luật.

20. Thanh sát Trong khu vực nhà đang ở có tiếng động thường xuyên từ hãng xưởng
như tiếng búa đập tại các lò rèn và nơi làm cửa sắt hay tiếng nổ lớn của máy xe nơi
'độ xe đuâ Tiếng động lớn hay nhỏ thường xuyên xảy ra gọi là Thanh sát. Bị thế này
gia chủ tâm thần bất an, không thể làm những việc mình muốn vì 'lực bất tòng tâm'.
Con cái gặp khó khăn trong việc học và phải đi làm việc sớm.

21. Thích diện sát Phía trước cửa nhà phía đối diện có đồi cao hay vách đá dốc
thẳng hoặc nhìn thấy núi cao là căn nhà bị trúng thế Thích diện sát. Nhà bị phạm
thế này, người đang cư ngụ bên trong dễ phạm tù tội hay bị trộm cướp thăm viếng
thường xuyên. Vợ chồng thường cãi vả, gây gổ, nếu bị nặng có thể đi đến chi taỵ
Tiền bạc chỉ đủ sống cho dù làm lụng suốt ngàỵ Con cái ra đời sớm, ít khi sống
chung.

22. Thiên trảm sát Khoảng giữa hai dãy nhà có một con đường chính chĩa thẳng vào
nhà đang ở, gió thổi tới rất mạnh làm khí không thể tụ gọi là Thiên trảm sát. Sát khí
này từ khoảng trống xông tới nên nó là hư sát. Gia chủ bị suy nhược, sức khoẻ ngày
càng kém, tài lộc đến ít, đi nhiềụ Có thể có tai nạn xe co^.. Con cái sớm rời xa gia
đình.

23. Thương sát Ðối diện phía trước nhà là con đường cụt (no through road), nhà này
bị kẹt vào thế Thương sát. Sức khỏe của chủ nhà sút kém, công danh sự nghiệp
không thuận lợị Riêng con cái không bị ảnh hưởng.

24. Thủy tinh sát - Nhà đang nằm ở dưới thung lũng hay phía sau có con suối, ao hồ
tù hãm. - Nhà ở vùng đất thấp ẩm ướt quanh năm suốt tháng.- Nhà có đất nền cửa
cao hơn thế đất bên trong. Các căn nhà nói trên dễ bị ngập lụt hoặc đọng nước khi
có mưa lớn, tuy vượng thủy nhưng không thể hấp thụ được vượng khí nên bị liệt vô
thế Thủy tinh sát. Gia chủ thường bị yếu phổi, tâm thần hỗn loạn. Về tài lộc, tích lũy
và nắm giữ tiền bạc một thời gian nhưng rồi số tiền đó cũng trôi đi mất. Việc làm
không liên tục, công danh sự nghiệp của con cái khó đạt thành.
25. Tiễn xạ sát Ðối diện phía trước căn nhà căn nhà có vật thể nhọn hay bên kia
đường có góc tường cao ốc chĩa thẳng vào cửa chính (góc 45 độ) giống như mũi tên
bắn tới là bị phạm thế Tiễn xạ sát. Vì góc nhọn chĩa tới, sát khí theo đó tiến thẳng
vào nhà, đây là thực sát. Gia chủ bị tai họa huyết quang, chẳng những tài lộc khó tụ
mà còn bị phá tàị

26. Tiễn đao sát Nhà nằm ở vị trí giửa ba hay bốn con đường giao nhau như chữ Y
hay chữ X, hai cạnh của hai con đường (nằm hai bên căn nhà) giống như lưỡi kéo
sắp cắt đôi căn nhà này, theo khoa phong thủy thế này là Tiễn đao sát. Gia chủ bị
hao tài tốn của, tai họa dồn dập đưa tớị Vợ chồng ly tán, con cái dể bị dính vào vòng
tù tộị

27. Tỉnh tự sát Tỉnh là giếng nước, tự là chỦ Căn nhà nằm giữa chữ tỉnh, ý nói căn
nhà nằm giữa bốn con đường bị phạm vào thế Tỉnh tự sát. Khí tại nơi này bị gió thổi
xoay vòng, vì vậy vận khí trong căn nhà bị điên đảo, nên sinh khí không thể hội tụ
do đó tài lộc không bao giờ cô Gia chủ bị bệnh cao máu, thường bị nhức đầu chóng
mặt. Con cái có thể bị bệnh ngu khờ

28. Tuyệt mệnh sát - Nhà nằm dưới triền núi, bên trên có tảng đá lớn nằm cheo leo
sắp rớt. - Nhà nằm cạnh mặt đường nhưng ở thế đất thấp sâu bên dưới con đường. -
Nhà nằm bên dưới cạnh xa lộ ở trên. Cả ba đều bị phạm thế Tuyệt mệnh sát. Vị trí
này làm cho khí đến và đi rất nhanh, ác khí hoặc trọc khí tích tụ bao quanh, nên sức
khỏe của gia chủ yếu kém, vướng vào 'tứ đổ tường', hậu vận nghèo khô Bị giảm thọ,
chết không kịp trối (bất đắc kỳ tử). Những người cư ngụ trong căn nhà ở này đều bị
ảnh hưởng giống như nhaụ Tuyệt mệnh sát là một trong những thế sát nguy hiểm
nhất về sinh mạng trong các loại sát.

29. Xung bối sát - Căn nhà bị con đường phía sau lưng đâm thẳng tới gọi là Xung bối
sát. Gia chủ thường bị vu khống, luôn bị tiểu nhơn phá quấy, đâm thọt sau lưng. Có
tài nhưng không có thời cơ, có bản lãnh nhưng không tạo được thời thế và không
được trọng dụng tại nơi làm việc.bị phá hoại trong việc làm ăn buôn bán. Con cái bị
ảnh hưởng tới thanh danh.

30. Xung thiên sát Xung thiên có nghĩa là bốc lên. Nhà ở trong khu vực lò luyện
thép, nhà máy chế Ciment, Concretẹ Mở cửa ra là thấy ống khói đang phun lửa hay
khói đang bốc lên. Nhà này bị triệt vì thế Xung thiên sát. Trọc khí bao phủ cả vùng
nên những ai ở trong căn nhà này đều bị bệnh, nặng nhất là gia chủ, làm ăn bị lỗ
vốn, tài sản dần dần bị 'baý mất.

31. Xuyên tâm sát Giống như thế Thiên trảm sát, nhưng con đường chĩa thẳng vào
căn nhà lớn hơn và hai bên vệ đường không phải là những dảy cao ốc. Hay đối diện
căn nhà phía bên kia đường có trụ điện hoặc cây lớn án ngay cửa chính (nếu ngã đổ
về phía nhà sẽ đúng ngay trung tâm) đều là bị Xuyên tâm sát (nhưng nếu phía trước
căn nhà có round above thì tác hại của ác khí bị hóa giải). Nếu bị phạm thế, chủ gia
sẽ sống không thọ, sức khỏe kém, bị họa về vũ khí gây nên hoặc bị kiện tụng hay
mang tiếng thị phị

32. Xung xạ sát Xạ là bắn, để mũi tên vào cây cung, bắn ra gọi là xẫ Phàm cái gì có
sức tống mạnh bay ra xa đều gọi là xẫ Xung là đối thẳng, tiến thẳng tới không ngại
hiểm nguỵ - Phía trước căn nhà chỉ có một cái đình, hay một cái nhà bỏ hoang lạnh
lẽọ - Phía trước căn nhà chỉ có một tảng đá hoặc một ngọn núi trơ trọi hoặc một cây
cổ thụ đã chết khộ Các căn nhà bị như trên đều phạm thế Xung xạ sát. Gia chủ bị cô
đơn, gia đình bị phân tán, con cái ít khi trở về thăm viếng, khi 'nhắm mắt' không có
người thân bên cạnh.

(theo vobivietnam .com)

You might also like