You are on page 1of 39

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG


KHOA NGÂN HÀNG



ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN


HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Giáo viên: Trần Thị Lộc


Nhóm 5 – H302 – sáng thứ 6
Hà Nội
Danh sách thành viên Nhóm 5 H302 sáng thứ 6

stt Tên thành viên Lớp

1 Đào Thị Hải Huyền TCDNB_K11

2 Hoàng Thị Cẩm Tú TCDNB_K11

3 Nguyễn Thị Ngọc Huế TTQTB_K11

4 Vũ Giang Lam TCDNC_K11

5 Trần Văn Chiến TCDNC_K11

6 Nguyễn Thanh Thủy TCDNB_K11

7 Trần Phi Hùng TCDNB_K11

8 Nguyễn Quang Đức TCDNB_K11

9 Bùi Trường Minh TCDNA_K11

10 Phạm Thế Huỳnh TCDNB_K11

11 Mai Hồng Minh TCDNB_K11

12 Nguyễn Văn Thương TCDNB_K11

13 Nguyễn Thị Thùy Linh TCDNE_K11


Lời Mở Đầu
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan
trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn
đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm
phát… Để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng
các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết định.

Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc bi ệt là các
công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác
dụng đối với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Vi ệt Nam thì
việc lựa chọn các công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đo ạn c ụ th ể
của nền kinh tế luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi
và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính sách ti ền t ệ
quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh
tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách
tiền tệ cụ thể là các công cụ của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cao.

Với mục đích trau dồi kiến thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về
chính sách tiền tệ , chúng em quyết định chọn đề tài :

“Điều hành CSTT của NHNN Việt Nam từ năm 2007 đến nay và những
vấn đề đặt ra.”

Trong quá trình sưu tập và làm bài, chúng em phân ra nhiều phần khác nhau để
phân tích và có thể đứng ở một khía cạnh nào đó có thể hạn hẹp. Chính sách tiền
tệ của NHNN VN trong giai đoạn 2007 -2010 rất rộng lớn, có thể kiến thức của
chúng em chưa đáp ứng được yêu cầu của các thầy (cô) yêu cầu. Chúng em rất
mong sự đóng góp ý kiến từ các thầy (cô) và các bạn để bài tiểu luận của chúng
em được tốt hơn nữa.

Chúng em xin chân thành cảm ơn!!


Chương I:

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

1) Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ

a. Khái niệm chính sách tiền tệ :

Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương
khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ , biện pháp của mình nhằm đạt các
mục tiêu :ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm ,tăng trưởng kinh tế .

Chúng ta có thể hiểu, chính sách tiền tệ là tổng hòa các phương thức mà NHNN
VN (NHTW) thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền tệ
trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế -xã hội
của đất nước trong một thời kì nhất định. Mặt khác, nó là một bộ phận quan
trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của chính phủ.

Tuỳ điều kiện các nước, chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai hướng:
chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền ,giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất
kinh doanh ,giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng -chính sách tiền tệ chống thất
nghiệp) hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền , tăng lãi suất làm
giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất
nghiệp tăng-chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền).

b. Vị trí chính sách tiền tệ :

Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì chính sách tiền tệ
là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh
vực lưu thông tiền tệ .Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh
tế vĩ mô khác như chính sách tài khoá,chính sách thu nhập,chính sách kinh tế đối
ngoại.

Đối với Ngân hàng trung ương ,việc hoạch định và thực thi chính sách chính sách
tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất ,mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho
chính sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn.

2) Mục tiêu của chính sách tiền tệ :

a. Ổn định giá trị đồng tiền :


NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền
của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên hai mặt: Sức mua
đối nội của đồng tiền(chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước)và sức mua
đối ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ). Tuy vậy, CSTT
hướng tới ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát =0 vì như
vậy nền kinh tế không thể phát triển được,để có một tỷ lệ lạm phát giảm phảI
chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên.

b. Tăng công ăn việc làm:

CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu qủa
các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ l ệ
thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghịêp giảm thì phải chấp
nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên. Mặt khác, khi tăng trưởng kinh tế đạt được do
kết quả của cuộc cải tiến kĩ thuật thì việc làm có thể không tăng mà còn giảm.
Theo nhà kinh tế học Arthur Okun thì khi GNP thực tế giảm 2% so với GNP tiềm
năng, thì mức thất nghiệp tăng 1%.

Từ những điều trên cho thấy, vai trò của NHTW khi thực hiện mục tiêu này :
tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất – kinh doanh, chống suy thoái kinh t ế theo
chu kỳ, tăng trưởng kinh tế ổn định, khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá
tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.

c. Tăng trưởng kinh tế:

Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định
các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn
định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng ,nó thể hiện
lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ.

Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt đ ược một cách hài
hoà.
Mối quan hệ giữa các mục tiêu : Có mối quan hệ chặt chẽ,hỗ trợ nhau, không
tách rời. Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu
thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậy để đạt được các mục tiêu trên
một cách hài hoà thì NHTW trong khi thực hiện CSTT cần phải có sự phối hợp
với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.

Mặt khác để biết các mục tiêu cuối cùng trên có thực hiện được không, thì các
NHTW phải chờ thời gian dài ( một năm –khi kết thúc năm tài chính).

3. Các công cụ điều tiết:


Công cụ CSTT là các hoạt động được thực hiện trực tiếp bởi NHTW nhằm ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông và lãi suất,
từ đó mà đạt được các mục tiêu của CSTT.

a. Công cụ trực tiếp:

Là các công tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu thông hoặc các mức
lãi suất trung và dài hạn. Công cụ trực tiếp được áp dụng phổ biến trong thời kỳ
các hoạt động tài chính được điều tiết chặt chẽ. Các công cụ được sử dụng đó
là:

 Hạn mức tín dụng


 Ấn định lãi suất
 Ấn định tỷ giá

• Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM:

 Khái niệm :là việc NHTW quy định tổng mức dư nợ của các NHTM không
được vượt quá một lượng nào đó trong một thời gian nhất định(một năm)
để thực hiện vai trò kiểm soát mức cung tiền của mình.Việc định ra hạn
mức tín dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ
mô(tốc độ tăng trưởng ,lạm phátiêu thụ..)sau đó NHTW sẽ phân bổ cho các
NHTM và NHTM không thể cho vay vượt quá hạn mức do NHTW quy
định .
 Cơ chế tác động: Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối
với lượng tiền cung ứng, việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín
dụng cho nền kinh tế có quan hệ thuận chiều với qui mô lượng tiền cung
ứng theo mục tiêu của NHTM.
 Đặc điểm:Giúp NHTW điều chỉnh ,kiểm soát được lượng tiền cung ứng
khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả ,đặc biệt tác dụng nhất thời của nó
rất cao trong những giai đoạn phát triển quá nóng,tỷ lệ lạm phát quá cao
của nền kinh tế .Song nhược điểm của nó rất lớn : triệt tiêu động lực cạnh
tranh giữa các NHTM,làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nến kinh tế ,dễ
phát sinh nhiều hình thức tín dụng ngoàI sự kiểm soát của NHTW và nó sẽ
trở nên quá kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng
lên

• Quản lý lãi suất của các NHTM:

 Khái niệm :NHTW đưa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một trần lãi
suất cho vay để hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó,từ
đó ảnh hưởng tới qui mô tín dụng của nền kinh tế và NHTW có thể đạt
được quản lý mức cung tiền của mình.
 Cơ chế tác động:Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm
sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các NHTM
làm cho lượng tiền cung ứng thay đổi theo.
 Đặc điểm:Giúp cho NHTW thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo
mục tiêu của từng thời kỳ,đIều này phù hợp với các quốc gia khi chưa có
điều kiện để phát huy tác dụng của các công cụ gián tiếp.Song, nó dễ làm
mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãi suất
là “giá cả” của vốn do vậy nó phải được hình thành từ chính quan hệ cung
cầu về vốn trong nến kinh tế .Mặt khác việc thay đổi quy định đIều
chỉnh lãI suất dễ làm cho các NHTM bị động,tốn kém trong hoạt động
kinh doanh của mình.

• Tỉ giá hối đoái:

 Khái niệm : Tỉ giá hối đoái là đại lượng biều thị mối tương quan về mặt
giá trịgiữa hai đồng tiền.nói cách khác tỉ giá hối đoái là giá cả của một đơn
vị tiền tệ nước này được biểu hiện bằng một đơn vị tiền nước khác.
 Cơ chế tác động: Tác động đến hoạt động kinh tế , từ hoạt động xuất
nhập khẩu đến sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước qua biến đổi
của giá cả hàng hóa.
 Đặc điểm: Ngân hàng trung ương có thể ấn định tỉ giá cố định hay tha nổi
theo quan hệ cung cầu ngoai tệ trên thị trường ngoại hối bện canh đó còn
có tỉ gía cố định nhưng di động khi cần thiết và tỉ giá thả nổi có quản
lý.khi vận dung công cụ này không phải NHTU đẩy tỉ giá lên cao hay kéo
tỉ gái xuống thấp mà ổn định tỉ gái ở một mức độ hợp lí phù hợp vói đặc
điểm điều kiện thực tế của đất nước trong từng giai đoạn để tác động
chung cuộc của nó là tốt nhất.

b.Công cụ gián tiếp:

Đây là nhóm công cụ tác động trước hết vào mục tiêu hoạt động của CSTT,
thông qua cơ chế thị trường mà tác động này được lan truyền đến các mục tiêu
trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất. Bao gồm:

• Nghiệp vụ thị trường mở:

 Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực
hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó đIều tiết
lượng tiền cung ứng.

 Cơ chế tác động :

Nghiệp vụ thị trường mở có 2 loại: được phép mua bán chứng khoán
vào những thời điểm nhất định sau khi nghiệp vụ được tiến hành và
loại không được phép mua bán lại.
Khi NHTW đem chứng khóan ra thị trường mở để bán nó thu tiền hay
séc về, cho nên:

o Giảm lượng cung tiền mắt trong lưu thông từ đó giảm khả năng cho vay
của các ngân hàng trung gian.

o Khi ngân hàng trung gian mua chứng khóan của NHTW thì dự trữ tiền
của nó sẽ giảm xuống và khả năng cung ứng tiền của nó bị thắt chặt.

o Lượng chứng khoán tăng lên, chứng khoán trở nên thừa và giá của nó sẽ
giảm xuống, lãi suất của nó sẽ tăng lên. Lãi suất chứng khoán tăng lên
buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất để tránh tình trạng người dân rút
tiền ra khỏi ngân hàng để đầu tư vào chứng khoán. Lãi suất ngân hàng
tăng làm lượng tiền cung ứng giảm và do đó tiền trở nên khan hiếm, do
đó tỉ giá và giá cả hàng hóa giảm xuống. Và ngược lại khi NHTW ra thị
trường mở để mua chứng khoán.

Như vậy khi NHTW thực hiện nghiệp vụ bán, nó thắt chặt cung ứng
tiền, tăng lãi suất, giảm tỉ giá và giá cả hạ xuống và ngược lại khi thực
hiện nghiệp vụ mua.

 Đặc điểm: Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi
là một công cụ rất năng động, hiệu quả, chính xác của CSTT vì khối
lượng chứng khoán mua ( bán ) tỷ lệ với qui mô lượng tiền cung ứng
cần điều chỉnh, ít tốn kém về chi phí , dễ đảo ngược tình thế. Tuy vậy,
vì được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào
các chủ thể khác tham gia trên thị trường và mặt khác để công cụ này
hiệu quả thì cần phảI có sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ
,thị trường vốn.
• Dự trữ bắt buộc:

 Khái niệm : Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phảI giữ
lại, do NHTW qui định, gửi tại NHTW, không hưởng lãI, không được
dùng để đầu tư, cho vay và thông thường được tính theo một tỷ l ệ
nhất định trên tổng só tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng
thanh toán, sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
 Cơ chế tác động: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực
tiếp đến số nhân tiền tệ (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của
các NHTM.Mặt khác khi tăng (giảm ) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả
năng cho vay của các NHTM giảm (tăng), làm cho lãI suất cho vay tăng
(giảm), từ đó làm cho lượng cung ứng tiền giảm (tăng).
 Đặc điểm: Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nước nên giúp
NHTW chủ động trong việc đIều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác
động của nó cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự
trữ bắt buộc là ảnh hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền). Song
tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất
chậm ,phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt
động kinh doanh của các NHTM.

Chương II:

THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CSTT Ở VIỆT NAM NĂM


2007 TỚI NAY

I. Thực trạng CSTT ở Việt Nam:

1) Bối cảnh chung:

Năm 2007, kinh tế Việt Nam phát triển trong điều kiện khó khăn nhiều hơn
thuận lợi so với các năm trước.

 Về khó khăn: Thị trường thế giới biến động lớn, phức tạp. Giá cả nhiên
liệu, vật tư, nhất là xăng dầu, phôi thép, thép, nguyên liệu sợi, vải, vật liệu
phục vụ công nghiệp dệt may, da giày, hóa chất, phân bón, thức ăn chăn nuôi
tăng cao. Thị trường xuất khẩu một số mặt hàng biến động phức tạp như dệt
may, da giày, thủy sản, thủ công mỹ nghệ, xe đạp và phụ tùng, động cơ
điện... Điều đó đã làm cho giá cả tiêu dùng trong nước tăng cao liên tục chưa
có điểm dừng.

Các điểm yếu của nền kinh tế vốn tồn tại nhiều năm nay như kết cấu hạ tầng
yếu kém, nhất là giao thông, thủy lợi, điện đã bộc lộ rõ nét qua thiên tai năm
2007... không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế bền vững với tốc độ cao.

 Về thuận lợi: Thành quả nổi bật của những năm qua là duy trì được
tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5%/ năm trong 5 năm 2001 - 2005
và 8,17% năm 2006, thế và lực của Việt Nam đã mạnh lên so với các năm
trước. Đó là những tiền đề vật chất rất quan trọng, là yếu tố thuận lợi cơ
bản để các ngành, các cấp thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch năm 2007.
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO và
thực hiện cam kết PNTR với Hoa Kỳ, do đó, thị trường xuất khẩu mở rộng, các
rào cản thương mại Việt Nam với các nước thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc
hạn chế. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao qua Hội nghị
cấp cao APEC năm 2006. Quan hệ ngoại giao, các hoạt động hợp tác kinh tế, đầu
tư, mở rộng thị trường xuất khẩu được củng cố và tăng cường thông qua các
cuộc thăm cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng với sự tham gia của các
nhà doanh nghiệp. Tình hình chính trị ổn định, an ninh - quốc phòng bảo đảm, đã
tạo môi trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các doanh
nghiệp trong nước.

Thị trường và giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam diễn biến theo
hướng cầu lớn hơn cung như dầu thô, gạo, cà phê, chè, thủy sản... Do đó, giá cả
các mặt hàng này tăng cao, có lợi cho hoạt động xuất khẩu.

Bối cảnh trên đây đã tác động trực tiếp, toàn diện đến quá trình và kết quả sản
xuất, kinh doanh của các ngành, các doanh nghiệp và xu thế biến động thị
trường, giá cả trong nước trên cả 2 mặt thành tựu và hạn chế, bất cập của nền
kinh tế năm 2007.

Sang đến năm 2008 tình hình kinh tế trong nước và thế giới có nhiều biến động
phức tạp. Cụ thể:

• Tình hình thế giới:


Từ đầu năm 2008, giá dầu thô và nhiều loại vật tư, lương thực trên thị trường
thế giới tăng đột biến, giá dầu thô đã tăng trên 140 USD/thùng; giá lương thực
tăng trên 1.000 USD/tấn. Kinh tế tăng trưởng chậm lại trên phạm vi toàn cầu,
trước hết là do những khó khăn trong thị trường nhà đất của Mỹ và sự mất giá
của đồng đô la làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ giảm sút.
Từ sự suy thoái của kinh tế Mỹ, suy thoái kinh tế và lạm phát đã lan rộng ra các
nền kinh tế lớn khác trong năm 2008 như EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ...
và ảnh hưởng toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Quí I năm 2008 của các nước
đều giảm. Dự báo chỉ số CPI của các nước năm 2008 sẽ tăng cao hơn nhiều các
năm trước.
• Tình hình trong nước:
Từ năm 2007 một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế đã có những biểu
hiện xấu và tiếp tục tác động sang năm 2008 như: chỉ số giá trong năm 2007 tăng
tới 12,6%; tổng kim ngạch nhập khẩu tăng tới 39% và nhập siêu lên tới 29% tổng
kim ngạch xuất khẩu; cân đối tiền tệ, các chỉ số về tổng phương tiện thanh toán,
tổng mức huy động vốn và tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế đều tăng rất
cao. Các dự báo khi xây dựng kế hoạch năm 2008 biến động khá lớn so với tình
hình thực tế (tỷ giá giữa đồng Việt nam với USD; lãi suất tiết kiệm; mức lãi
suất cho vay ).
Kinh tế thế giới bước sang 2009 với nhiều lo âu và thấp thỏm. Mỹ, đầu tầu kinh
tế toàn cầu sau khi “lên dốc” không thành vào quý III năm 2008, đã trượt dốc
không phanh. Các kế hoạch cứu trợ khẩn cấp liên tiếp được đưa ra nhưng chưa
thể ngăn chặn được sự “bốc hơi” của lượng tài sản tài chính lên tới hơn 30.000
tỉ USD.Toàn thế giới đã chịu “chấn động” của “cơn sóng thần thế kỷ”. Lạm
phát, giá hàng hóa, vật tư tăng cao.

Nếu tăng trưởng kinh tế năm 2008 của nước ta diễn ra theo đúng kịch bản 6,5%,
thì hy vọng rằng trong năm 2009 chúng ta vẫn tiếp tục là nền kinh tế thu hút
nhiều sự quan tâm của cộng đồng kinh doanh và tài chính quốc tế. Tuy vậy, khó
khăn về nguồn vốn và tín dụng quốc tế chưa đi qua. Thu hút vốn FDI trong năm
tới sẽ gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao sẽ trở thành vấn nạn của
năm 2009, kéo theo hiệu ứng là các tệ nạn tiêu cực xã hội. Tạo đủ công ăn việc
làm cho người lao động là một thách thức của nền kinh tế Việt Nam trong năm
2009. Khu vực doanh nghiệp, đặc biệt khối tư nhân, còn gặp nhiều khó khăn
trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Thu hẹp quy mô và giãn sản xuất, đồng nghĩa
với việc cắt giảm nhân công hoặc sử dụng không hết thời gian làm việc, là
những giải pháp phổ biến tại nhiều đơn vị sản xuất thời gian qua.

Mặt bằng lãi suất đã được điều chỉnh giảm dần suốt 6 tháng cuối năm 2008
nhưng trên thị trường tín dụng, ngân hàng và doanh nghiệp vẫn chưa tìm được
tiếng nói chung.

Do tình trạng suy thoái kinh tế và thất nghiệp còn gia tăng, nhu cầu tiêu dùng
trong năm 2009 sẽ giảm mạnh. Ngân hàng Thế giới ước tính mậu dịch thế giới
sau khi tăng 6,2% trong năm 2008 sẽ suy giảm còn 2,1% trong năm tới. Từ đó, có
thể xác định một năm khó khăn cho xuất khẩu Việt Nam đang ở phía trước. Mặc
dù giá nhập khẩu cũng có xu thế giảm, nhưng muốn bảo đảm nhập siêu ở mức
an toàn, cần tiếp tục kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhập khẩu và cổ vũ thực
hành tiết kiệm trong tiêu dùng và đầu tư.

Trong năm 2009, NHNN đã thành công trong việc kích thích tăng trưởng ở mức
5,3%, trong khi kiềm chế lạm phát ở mức 6,5%. Nền kinh tế đã dần đi vào ổn
định. Năm 2010, NHNN sẽ cố gắng đáp ứng cả hai mục tiêu, nhưng mục tiêu
tăng trưởng sẽ chiếm ưu thế vì tình hình kinh tế thế giới sẽ biến chuyển thuận
lợi hơn, tạo điều kiện cho VN tăng trưởng nhanh hơn so với năm ngoái. Để đạt
mức tăng trưởng 6,5% cho 2010 chúng ta phải chấp nhận một mức độ lạm phát
cao hơn 7%. Một mức lạm phát 7-9% có thể chấp nhận được

Kinh tế trong nước có xu hướng tăng trưởng cao, thị trường tài chính, tiền tệ và
kinh tế vĩ mô về cơ bản là ổn định. Mặc dù vậy, giá cả hàng hóa tiêu dùng trong
nước tăng ở mức khá cao. Chỉ số giá tiêu dùng 2 tháng đầu năm nay tăng 3,35%,
hầu hết các nhóm mặt hàng đều tăng.
Như vậy, giá cả hàng hóa tiêu dùng tăng ở mức khá cao trong những tháng đầu
năm nay, nhưng so với cùng kỳ các năm gần đây chưa phải là đột biến. Nguyên
nhân trực tiếp và chủ yếu làm cho giá cả hàng hóa tiêu dùng tăng là do tác động
của giá cả hàng hóa thế giới, nhu cầu tiêu dùng tăng cao trong dịp Tết Nguyên
đán và việc điều chỉnh tăng giá một số mặt hàng thiết yếu.

2. Diễn biến về việc điều hành CSTT:


a. Giai đoạn 2007:
Thực hiện ý kiến chỉ đạo nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2007, NHNN trong
thực thi CSTT đã bám sát mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm
phát, đảm bảo sự ổn định tiền tệ, ổn định hệ thống ngân hàng, góp phần ổn
định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao,
bền vững trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế - nhiều thuận lợi, nhưng
cũng không ít thách thức. Trên cơ sở đó, NHNN đã thực hiện các giải pháp
điều hành CSTT như sau:

+)Thực hiện can thiệp thị trường ngoại hối nhằm giảm áp lực tăng
giá VND gây bất lợi cho tăng trưởng kinh tế:
Trong phạm vi khối lượng tiền cung ứng tăng được Chính phủ phê duyệt năm
2007, NHNN đã sử dụng linh hoạt các công cụ CSTT để điều tiết có hiệu
quả khối lượng tiền cung ứng này, nhằm đạt mục tiêu mua ngoại tệ tăng dự
trữ ngoại hối Nhà nước, hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam, góp phần
bình ổn thị trường ngoại hối, nhưng đồng thời cũng hút mạnh lượng tiền đã
cung ứng ra cho mục đích mua ngoại tệ để giảm mức độ dư thừa vốn khả
dụng của các NHTM, hạn chế sự giá tăng của tổng phương tiện thanh toán
(TPTTT), qua đó giảm áp lực lạm phát. Cụ thể:
- Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHNN đã hút được một lượng tương
đối lớn vốn khả dụng dư thừa của các TCTD, đồng thời vẫn điều tiết kịp
thời sự thiếu hụt vốn mang tính thời điểm của một số TCTD, đảm bảo duy
trì ổn định tiền tệ, ổn định lãi suất thị trường.
- Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của năm
2006 để hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD, qua đó hạn
chế tăng trưởng tín dụng vào những lĩnh vực kém hiệu quả, giảm sức ép tăng
lạm phát trong những tháng cuối năm.
- Giữ ổn định các mức lãi suất chính thức do NHNN công bố, nhằm phát tín
hiệu ổn định lãi suất thị trường. Đồng thời, trong điều kiện nguồn cung
ngoại tệ dồi dào, từ 01/03/2007, NHNN đã chính thức thực hiện bỏ qui định
về trần lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD để hoàn toàn tự do hóa
lãi suất thị trường, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.
- Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện cho
vay chiết khấu trong hạn mức phân bổ.

+) Điều hành tỷ giá và quản lý dự trữ ngoại hối phù hợp với điều kiện
mở cửa thị trường tài chính:
- Ngay từ đầu năm 2007, NHNN bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ giá từ
0,25% lên 0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%. Đồng
thời NHNN đã thực hiện việc mua ngoại tệ theo nhu cầu bán của các NHTM,
Kho bạc Nhà nước và các tổ chức quốc tế với tỷ giá phù hợp để hạn chế sức
ép tăng giá đồng Việt Nam và tăng cường mức dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Chênh lệch giữa tỷ giá mua ngoại tệ của NHNN và tỷ giá bình quân trên thị
trường liên ngân hàng đã được thu hẹp, phản ánh sát cung cầu ngoại tệ trên
thị trường.
- Thực hiện Quyết định số 597/QĐ-TTg ngày 11/5/2007 của Thủ tướng Chính
phủ, NHNN đã duy trì hạn mức Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng bằng 30%
tổng dự trữ ngoại hối nhà nước, (xác định theo quý) với biên độ +/- 10% thay
vì xác định hạn mức theo giá trị tuyệt đối như trước đây. Việc xác định hạn
mức như vậy cho phép NHNN tăng cường tính linh hoạt trong điều hành tỷ
giá, kịp thời ứng phó với các rủi ro đảo chiều của các nguồn vốn, đặc biệt là
các nguồn vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài.
- NHNN đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước, đáp ứng mục tiêu
thanh khoản và sinh lời ở mức độ nhất định. Tổng dự trữ ngoại hối Nhà
nước tính theo tuần nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ mức 13,6 tuần vào
thời điểm cuối năm 2006 lên gần 18 tuần năm 2007.
- Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Ngoại
hối; triển khai thực hiện Đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt
Nam, khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt.

+) Thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng và tốc độ tăng trưởng
tín dụng, tăng tổng phương tiện thanh toán nhằm kiểm soát lạm phát.
Bên cạnh việc sử dụng các công cụ CSTT để thu hút tiền dư thừa của các
TCTD để hạn chế việc mở rộng quá mức đầu tư tín dụng và tăng TPTTT,
NHNN tiếp tục thực hiện hoàn thiện cơ sở pháp lý và yêu cầu các TCTD thực
hiện các quy định về kiểm soát rủi ro, quy mô, chất lượng tín dụng và cho
vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế như:
- Yêu cầu các TCTD tiếp tục thực hiện Công văn số 7318/NHNN-CSTT ngày
25/8/2006 về việc thực hiện một số biện pháp để kiểm soát việc cho vay đầu
tư, kinh doanh chứng khoán ở mức hạn chế và đảm bảo an toàn. Ban hành
Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007 về kiểm soát quy mô, chất lượng
tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm
phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đó có qui định khống chế dư nợ vốn
cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán ở mức
dưới 3% tổng dư nợ tín dụng của TCTD...
- Ban hành Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/1/2007 quy định các
TCTD không được cấp tín dụng cho các doanh nghiệp trực thuộc hoạt động
trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, không được cho vay không có bảo
đảm đối với các khoản vay nhằm đầu tư, kinh doanh chứng khoán và trong
thời hạn 1 năm kể từ ngày Quyết định 03 có hiệu lực, các TCTD phải điều
chỉnh để đáp ứng các quy định trên.
- Đồng thời, bổ sung sửa đổi quy định về tín dụng, trích lập và sử dụng dự
phòng rủi ro phù hợp với chuẩn mực quốc tế và yêu cầu tăng cường năng lực
tài chính của NHTM khi tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, hệ số rủi ro của các
khoản cho vay để đầu tư chứng khoán, các khoản cho vay đối với công ty
chứng khoán nhằm kinh doanh, mua bán chứng khoán được nâng lên mức
150% (theo quy định tại Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN là 100%);
- Ban hành văn bản số 3224/NHNN-CSTT ngày 10/4/2007 quy định việc các
TCTD báo cáo định kỳ về hoạt động cho vay đầu tư chứng khoán, cho vay có
bảo đảm bằng cầm cố chứng khoán, ủy thác đầu tư và chiết khấu giấy tờ có
giá nhằm phục vụ việc giám sát thường xuyên hoạt động cho vay đối với nhu
cầu vốn này và có các giải pháp xử lý kịp thời; ban hành Chỉ thị 03/2007/CT-
NHNN ngày 28/5/2007 về kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay
đầu tư, kinh doanh chứng khoán và các văn bản hướng dẫn lộ thực hiện đối
với các NHTM đã cho vay vượt mức khống chế tỷ lệ 3%, giảm dần cho đến
thời điểm 31/12/2007 phải đảm bảo tỷ lệ 3%; tăng cường thanh tra, giám sát
việc mở rộng quy mô và chất lượng tín dụng theo Chỉ thị này.
- Ban hành Chỉ thị số 06/2007/CT-NHNN ngày 02/11/2007 về yêu cầu các tổ
chức tín dụng và các đơn vị trực thuộc NHNN thực hiện các giải pháp đảm
bảo khả năng thanh toán và kiểm soát tổng phương tiện thanh toán.
- Tổ chức họp với các NHTM và NHNN chi nhánh thành phố Hà Nội, Đà
Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh để triển khai thực
hiện các giải pháp cụ thể về tiền tệ, tín dụng. NHNN đã chỉ đạo các NHTM
tích cực tham gia nghiệp vụ thị trường mở, điều chỉnh cơ cấu tín dụng, kiểm
soát chặt chẽ tín dụng đối với một số lĩnh vực có độ rủi ro cao như cho vay
để đầu tư, kinh doanh chứng khoán, cho vay kinh doanh bất động sản, cho vay
bằng ngoại tệ, cho vay tiêu dùng.
- Tiến hành thanh tra tại các TCTD về hoạt động cho vay đầu tư, kinh doanh
chứng khoán, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố chứng khoán.

b. Giai đoạn 2008:

 6 tháng đầu năm:

Trong 6 tháng đầu năm, áp lực lạm phát gia tăng mang tính toàn cầu, CPI của
Việt Nam trong 6 tháng tăng bình quân là 15,03%, mức thâm hụt cán cân thương
mại ở mức kỷ lục (hơn 14% GDP). Trước tình hình đó thực hiện các công văn số
75/TTg-KTTH, ngày 15 tháng 1 năm 2008, và 319/TTg-KTTH, ngày 03 tháng 03
năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường các biện pháp kiềm chế lạm
phát năm 2008 cùng với nghị quyết 10/2008/NQ_CP về các biện pháp kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền
vững; NHNN đã thực hiện các giải pháp điều hành CSTT như sau:
+) Điều hành CSTT theo hướng thắt chặt để kiềm chế tốc độ tăng tổng
phương tiện thanh toán và kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng nhằm đảm
bảo mức tăng tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng không vượt quá
30%.

Để thực hiện mục tiêu này, NHNN đề ra những giải pháp và biện pháp cụ thể:
Thứ nhất, chỉ đạo các TCTD kiểm soát chặt chẽ những lĩnh vực cho vay có rủi ro
cao như đầu tư kinh doanh chứng khoán, bất động sản thông qua việc:
- Siết chặt lại các điều kiện được cho vay và khống chế tổng dư nợ cho vay,
chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán không được vượt
quá 20% vốn điều lệ của TCTD.
- Yêu cầu các TCTD khống chế tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay
bất động sản ở mức hợp lý so với tổng dư nợ và nguồn vốn cho vay.
- Ban hành Quyết định số 09/2008/QĐ-NHNN về cho vay bằng ngoại tệ của tổ
chức tín dụng đối với khách hàng vay là người cư trú nhằm hạn chế cho vay đối
với nhu cầu không nhất thiết phải sử dụng vốn ngoại tệ.
Thứ hai, sử dụng các công cụ của CSTT như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc
(DTBB), thị trường mở để điều tiết lượng vốn khả dụng của các ngân hàng
thương mại (NHTM) và từ đó tác động lên khả năng cung vốn ngân hàng ra thị
trường theo mục đích đặt ra và thu hút mạnh tiền từ lưu thông về, cụ thể:
- Tăng tỷ lệ DTBB (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và các
TCTD hoạt động trên địa bàn nông thôn).
- Tăng khối lượng bán tín phiếu trên nghiệp vụ thị trường mở và phát hành
20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối với các TCTD có quy mô vốn huy đ ộng
bằng VND trên 1.000 tỷ đồng (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương).
- 6 tháng đầu năm 2008, NHNN đã 2 lần thay đổi các lãi suất cơ bản, lãi suất tái
cấp vốn, lãi suất chiết khấu theo hướng tăng lên. Điều này được thực hiện
nhằm tạo hành lang lãi suất phù hợp với định hướng kiểm soát tốc độ tăng
trưởng dư nợ tín dụng và từng bước đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi
tiền, cụ thể :
+ Tăng lần 1: lãi suất cơ bản lên 12%/năm, lãi suất tái cấp vốn lên 13%/năm, lãi
suất chiết khấu lên 11%/năm.
+ Tăng lần 2: Lãi suất cơ bản lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn lên 15%/năm, lãi
suất chiết khấu lên 13%/năm.

+) Nâng dự trữ bắt buộc đối với các NHTM và qui định các NH mua tín phiếu
NHNN:

- Ban hành Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN về việc điều chỉnh dự trữ bắt
buộc đối với tổ chức tín dụng. Cụ thể, mở rộng diện các loại tiền gửi phải dự
trữ bắt buộc bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, thay vì áp
dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở
xuống như thời gian qua. Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc 1% đối với các
loại tiền gửi so với tỷ lệ quy định hiện nay. Không điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn nông nghiệp nông
thôn.

- Ban hành quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu NHNN
bằng VND dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng với nội dung
chủ yếu là: tổng giá trị tín phiếu NHNN phát hành bắt buộc đợt này là 20.300 tỷ
đồng, kỳ hạn là 364 ngày, lãi suất là 7,80%/năm; hình thức phát hành là ghi sổ; giá
trị tín phiếu được phân bổ cho từng tổ chức tín dụng theo quy mô, tỷ trọng huy
động vốn bằng đồng Việt Nam của từng tổ chức tín dụng; thời điểm phát hành
tín phiếu là ngày 17/3/2008.

+) Bình ổn thị trường ngoại hối:

- Để bình ổn thị trường ngoại hối, NHNN đã thực hiện hàng loạt biện pháp, như
nới rộng biên độ tỷ giá từ ±1% lên mức ±2% tạo sự linh hoạt tỷ giá sát với cung -
cầu thị trường; thực hiện mở rộng đối tượng bán ngoại tệ cho các NHTM, việc
can thiệp dựa vào trạng thái ngoại tệ của các NHTM trong ngày, thực hiện minh
bạch các thông tin về dự trữ ngoại hối.

- Bên cạnh đó, NHNN thực hiện giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh ngoại
tệ, cấm các tổ chức tín dụng (TCTD) không được mua - bán USD thông qua
ngoại tệ khác, phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra và xử lý
các hoạt động đầu cơ, kinh doanh ngoại tệ trái pháp luật trên thị trường và thiết
lập đường dây nóng. Hành động này đã có tác động nâng cao kỷ luật thị trường,
góp phần tích cực tạo bình ổn thị trường.

 6 tháng cuối năm:


Chính sách tiền tệ 6 tháng cuối năm 2008 để chủ động ngăn chặn suy
giảm kinh tế, chính sách tiền tệ thắt chặt được chuyển dần sang nới lỏng
một cách thận trọng. Theo ý kiến chỉ đạo của Công văn số 970/TTg-
KTTH ban hành ngày 25/6/2008 về việc thực hiện biện pháp kiềm chế
lạm phát và bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô những tháng cuối năm 2008,
NHNN đã thực hiện một loạt các giải pháp sau:

+) Điều chỉnh lãi suất :

- Đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản từ 14%/năm xuống 13%/năm,
12%/năm, 10%/năm và 8,5%/năm; lãi suất tái cấp vốn từ 15%/năm xuống
14%/năm 13%/năm, 11%/năm và 9,5%/năm; lãi suất chiết khấu từ 13%/năm
xuồng 12%/năm và 11%/năm, 9%/năm và 7,5%/năm, lãi suất cho vay qua đêm
trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh
toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng thương mại từ 15%/năm xuống
14%/năm, 13%/năm, 11%/năm và 9,5%/năm.
Bảng 1
Ngày thực
Lãi suất CB Quyết định
hiện
3161/QĐ-NHNN ngày
8,5% 22/12/2008
19/12/2008
2948/QĐ-NHNN ngày
10% 05/12/2008
03/12/2008
2808/QĐ--NHNN ngày
11%/năm 21/11/2008
20/11/2008
2559/QĐ-NHNN ngày
12%/năm 05/11/2008
3/11/2008
2316/QĐ-NHNN ngày
13.0%/năm 21/10/2008
20/10/2008
1317/QĐ-NHNN ngày
14%/năm 11/06/2008
10/6/2008

- Đã tăng lãi suất tiền gửi DTBB bằng đồng Việt Nam đối với các TCTD từ
5%/năm lên 10%/năm và giảm 1% tỷ lệ DTBB đối với tiền nội tệ và 2% tỷ lệ
DTBB tiền gửi ngoại tệ áp dụng cho các TCTD. Tiếp đến tháng 11 giảm lãi suất
tiền gửi dự trữ bắt buộc xuống 7 % và hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc xuống còn mức
5% đối với Việt Nam đồng.

Bảng 2:

Lãi suất
Quyết định Ngày thực hiện
DTBB
3162/QĐ-NHNN ngày
8,5%/năm 22/12/2008
19/12/2008
2950/QĐ-NHNN ngày
9%/năm 5/12/2008
3/12/2008
2321/QĐ-NHNN ngày
10%/năm 21/10/2008
20/10/2008
2133/QĐ-NHNN ngày
5,0%/năm 01/10/2008
25/9/2008
1907/QĐ-NHNN ngày
3,5%/năm 01/9/2008
29/8/2008
-Ban hành Quyết định 2811 ngày 20/11/2008 theo đó, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc
bằng đồng Việt Nam từ 10%/năm xuống còn 8%/năm, rồi từ 8% xuống còn 6%
(Quyết định 2951 ngày 03/12/2008), đến 19/12/2008 còn 5% (Quyết định 3158).

+) Điều chỉnh tỷ giá:


- Ngày 6/11/2008, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 2635/QĐ-
NHNN, theo đó,cho phép Tổng Giám đốc (Giám đốc) các tổ chức tín dụng đ ược
phép hoạt động ngoại hối ấn định tỷ giá mua bán giao ngay giữa VND và USD
trong biên độ ±3% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng, tăng ±1% so với mức
±2% đã được áp dụng. Biên độ tỷ giá mới sẽ được áp dụng từ ngày 07/11/2008.

Bên cạnh đó, NHNN đã ban hành Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 09/10/2008, theo
đó yêu cầu các TCTD áp dụng các biện pháp đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt
động kinh doanh, trong đó chú trọng các biện pháp ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra
do tác động của khủng hoảng tài chính và dấu hiệu suy thoái kinh tế toàn cầu,
chấp hành đúng quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh
doanh; đáp ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế trên cơ sở khả năng huy động vốn
trong và ngoài nước, đi đôi với kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng và tiếp
tục điều chỉnh cơ cấu tín dụng để tập trung vốn cho các lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh, xuất khẩu, nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu, lĩnh vực nông nghiệp nông
thôn…

c. Giai đoạn 2009-nay:


 Trong năm 2009:

Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ đã phải đối mặt với nhiều thách thức
khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất l ợi của
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế. NHNN đã thực thi CSTT một cách
linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường.

+) Dự trữ bắt buộc:

Từ 1/3/2009, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND của các tổ
chức tín dụng, đồng thời tiếp tục giữ nguyên lãi suất cơ bản VND.

Cụ thể, lãi suất cơ bản được giữ nguyên ở mức 7%/năm và lãi suất cho vay tối
đa là 10,5%/năm. Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ
hạn dưới 12 tháng được điều chỉnh đối với mọi loại hình tổ chức tín dụng

- Ngày 3/4/2009, Thống đốc NHNN (NHNN) đã ban hành Quyết định số 790/QĐ-
NHNN về lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với tổ chức
tín dụng (TCTD) và lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của Kho bạc Nhà nước tại
NHNN.

Theo quyết định này, kể từ ngày 3/4/2009, NHNN áp dụng mức lãi suất đối với
tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ gửi tại NHNN của các TCTD là
0,1%/năm, áp dụng kể từ kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng 4/2009. Tiền gửi bằng
ngoại tệ của Kho bạc Nhà nước tại NHNN cũng được áp dụng mức lãi suất
0,1%/năm.

+) Hỗ trợ tín dụng:

-Ngày 29/9, Thống đốc NHNN ban hành Thông tư số 20/2010/TT-NHNN


hướng dẫn thực hiện các biện pháp điều hành công cụ chính sách tiền tệ để hỗ
trợ tổ chức tín dụng cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn.

+) Lãi suất:
Lãi suất tái cấp vốn:

Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng


08% 2664/QĐ-NHNN 25/11/2009 01/12/2009
7,0%/năm 2232/QĐ-NHNN 01/10/2009
7% 837/QĐ-NHNN 10/04/2009 10/04/2009
7% 173/QĐ-NHNN 23/01/2009 01/02/2009

- Ngày 23/01/2009 Thống đốc NHNNVN ra Quyết định số 173/QĐ-NHNN về


lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh
toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù
trừ của NHNNVNđối với các ngân hàng.

-Ngày 10/04/2009 Phó Thống đốc Trần Minh Tuấn ký ban hành Quyết định số
837/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua
đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn
trong thanh toán bù trừ của NHNNVNđối với các Ngân hàng.

Theo quy định các mức lãi suất của NHNNVNnhư sau:

1. Lãi suất tái cấp vốn: 7,0%/năm.


2. Lãi suất tái chiết khấu: 5,0%/năm.
3. Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho
vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNNVNđối với
các ngân hàng: 7,0%/năm.

-Ngày 25/11/2009, Thống đốc NHNN (NHNN) Việt Nam đã ban hành các Quyết
định điều chỉnh mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu
và tỷ giá.

Quy định các mức lãi suất của NHNNVNnhư sau:

1. Lãi suất tái cấp vốn: 8,0%/năm

2. Lãi suất tái chiết khấu: 6,0%/năm.

3. Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù
đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNNVNđối với các ngân hàng:
8,0%/năm.

Lãi suất cơ bản:


Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng
8% 2665/QĐ-NHNN 25/11/2009 01/12/2009
7% 2459/QĐ-NHNN 28/10/2009 01/11/2009
7,0%/năm 2232/QĐ-NHNN 01/10/2009
7% 2024/QĐ-NHNN 26/08/2009 01/09/2009
7% 1811/QĐ-NHNN 30/07/2009 01/08/2009
7% 1539/QĐ-NHNN 30/06/2009 01/07/2009
7% 1250/QĐ-NHNN 22/05/2009 01/06/2009
7% 1015/QĐ-NHNN 29/04/2009 01/05/2009
7% 626/QĐ-NHNN 24/03/2009 01/04/2009
7% 378/QĐ-NHNN 24/02/2009 01/03/2009
7,0%/năm 172/QĐ-NHNN 23/01/2009 01/02/2009
-Trước khi nghỉ Tết 2009, NHNN đưa lãi suất cơ bản của VND từ mức 8,5%
xuống còn 7% một năm. Mức cắt giảm 1,5% cũng được áp dụng với các loại lãi
suất tái cấp vốn, tái chiết khấu và cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên
ngân hàng. Theo đó, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 9,5%/năm xuống 8%/năm; lãi
suất tái chiết khấu giảm từ 7,5%/năm xuống 6%/năm; lãi suất cho vay qua đêm
trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh
toán bù trừ của NHNNVN đối với các ngân hàng giảm từ 9,5%/năm xuống
8%/năm.

Với phần dự trữ bắt buộc bằng tiền đồng mà các ngân hàng thương mại gửi ở
NHNN, lãi suất giảm mạnh hơn, từ 8,5% xuống còn 3,6% một năm.

+) Trên thị trường ngoại hối:

- 6 tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận
lợi. Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND
và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không
muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu
mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng. Để tăng
nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHNN đã triển khai quyết liệt nhiều
giải pháp như:

- Mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương
mại từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp với
các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ
nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đ ời
sống; điều hoà ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ trên ngân hàng.

- Áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh
nghiệp và người dân; yêu cầu các NHTM nhà nước giảm lãi suất cho vay và huy
động bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay giảm từ mức 6-6,5%/năm xuống không quá
4%/năm kể từ ngày 15/4/2009 và giảm tiếp xuống mức không quá 3%/năm kể từ
ngày 01/6/2009, lãi suất huy động giảm xuống mức không quá l,5%/năm kể từ
ngày 01/6/2009).

- Đề nghị Hiệp hội Ngân hàng yêu cầu các NHTM cổ phần đồng thuận giảm lãi
suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ như các NHTM nhà nước kể từ ngày
8/6/2009.

- Ngày 26/11, NHNN đã kịp thời điều chỉnh tỷ giá, nâng tỷ giá công bố lên 17.980
đồng/USD, tăng 5,4% so với ngày trước đó, thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/-5%
xuống còn +/-3%, đồng thời yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm biên
độ tỷ giá.
- Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống
lại được NHNN bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng cam kết
cung cấp đủ ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt ưu tiên
những mặt hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất. Đồng thời với điều chỉnh tỷ giá,
NHNN đã thực hiện nâng các mức lãi suất chỉ đạo lên thêm 1%.

 6 tháng đầu năm 2010:

+) Điều hành lượng tiền cung ứng thông qua điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt
buộc bằng ngoại tệ, điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và tái cấp
vốn để đảm bảo an toàn thanh toán của hệ thống ngân hàng và hỗ trợ thanh
khoản cho nền kinh tế:

Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4% đối với kỳ hạn
dưới 12 tháng, từ 3% xuống 2% đối với kỳ hạn trên 12 tháng. Tỷ lệ dự trữ bắt
buộc của các tổ chức tín dụng sẽ phải nâng lên mức 9% thay cho 8% như hiện
nay, thời gian áp dụng từ ngày 1/10/2010. Đó là một trong những nội dung chính
tại Thông tư số 13/TT-NHNN mà Thống đốc NHNN vừa ký ban hành quy định
về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.

+) Điều hành linh hoạt công cụ lãi suất phù hợp với quy định của pháp luật,
mục tiêu kinh tế vĩ mô và điều kiện của thị trường, kết hợp với các công cụ
khác nhằm điều tiết lãi suất thị trường ở mức hợp lý, tạo điều kiện cho các
NHTM mở rộng huy động vốn và cho vay đối với nền kinh tế:

- Giữ ổn định lãi suất cơ bản 8%/năm, lãi suất tái cấp vốn 8%/năm, lãi suất tái
chiết khấu 6%/năm. Lãi suất cho vay VND của NHTM tối đa là 12%/năm, lãi
suất thị trường liên ngân hàng biến động không lớn (8 – 10%/năm), lãi suất huy
động VND kỳ hạn dưới 12 tháng dưới 11%/năm; lãi suất huy động bằng USD
khoảng 3 – 4%/năm và cho vay khoảng 5 – 8%/năm.

- NHNN đã ban hành Thông tư số 07/2010/TT-NHNN ngày 26/02/2010 quy định


về cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận của TCTD đối với
khách hàng, trong đó, mở rộng cho vay trung, dài hạn bằng VND theo lãi suất
thỏa thuận phù hợp với Nghị quyết số 23/2008/QH12 ngày 06/01/2010 của Quốc
hội và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 và chỉ đạo của Thường trực
Chính phủ.

+) Điều chỉnh tỷ giá, thực hiện các biện pháp chống găm giữ và đầu cơ, can
thiệp bán ngoại tệ cho các nhu cầu nhập khẩu mặt hàng thiết yếu nhằm
từng bước tạo sự chuyển biến tích cực của thị trường ngoại tệ:
- Ngày 10/02/2010, Thống đốc NHNNVNban hành Thông tư số 03/2010/TT-
NHNN quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ của tổ chức kinh tế
tại tổ chức tín dụng (TCTD) là 1%/năm và quyết định điều chỉnh tỷ giá bình quân
liên ngân hàng áp dụng cho ngày 11/02/2010 là 18.544 VND/USD (tăng 3,36%).

- Thực hiện hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, hạ lãi suất tiền gửi bằng
ngoại tệ của các doanh nghiệp và nâng tỷ giá danh nghĩa lên thêm 3,36%. Cùng
lúc, NHNN chỉ đạo các tổ chức tín dụng tích cực mua lại ngoại tệ của một số
tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Đồng thời, NHNN bán ngoại tệ ở mức hợp lý
để hỗ trợ ngoại tệ nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất. Ngoài
ra, cơ quan này cũng tiến hành đóng cửa sàn vàng, góp phần quan trọng ổn định
tỷ giá cũng như ổn định thị trường ngoại hối.

+)Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp bình ổn thị trường vàng theo
chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ:

- Để bình ổn thị trường vàng trong nước, đưa giá vàng trong nước quy đổi bằng
tỷ giá thị trường tự do về sát với giá vàng thế giới để tránh tình trạng nhập lậu
vàng, từ ngày 5/2 đến ngày 24/2/2010, NHNN đã cho phép Công ty SJC nhập
khẩu 6 tấn vàng. Theo báo cáo, Công ty đã bán hết ra thị trường. Sau khi triển
khai biện pháp can thiệp thị trường vàng, đến nay, về cơ bản đã đạt được các
mục tiêu nói trên

- Về tình hình đóng cửa sàn vàng và kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài;
đối với các NHTM, hiện nay có 3 NHTM đã đóng cửa Sàn giao dịch vàng, các
NHTM có Sàn giao dịch vàng khác đều đang tiến hành thực hiện các biện pháp
cần thiết để đóng cửa Sàn giao dịch vàng theo đúng thời hạn quy định. Đối với
sàn giao dịch vàng khác, theo thông tin từ các trang thông tin điện tử của các Sàn
giao dịch vàng thuộc các Công ty chứng khoán và các Sàn giao dịch vàng khác
không thuộc NHTM, các Sàn giao dịch vàng này đều đã có thông báo chính thức
đóng cửa Sàn giao dịch vàng trước ngày 30/3/2010 theo đúng chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ.

+)Chỉ đạo các TCTD trong các hoạt động tín dụng, hỗ trợ lãi suất và kinh
doanh ngoại hối:

- Chỉ đạo các TCTD kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng đi đôi với mở rộng
tín dụng, cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa, khu vực nông thôn, chi phí sản xuất
nông – lâm nghiệp, thủy sản, diêm nghiệp, thu mua nông sản, chế biến và xuất
khẩu và các dự án lớn trọng điểm của nhà nước.

- Chỉ đạo các TCTD thực hiện việc quyết toán hỗ trợ lãi suất đối với các khoản
cho vay ngắn hạn bằng VND phát sinh trong năm 2009 theo Quyết định số
131/QĐ-TTg và triển khai cơ chế hỗ trợ lãi suất đối với những khoản vay trung
và dài hạn bằng VND.
- Tăng cường giám sát hoạt động kinh doanh của các TCTD (tỷ lệ an toàn, thực
hiện các quy định của pháp luật về lãi suất và quản lý ngoại hối); hệ thống
TCTD nhìn chung hoạt động an toàn, hầu hết các TCTD thực hiện đảm bảo các
tỷ lệ về chi trả, an toàn hoạt động; một số NHTM có khó khăn tạm thời, NHNN
đã có biện pháp hỗ trợ vốn để tránh tác động xáo trộn thị trường.

II. Đánh giá việc điều hành CSTT ở VN trong giai đoạn 2007
đến nay:
1. Những thành công:

• Giai đoạn 2007:


Với việc thực thi CSTT như trên về cơ bản đạt được mục tiêu đề ra là ổn định
tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ vốn tạo
môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Điều này thể hiện ở những kết
quả sau:
- Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xẩy ra những cú sốc
về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường
tài chính quốc tế
+ Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh trong vài ngày
giữa tháng 11/2007, song, nhìn chung, mặt bằng lãi suất trong năm ổn định: lãi
suất huy động và cho vay của TCTD vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm
nhẹ so với cuối năm 2006, tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho
tăng trưởng kinh tế.
+ Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm (VND lên giá nhẹ),
trong bối cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất
VND và ổn định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối
đoái danh nghĩa trên thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm
soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND.
- Diến biến tổng phương tiện thanh mặc dù tăng cao, nhưng cơ cấu thay đổi theo
chiều hướng tích cực
+ Tỷ lệ tiền mặt trên TPTTT giảm từ mức 19,3% năm 2006 xuống mức 17,8%
năm 2007.
+ Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2007 xuống còn 22,6%
năm 2007 - giảm mức độ đô la hoá của nền kinh tế.
- Hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế
+ Trong hoạt động đầu tư tín dụng của các TCTD có những diễn biến tích cực,
các sản phẩm dịch vụ tín dụng đã được đa dạng hơn, nhiều lĩnh vực cho vay đầu
tư được mở rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều điều kiện thuận lợi
tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng, cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn, cho
vay chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn cũng
được mở rộng, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Bên
cạnh đó, việc cho vay tiêu dùng cũng được mở ra rất đa dạng đáp ứng đầy đủ
các nhu cầu của xã hội.
+ Tín dụng đầu tư vào thị trường chứng khoán được kiểm soát chặt chẽ và giảm
dần cả số tuyệt đối và tỷ lệ dư nợ qua các tháng, góp phần thúc đẩy thị trường
chứng khoán phát triển ổn định. Tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản cũng
được theo dõi, giám sát chặt chẽ nhằm góp phần hạn chế những tiềm ẩn rủi ro
trong hoạt động ngân hàng và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển bến
vững.
+ Chất lượng tín dụng được cải thiện: Tỷ lệ nợ xấu tháng 9/2006 là 2,2%, có xu
hướng giảm so với tỷ lệ nợ xấu tháng 12/2006 (2,64%), trong đó tỷ lệ nợ xấu
của các nhóm TCTD đều giảm.

• Giai đoạn 2008:


-Thành công bước đầu trong kiềm chế lạm phát :
Trong hai tháng 3 và 4 chúng ta đã hạn chế được phần nào sự gia tăng của CPI so
với mức 3,56% của tháng 2. Cụ thể, tháng 3 CPI đã giảm xuống còn 2,99%, đến
tháng 4 tiếp tục giảm xuống còn 2,2% . Thế nhưng, như đã biết, đến tháng 5 thì
CPI lại tiếp tục tăng vọt lên 3,91 % so với tháng 4, khiến cho CPI của cả 5 tháng
đầu năm đã tăng đến mức 15,96% so với cuối năm 2007. Thế nhưng đến tháng 6
vừa qua, do những nỗ lực phấn đấu kiềm chế lạm phát, CPI đã giảm mạnh, chỉ
còn khoảng 2,14%, thấp hơn nhiều so với chỉ số của tháng 5 là 3,91% và là con
số thấp nhất từ đầu năm đến nay.

- Tăng niềm tin về sự đúng đắn trong chính sách tiền tệ


Mức lãi suất huy động tiền VND phổ biến từ 17-17,5%/năm (khối các ngân hàng
thương mại nhà nước) và 17,5-18%/năm (khối các ngân hàng thương mại cổ
phần). Và hầu hết các ngân hàng thương mại đã điều chỉnh lãi suất cho vay về
sát mức tối đa 21%/năm và đã ngừng thu tất cả mọi loại phí.

- Có sự cải thiện dần các chỉ số lạm phát và thâm hụt thương mại, và do đó mối
lo về cuộc khủng hoảng tiền tệ đã dịu đi.

Từ tháng 6, 7/2008 trở lại đây, tốc độ tăng CPI trên thị trường trong nước đã
chững lại khá rõ rệt dù chưa thật vững chắc. Chỉ số CPI cả nước trong tháng
8/2008 còn 1,56%. Thanh toán quốc tế vẫn được duy trì ổn định, sự căng thẳng
thâm hụt trong cán cân thanh toán trong tháng 4 và 5/2008 đang dần đ ược cải
thiện, nguy cơ về một sự suy giảm mạnh thị trường tiền tệ đã dịu đi, tuy rằng áp
lực do tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, trong khi lãi suất huy đ ộng và cho
vay không thể giảm sâu nhanh được. Thị trường nội tệ và ngoại tệ đã có s ự ổn
định trở lại sau cú sốc tỷ giá và thiếu tính thanh khoản trên thị tr ường trong quý
II/2008...

-Điều hành linh hoạt công cụ chính sách tiền tệ : NHNN đã áp dụng nhiều công
cụ chính sách tiền tệ để chặn lạm phát bao gồm: Tăng tỷ lệ bắt buộc; phát hành
tín phiếu; tăng lãi suất; nới lỏng biên độ tỷ giá để VNĐ tăng giá so với USD...
Các công cụ này triển khai nhằm hút tiền từ lưu thông nhưng vẫn đảm bảo tính
thanh khoản cho nền kinh tế và thị trường, điều hành linh hoạt tỷ giá theo tín
hiệu thị trường. Đồng thời, NHNN đã tăng cường công tác thanh tra, giám sát
hoạt động của thị trường ngoại hối và của các tổ chức tín dụng, hạn chế tăng
trưởng tín dụng quá nóng có thể gây mất an toàn hệ thống của các tổ chức tín
dụng.

Sau khi áp dụng chính sách thắt chặt, NHNN đã từng bước nới lỏng chính sách
tiền tệ, mũi tên mang nhiều mục đích này nhằm kịp thời điều chỉnh giảm lãi suất
cơ bản, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nâng lãi suất trả cho tiền gửi dự trữ bắt buộc để
tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho vay.

-Cơ bản hoàn thành nhiệm vụ được giao, bảo đảm an toàn cho nền kinh tế.
Qua một năm đầy sóng gió nhưng hoạt động của hệ thống Ngân hàng đã góp
phần quan trọng kiềm chế lạm phát, hạn chế nhập siêu, duy trì tăng trưởng kinh
tế. Thị trường tiền tệ giữ được bình ổn. Lãi suất, tỷ giá biến động ở mức hợp
lý. Khả năng thanh khoản của các tổ chức tín dụng được đảm bảo. Tin dụng
tăng trưởng ở mức phù hợp, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho tăng trưởng kinh
tế. Hoạt động của các tổ chức tín dụng vẫn đảm bảo an toàn và có bước phát
triển.

• Giai đoạn 2009-nay:

Đóng góp lớn nhất của chính sách tiền tệ vào sự ổn định và phát triển của đất
nước là tiếp tục giữ ổn định thị trường tiền tệ, giảm các chi phí vốn cho doanh
nghiệp và cung ứng kịp thời các nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu đầu tư phát
triển của đất nước trong phạm vi an toàn tín dụng cho phép; từng bước khắc
phục khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới; củng cố niềm
tin của nhà đầu tư và của nhân dân đối với hệ thống ngân hàng và các giải pháp
kích cầu của Chính phủ.

Bên cạnh đó, các công cụ chính sách tiền tệ ngày càng đa dạng, đồng bộ được
NHNN điều hành ngày càng linh hoạt, phù hợp cơ chế và bám sát các tín hiệu thị
trường cũng như xu thế vận động chung của chính sách tiền tệ thế giới.

NHNN điều hành chính sách tiền tệ nới lỏng một cách thận trọng, tạo điều
kiện cho doanh nghiệp và hộ sản xuất tiếp cận vốn vay với lãi suất thấp (4%-
6,5%/năm sau khi được hỗ trợ lãi suất) để sản xuất-kinh doanh trong điều kiện
nền kinh tế suy giảm.Việc tăng vốn cho mở rộng đầu tư phát triển sản xuất-
kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu là rất cần thiết nhưng đây cũng là nhân tố tác
động làm cho tăng trưởng tín dụng ở mức cao (9 tháng qua là 29,3%).

Việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các TCTD ở thời điểm
này sẽ giúp các TCTD tăng khả năng huy động vốn và thanh toán cũng như giảm
lãi suất cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và hộ sản xuất có
thêm nguồn cung từ nguồn vốn vay ngân hàng nhằm thúc đẩy đầu tư, sản xuất,
kinh doanh phát triển.

-Cho đến nay, một vài bất cập trong cơ chế huy động vốn đã được cơ quan quản
lý điều chỉnh, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có thêm nguồn vốn cho vay,
giảm áp lực phải tăng huy động vốn của các ngân hàng thương mại, các ngân
hàng thương mại có cơ sở để giảm lãi suất huy động và cho vay.

Để tiếp tục hỗ trợ các ngân hàng thương mại giảm mặt bằng lãi suất, từ nay
đến cuối năm, NHNN sẽ tiếp tục chủ động điều hành linh hoạt chính sách tiền
tệ: mở rộng hoạt động của thị trường mở, bổ sung thêm kỳ hạn giao dịch, giảm
nhẹ lãi suất giao dịch thị trường mở; lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu tiếp tục
ổn định ở mức thấp

2. Những hạn chế:

• Giai đoạn 2007:


Thách thức lớn nhất mà điều hành CSTT năm 2007 phải đối mặt, đó là dòng vốn
đầu tư nước ngoài vào nhiều. Tình hình này đã có tác động làm tăng tổng phương
tiện thanh toán của nền kinh tế ( tăng M2); làm tăng cung ngoại tệ, gây sức ép
làm VND lên giá; dự trữ vượt của hệ thống ngân hàng tăng mạnh - là một nhân
tố thúc đẩy tín dụng tăng nhanh; dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) có
tác động thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển mạnh hơn, và một lượng
vốn nhất định cuả dân cư cũng như từ hệ thống ngân hàng được đầu tư trên thị
trường chứng khoán, qua đó đã làm tăng dư nợ cho vay nền kinh tế; cùng với
việc gia tăng mạnh dòng vốn đầu tư nước ngoài là sự tăng giá khó lường mang
tính toàn cầu của một một số mặt hàng, như giá dầu thô, giá lương thực, bên
cạnh đó là hạn hán lũ lụt, dịch bệnh gia cầm trong nước đã có tác động mạnh
đến mức mức giá tiêu dùng nói chung. Trong bối cảnh trên, CSTT phải cùng một
lúc đạt hai mục tiêu là vừa phải hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế đạt 8,5%,
vừa phải kiềm chế lạm phát dưới mức tăng trưởng là cực kỳ khó khăn. Giải
pháp ổn định lãi suất và tỷ giá danh nghĩa hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế
và ổn định thị trường tiền tệ không để xẩy ra sự dịch chuyển dòng vốn, nhưng
lại rất khó khăn để kiểm soát khối lượng tiền trong nền kinh tế và kiềm chế
lạm phát.Chính vì vậy, NHNN đã gặp khó khăn trong việc kiểm soát TPTTT, tín
dụng.
Bên cạnh đó, việc Việt Nam gia nhập WTO tạo cơ hội thuận lợi cho hệ thống
ngân hàng Việt Nam phát triển, qui mô các NHTM được mở rộng, các doanh
nghiệp cũng có nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh đã
gây sức ép mở rộng tín dụng tăng quá nhanh của các NHTM, gây tiềm ẩn rủi ro.

• Giai đoạn 2008:


-Thị trường tiền tệ còn diễn biến phức tạp, thị trường chứng khoán chưa ổn
định; giá cả tiếp tục tăng ở mức cao.

-Bên cạnh kết quả đạt được, điểm hạn chế của chính sách tiền tệ trong năm
2008 là ở thị trường ngoại hối .Theo hệ thống tỷ giá hối đoái ít biến động hiện
nay, nhiều lúc khoảng cách giữ tỷ giá hối đoái chính thức và tỷ giá hối đoái trên
thị trường phi chính thức đã dao động và bị nới rộng ra.

-Giới hạn về chủng loại và khối lượng các giấy tờ có giá được giao dịch trên thị
trường tiền tệ, thiếu hệ thống môi giới minh bạch, thiếu luật điều chỉnh, trong
khi sự thống trị của đồng tiền quốc gia bị giới hạn vì đồng USD chiếm phần lớn
trong lưu lượng tiền tệ trên thị trường... là những căng thẳng mà NHNN đang
gặp phải trong việc điều hành chính sách tiền tệ một cách hiệu quả.

-Thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản sụt giảm thị trường chứng
khoán Việt Nam có kết quả tồi tệ nhất tại châu Á. Chỉ số VN-Index tính tới giữa
tháng 12 đã giảm gần 68% so với đầu năm
Tóm lại,cuối năm 2008, kinh tế thế giới vẫn trên đà suy thoái gây ảnh hưởng
đến nền kinh tế Việt Nam. Đó cũng chính là thách thức cho chính sách tiền tệ
năm 2009

• Giai đoạn 2009:

Cơ chế hỗ trợ lãi suất có một số quy định chưa phù hợp với thực tế và trong
những tháng cuối năm 2009, một số biểu hiện mặt chưa tích cực của hỗ trợ lãi
suất đã bộc lộ.

Cụ thể như cơ chế cho vay hỗ trợ lãi suất đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn kết quả đạt thấp là do có sự trùng lắp về đối tượng hỗ trợ lãi suất, thủ tục
cho vay chặt chẽ và việc xử lý các vướng mắc của các bộ, ngành còn chậm.

Bên cạnh đó, việc triển khai cơ chế hỗ trợ lãi suất trong ngắn hạn, trên phạm
vi cả nước, đối tượng thụ hưởng rộng, gây khó khăn cho công tác thanh tra, giám
sát của các bộ, ngành. Không những thế, việc làm này cũng phát sinh khối lượng
lớn công việc và chi phí đối với ngân hàng thương mại.

Lãi suất cho vay hỗ trợ lãi suất ở mức tương đương lãi suất cho vay bằng USD
và thấp hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn hiện nay đã tác động làm tăng trưởng tín
dụng ở mức cao, gây sức ép tăng lãi suất và tỷ giá, có thể phát sinh các hiện
tượng lợi dụng cơ chế để trục lợi.

Mặt khác, đối tượng thụ hưởng là doanh nghiệp, hộ sản xuất thuộc nhiều lĩnh
vực, ngành kinh tế, nếu kéo dài sẽ phát sinh tâm lý ỷ lại, giá cả và lợi nhuận sản
phẩm không phản ánh đúng năng suất, hiệu quả của hoạt động sản xuất-kinh
doanh và sẽ ảnh hưởng lớn đến tính cạnh tranh và phát triển bền vững.
Mục tiêu tăng trưởng và kiềm chế lạm phát là hai mục tiêu phải được thực hiện
song hành về lâu dài. Tuy nhiên, trong ngắn hạn và đặc biệt trong bối cảnh nền
kinh tế còn bị đe doạ bởi những hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính, hai
mục tiêu này có khả năng xung đột nhau vì kích thích tăng trưởng là phải tăng
cung tiền và dễ đưa đến tỉ lệ lạm phát cao. Và ngược lại, để kiềm chế lạm phát,
cung tiền phải được kiểm soát chặt chẽ đưa đến sự suy giảm mức tăng trưởng
kinh tế.

Hiện nay thanh khoản của hệ thống Ngân hàng và nền kinh tế, lãi suất có vấn đề
trong khi các biện pháp chưa đạt hiệu quả cao. do hệ thống NHTM nước ta chưa
đồng đều, chỉ có vài ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán, có chênh
lệch lớn về quy mô, có ngân hàng tổng tài sản gần 500.000 tỷ đồng, một số ngân
hàng quy mô nhỏ, tổng tài sản chỉ vài ngàn tỷ đồng, nhưng chịu sự chi phối và
điều chỉnh chung bởi một hệ thống văn bản pháp luật.

III. Những vấn đề đặt ra trong việc điều hành CSTT ở VN:
1. Giai đoạn: trong năm 2007- đầu 2008

Từ cuối năm 2006 đến giữa đầu năm 2007, nền kinh tế VN nổi lên với nhiều sự
kiện, chỉ tiêu đầy hứa hẹn. Khi VN chính thức là thành viên của WTO, lượng
vốn đầu tư nước ngoài và kiều hối vào VN tăng đột biến (năm 2007 đã tới 20 t ỉ
USD). 2007 là năm ảm đạm trong nề Kinh tế Mĩ khi mà đồng đô la xuống giá
nghiêm trọng. Sự suy thoái của nền kinh tế lớn nhất thế giới này đã khiến cho
nhiều nền kinh tế khác trên thế giới chịu ảnh hưởng, trong đó có Việt Nam.

Đồng tiền mất giá là ấn tượng đáng nhớ nhất trong năm 2007 và đầu năm 2008.

Về nguyên tắc, khi luồng vốn nước ngoài đầu tư vào VN tăng, VN Đồng (VND)
sẽ lên giá để tạo ra điểm cân bằng.Tuy nhiên NHNN đã can thiệp thị trường
ngoại hối nhằm giảm áp lực tăng giá VND.

Tuy nhiên, mặt trái của chính sách thị trường mở là NHNN đã phải cung ra số
lượng khổng lồ tiền đồng để mua hết số đô la này , Đồng đô la mất giá, đồng
ghĩa với việc tiền Việt lên giá. Người ta lại dồn dập bán đô la đ ể thu tiền Vi ệt.
Cung tiền đồng lại phải tăng thêm để giữ tỉ giá hối đoái (VND/USD) khỏi xuống
quá thấp, làm cho lượng cung tiền của VN từ năm 2005 đến hết tháng 6/2007
tăng tổng cộng 110%. Đây là mức tăng rất lớn, là tác nhân quan trọng đ ối với
lạm phát. Con số lạm phát lên đến 12.63% so với chỉ số tăng GDP là 8.5% - nghĩa
là về thực chất chúng ta tăng trưởng âm.

Chính sách tỷ giá hiện nay đã ảnh hưởng hạn chế nhất định đối với nền kinh tế.
Mặc dù ngay từ đầu năm 2007, NHNN bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ giá
từ 0,25% lên 0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên đ ộ lên 0,75%,
nhưng với biên độ dao động chưa đáng kể, chưa đủ thích ứng với môi trường
bên ngoài. Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của
năm 2006 để hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD.

2. Giai đoạn năm 2008:

Là năm có nhiều khó khăn và thử thách đối với hoạt động của ngành Ngân
hàng lạm phát tăng cao và không có dấu hiệu dừng và chia làm 2 giai đoạn:

a. Giai đoạn từ đầu năm đến tháng 6: NHNN Việt Nam quyết định nâng
dự trữ bắt buộc đối với các NHTM và qui định các NH mua trái phiếu NHNN.
Kèm với đó là hạn chế tăng trưởng tín dụng nóng bằng việc khống chế ở
mức 30%. Ngoài ra, còn hàng loạt chính sách để hỗ trợ thị trường chứng
khoán, hạn chế cho vay đối với bất động sản.

- Hai quý đầu của năm 2008, cùng với những bất ổn trên thị trường tài chính thế
giới, tình hình kinh tế trong nước cũng diễn biến hết sức phức tạp. Giá dầu thô
tăng cao, cộng với sự dồn tích khá lâu về lượng tiền thừa đã làm cho thị trường
hàng hoá Việt Nam có hiện tượng “bốc hoả” về giá. So với tháng 12 năm 2007,
giá tiêu dùng tăng 17,18%, mức cao nhất so với nhiều năm trở lại đây. Đ ến cuối
tháng 6, chỉ số lạm phát tuy có tăng chậm lại nhưng vẫn ở mức cao nhất so v ới
tháng 6 của nhiều năm trước (2,14%).

+Trước tình hình đó, thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ là mục tiêu
chủ yếu của NHNN, với ba công cụ: lãi suất, dự trữ bắt buộc và thị trường mở
được sử dụng đồng thời cùng với những quy định siết chặt thị trường chứng
khoán, thị trường bất động sản… đã tác động mạnh đến thị trường.
+Tiền tệ thắt chặt lập tức bằng cách ngân hàng Trung Ương tung ra hơn
20.000 tỉ dồng tín phiếu buộc các ngân hàng thương mại phải mua vào.
+NHNN liên tục tăng LSCB trong 6 tháng đầu năm, đỉnh điểm là vào tháng
6/2008 lên đến 14%.

Ngày thực
Lãi suất Quyết định
hiện
1317/QĐ-NHNN ngày
14%/năm 11/06/2008
10/6/2008
1099/QĐ-NHNN ngày
12%/năm 19/05/2008
16/5/2008
305/QĐ-NHNN ngày
8.75%/năm 01/02/2008
30/1/2008

+ Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 1%.


Trong điều kiện tiền quá nhiều trong lưu thông thì việc sử dụng các công cụ
chính sách tiền tệ để giảm lượng tiền thừa là hoàn toàn đúng xét cả về lý thuyết
lẫn thực tiễn. Sự can thiệp quyết liệt của NHNN (NHNN) cho thấy được chính
kiến cũng như sự quyết tâm của toàn hệ thống ngân hàng trong việc kiềm chế
lạm phát. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn đứng và đẩy lùi từ đ ỉnh đi ểm
3,91%/tháng (tương đương 25,2%/năm) trong tháng 5 xuống các mức thấp hơn
trong quý và thậm chí âm trong các tháng cuối năm. Tỷ lệ lạm phát cả năm 2008
chỉ còn là 19,89%.Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng thực sự các NHTM đã phải
trải qua những tháng ngày (đặc biệt là trong tháng 2, tháng 3) cực kỳ khó khăn về
thanh khoản và luôn nằm trong tình trạng “nguy cơ”. Chiến dịch lãi suất của các
ngân hàng giai đoạn này đã tạo nên một dấu ấn khá sâu đậm. Có l ẽ mãi sau này
người ta cũng không thể quên được cảnh tượng “tháo chạy” của khách hàng khỏi
ngân hàng có lãi suất thấp và dòng người xếp hàng bất chấp thời gian tr ước
những ngân hàng có lãi suất cao để gửi tiền vào. Chỉ trong khoảng thời gian vài
ngày, có ngân hàng đẩy lãi suất tiền gửi từ 15%/năm lên 19%/năm, lãi suất cho
vay được đẩy lên đúng với lãi suất tối đa 21%/năm ở hầu hết các ngân hàng . Lãi
suất cho vay rất cao đồng nghĩa với các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó nghiệp sẽ
đẩy có khả năng vay vốn kinh doanh. Giá cả cũng chưa chắc xuống thấp được vì
dù đồng tiền tăng giá vì lượng tiền lưu thông giảm xuống nhưng chi phí vốn của
các doanh giá lên (lạm phát chi phí đẩy).

b. Giai đoạn từ tháng 6 đến cuối năm 2008:

- Chính phủ đã có chủ trương giảm tăng trưởng, tập trung chống lạm phát.

- Sau khi đã thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng
bước nới lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức quan
trọng. LSCB đã hạ dần từ đỉnh 14% xuống 13% (từ 21/10/08), 12% (từ 05/11/08)
và liên tiếp được điều chỉnh tới 3 lần trong vòng 1 tháng cuối năm 2008 (11% từ
21/11/08, 10% từ 05/12/08, 8,5% từ 22/12/08). Cùng với LSCB, LSTCK, LSTCV
cũng được điều chỉnh giảm; các NHTM được bán tín phiếu bắt buộc trước hạn;
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được nới lỏng dần đi kèm với việc điều chỉnh lãi suất
DTBB. Các công cụ trên đã tác động mạnh tới thị trường, làm tăng dần mức cung
tiền cho nền kinh tế. Tăng trưởng tín dụng 2008 đạt ~ 23%. Tăng tr ưởng tín
dụng đã góp phần chặn đà suy giảm, ổn định kinh tế vĩ mô.

2.Giai đoạn trong năm 2009 :

- Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ đã phải đối mặt với nhiều thách
thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi
của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế.

- Lạm phát cao năm 2008, cùng với sự đảo chiều của vốn đầu tư nước ngoài và
thâm hụt mạnh cán cân thương mại (12,783 tỷ USD) đã có tác động mạnh đến
tâm lý các nhà đầu tư trên thị trường ngoại hối, gây những biến động khó lường
đến tỷ giá.

- NHNN đã thực thi CSTT một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải
pháp khác để giữ bình ổn thị trường.

- Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn, tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2009, thị
trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi.

- NHNN mở rộng biên độ tỷ giá mua bán USD/VND từ +/-3% lên +/-5%.

- Lãi suất cho vay ngoại tệ giảm từ mức 6-6,5%/năm xuống 3%/năm kê từ ngày
01/6/2009 không quá lãi suất huy động giảm xuống mức không quá 1,5%/năm.

- Bán nguồn ngoại tệ thu được phát hành trái phiếu Chính phủ cho NHNN ; đề
nghị một số doanh nghiệp nhập khẩu lớn chuyển từ mua ngoại tệ sang vay bằng
ngoại tệ.

- Áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ c ủa các DN và
ngưòi dân như đẩy m ạnh công tác tuyên truyền và công bố công khai, rộng rãi
các thông tin về tình hình ng ại hối, tỷ giá .yêu cầu các NHTM nhà nuớc giảm lãi
suất cho vay và huy động bằng ngoại tệ ( lãi suất cho vay giảm t ừ 6 – 6.5%/năm
xuống không quá 1.5%/năm kể từ ngày 01/06/2009).

- Thêm vào đó, thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 mức thâm hụt ngân sách ở
mức 6,5% GDP buộc ngân sách phải vay nợ nhiều, qua đó mà gây áp lực giảm
giá VND.

IV. Nguyên nhân:


Mặc dù đạt được những kết quả nhất định trong việc điều hành CSTT của
NHNN Việt Nam, song bên cạnh đó vẫn tồn tại một số bất cập trong công tác
quản lý, điều hành CSTT. Chính vì vậy hiệu quả của CSTT đạt được là chưa
cao. Có thể đưa ra một vài nguyên nhân sau:

• Về việc thực hiện các công cụ điều tiết CSTT: nghiệp vụ thị trường mở
còn chưa được sử dụng rộng rãi, một số công cụ về phòng ngừa bảo
hiểm rủi ro tỷ giá cũng chưa được các doanh nghiệp sử dụng nhiều

• Tính độc lập, trách nhiệm của NHNN chưa thích ứng với mức độ hội
nhập tài chính thế giới và phù hợp thể chế chính trị ở nước ta. Kỹ thuật
thu thập, xử lý thông tin chưa đáp ứng được với tình hình biến động của
nền kinh tế do đó việc đưa ra quyết định điều hành CSTT đôi lúc còn
chậm. Năng lực dự báo yếu kém, lúng túng, bị động, giải pháp chưa sát
với yêu cầu thực tế.
• Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đôi khi chưa thống nhất dẫn đến
những bất lợi cho nền kinh tế (ví dụ: khi lãi suất cho vay tăng lên trong
điều kiện lạm phát tăng cao hầu hết các doanh nghiệp không chịu được lãi
suất cao thì Nhà nước cần có chính sách tài khóa, tức là giảm thuế).

• Công tác kiểm tra giám sát hoạt động NHNN còn lỏng lẻo, thiếu rõ ràng.

• Cơ sở hành lang pháp lý còn thiếu tính đồng bộ.

• Thói quen thanh toán qua ngân hàng còn chưa phổ biến, điều này làm tăng
lượng tiền cung ứng cho thị trường là nguyên nhân dẫn đến lạm phát.

• Ngoài ra, thị trường tài chính tài chính ở Việt Nam vẫn chưa phát triển, hệ
thống ngân hàng còn thiếu môi trường cạnh tranh lành mạnh.

Chương III:

CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH


CSTT CỦA NHNN VIỆT NAM
Thực tế cho thấy, điều quan trọng và đóng góp lớn nhất của chính sách
tiền tệ vào sự ổn định và phát triển của đất nước là tiếp tục giữ ổn định thị
trường tiền tệ, giảm các chi phí vốn cho doanh nghiệp và cung ứng kịp thời các
nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của đất nước trong phạm
vi an toàn tín dụng cho phép. Yêu cầu này cần được tiếp tục trong thời gian tới,
với việc sử dụng đồng bộ hơn các công cụ của chính sách tiền tệ, trong đó có
chính sách tỷ giá và lãi suất theo hướng thị trường và mềm hơn…

1. Cung ứng tiền hợp lý:

-Hướng dòng vốn cho khu vực sản suất thực, giảm bớt đầu cơ quá mức.
Khi dòng vốn ngân hàng đảm bảo tập trung vốn cho sản xuất sẽ có sự chuyển
dịch vốn theo ngành, lĩnh vực, địa bàn, kỳ hạn và khách hàng cho vay; h ạn ch ế
cho vay các nhu cầu phi sản xuất. Đặc biệt khi dòng vốn được định hướng đúng
đắn, tình trạng bong bóng (chứng khoán, nhà đất,... vàng) sẽ giảm và qua đó s ẽ
không gây áp lực lên khu vực ngân hàng, lãi suất sẽ ổn định. Chính phủ cần giảm
bớt (hoặc kiểm soát chặt) tình trạng đầu cơ thái quá trong nền kinh tế (như sử
dụng các công cụ đòn bẩy tài chính quá mức trên TTCK, tiền tệ; các loại kinh
doanh quá mạo hiểm không cần thiết cho khu vực sản xuất vật chất,...).
-Khi Chính phủ kiên quyết giảm thiểu tình trạng đầu cơ quá mức thì chắc chắn
tình trạng dễ tổn thương của nền kinh tế nói chung và khu vực tài chính ngân
hàng nói riêng sẽ giảm. Khi đó thị trường tiền tệ và ngoại hối (mà cụ thể là lãi
suất và tỷ giá) sẽ ổn định.
-Tiếp tục nâng cao quản trị rủi ro tại các NHTM so với vốn ngày càng tăng. Theo
định hướng của NHNN, đến năm 2010, các NHTMCP VN phải đạt 3.000 tỷ
VND. Cùng với mở rộng mạng lưới hoạt động, đưa thêm công cụ mới vào hoạt
động trong thời gian qua, các NHTM đang lớn lên nhưng vấn đề quản lý lại chưa
theo kịp (nhất là quản lý tài sản nợ, tài sản có và trong đó có quản lý rủi ro lãi
suất).

2. Xây dựng hệ thống thanh toán điện tử:

- Đẩy nhanh tiến độ hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, đặc biệt là hiện đại hóa
công nghệ thanh toán, góp phần mơ rộng thanh toán không dùng tiền mặt và t ạo
ra các tiện ích hiện đại cho nền kinh tế, để tạo tiền đề tốt cho người dân mở tài
khoản và giao dịch qua ngân hàng, giảm bớt lượng thanh toán bằng tiền mặt và
ngân phiếu thanh toán.
- Xây dựng đề án thí điểm trả lương qua tài khoản cho cán bộ công nhân viên
chức thuộc một số cơ quan bộ, ngành tại Hà Nội và việc trả tiền các khoản dịch
vụ thường xuyên như điện sinh hoạt, điện thoại, nước...
- Nghiên cứu triển khai từng bước có hiệu quả việc sư dụng thẻ tín dụng, thẻ
thanh toán, cùng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt phải phù hợp
với khu vực và quốc tế.
-Cần có các biện pháp khuyến khích phù hợp nhằm tạo ra nếp thói quen mới
trong tâm lý của các cá nhân, các doanh nghiệp để giúp việc thực hiện CSTT
được hiệu quả hơn. Ví dụ: thói quen thanh toán qua ngân hàng của các tổ chức
kinh doanh, thói quen sử dụng hoạt động thị trường mở của các tổ chức tín
dụng…
3. Các giải pháp hỗ trợ cho việc thực hiện chính sách tiền tệ:
a. Phát triển thị trường tài chính:
- Cần phải phát hành cổ phiếu NHTM cổ phần và các công ty tài chính cổ phần,
tăng vốn điều lệ, và phát triển loại hình DN này trong nền kinh tế.
- Tiếp tục đẩy mạnh quá trình hoàn thiện, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng để
đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh sôi động.

b. Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng về thanh toán và các dịch vụ ngân
hàng khác
- Đối với NHNN: Triển khai nhanh và có hiệu quả dự án hiện đại hóa công nghệ
ngân hàng do WB tài trợ tập trung và hệ thống mã hóa điện tư, thanh toán bù
trừ...
- Các NHTM và TCTD: Cũng là triển khai các nội dung của dự án hiện đại hóa
do WB tài trợ tập trung là trong quan hệ giao dịch với khách hàng, nghiệp vụ
ngân hàng tại nhà (Banking home), tốc độ xư lý chứng từ, giao dịch tại quầy...

c. Mở rộng các quan hệ đối ngoại trong lĩnh vực ngân hàng, về vay vốn,
đầu tư, thanh toán, đại lý, đào tạo, chuyển giao công nghệ...
- Đối với NHNN: Nâng cao trình độ xây dựng chính sách, trình độ thanh tra, quản
lý... Tốt nhất là tuyển chọn từ cán bộ đã kinh qua thực tiễn của các NHTM. Duy
trì và phát triển mối quan hệ với các cổ chức tài chính tiền tệ quốc tế: WB, IMF,
ADB... và Ngân hàng Trung ương các nước.
- Đối với NHTM và các TCTD: Duy trì và đảm bảo uy tín đối với các ngân hàng
đại lý, hợp tác, liên doanh đồng thời đa dạng hóa các quan hệ hợp hợp tác đào
tạo cán bộ có trình độ quốc tế.

4. Công tác thanh tra kiểm soát nội bộ với hoạt động thanh tra nhà nước
đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động ngân hàng:
Cần có sự phối hợp chặt chẽ, những chức năng vi phạm và chức năng rõ ràng,
đồng thời nâng cao hiệu quả của các tổ chức:
a. Thanh tra NHNN với thanh tra các chi nhánh NHNN các tỉnh, thành phố
b. Kiểm soát nội bộ của các TCTD
c. Thanh tra nhà nước ở các cấp
d. Kiểm toán quốc tế, độc lập, nhà nước
e. Các cơ quan hành pháp khác: tòa án, công an, viện kiểm sát...
Những giải pháp cụ thể là:
- Ban hành hệ thống cơ chế, quy chế mới phù hợp với nội dung quy định của
Luật NHNN, Luật các TCTD, tạo hành lang bảo đảm an toàn cho hoạt động của
các tổ chức tín dụng.
- Tiến hành phân tích đánh giá chất lượng hoạt động của các NHTMCP, tiến
hành củng cố và sắp xếp lại các NHTMCP hoạt động yếu kém
- Phối hợp với Bộ tài chính sớm ban hành các cơ chế về trích lập quỹ dự phòng
rủi ro để xử lý khoản nợ tổn thất của NHTM, tránh tình trạng để nợ khoanh, nợ
tồn đọng lâu ngày, gây nguy cơ mất an toàn của hệ thống ngân hàng.
- Tăng cường công tác thanh tra kiểm soát của NHNN và kiểm soát nội bộ của
bản thân tổ chức tín dụng để phát hiện và xư lý kịp thời các vi phạm quy chế,
chế độ trong hoạt động ngân hàng.

5. Điều kiện để thực thi chính sách tiền tệ có hiệu quả:


a. Hoàn thiện môi trường pháp lý:

-Luật NHNN và Luật các TCTD: cần được cải cách phù hợp với tình hình mới
khi thị trường tài chính VN đã phát triển, hội nhập sâu rộng hơn
- Các văn bản Luật khác có liên quan trực tiếp: Luật đất đai, Luật dân sự, Luật
doanh nghiệp, Luật thương mại, Luật đầu tư nước ngoài... xem xét chỉnh sửa
những bất hợp lý, bảo đảm phù hợp với thực tiễn và hiệu lực pháp lý của luật.
- Thể lệ, chế độ cụ thể của các TCTD cần được chỉnh sưa cho phù hợp với Luật
các TCTD, đảm bảo đồng bộ các luật khác có liên quan: Luật dân sự, Luật
thương mại, Luật NSNN, Luật doanh nghiệp...
- Cần hoàn thiện hành lang pháp lý về hệ thống ngân hàng để cơ chế thực thi
CSTT được nghiêm minh và hiệu quả hơn.
b. Đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ
- Nguyên tắc chung: không chỉ hiểu và có chuyên môn nghiệp vụ về mặt tài
chính - ngân hàng mà còn am hiểu về thương mại, kinh doanh, pháp lý, ngoại
ngữ, tin học... nói chung. Kết hợp đào tạo trong nước và hợp tác quốc tế, đào tạo
và đào tạo lại.
- Có chiến lược đào tạo cán bộ cụ thể của cả hệ thống NHNN, hệ thống các
TCTD..

c. Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ:

Đẩy mạnh việc đ ổi mới điều hành công cụ nghiệp vụ thị trường mở xem
thị trường mở là công cụ được sử dụng rộng rãi nhằm duy trì lãi suất chủ đạo
“lãi suất liên ngân hàng định hướng”; mở rộng việc kết nạp t hành viên tham gia
trên thị trường mở; đa dạng hoá hàng hoá giao dịch trên thị trường mở nhằm đáp
ứng thanh khoản cho các tổ chức tín dụng. Tạo điều kiện và thúc đẩy sự phát
triển của thị trường tiền tệ liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc
và thị trường mua bán lại giấy tờ có giá giữa các tổ chức tín dụng với nhau và
giữa tổ chức tín dụng với khách hàng.

Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến cho các doanh nghiệp áp dụng các công
cụ phòng ngừa, bảo hiểm rủi ro tỷ giá.

d. Nâng cao tính độc lập, trách nhiệm của NHNN.


Đây là một trong các điều kiện tiên quyết nhằm nâng cao hiệu quả điều hành
chính sách tiền tệ của NHNN. Việc nâng cao tính độc lập, trách nhiệm cho
NHNN phải thích ứng với mức độ hội nhập tài chính thế giới và phù hợp thể
chế chính trị ở nước ta. Theo đó, cần sửa đổi, bổ sung Luật NHNN theo hướng
trao thêm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho NHNN trong xây dựng dự án
chính sách tiền tệ; chủ động trong việc sắp xếp cơ cấu tổ chức và nhân sự; tự
chủ về tài chính trong bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ
cho đội ngũ cán bộ NHNN.

Năng lực kỹ thuật của NHNN cần được nâng cao đặc biệt là trong việc thu thập,
xử lý thông tin và ra quyết định điều hành CSTT.

e. Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường tiền tệ.

Tiếp tục tạo hàng hoá và phát triển nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ; mở rộng
thành viên tham gia thị trường; nâng cao vai trò điều tiết, hướng dẫn của NHNN
trên thị trường tiền tệ; hoàn thiện hành lang pháp lý tạo điều kiện cho thị trường
tiền tệ phát triển. Sự phát triển của thị trường tiền tệ sẽ là kênh dẫn có hiệu quả
trong cơ chế truyền tải các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế.

Thị trường tiền tệ và thị trường liên ngân hàng cần tiếp tục được củng cố và
phát triển để một mặt tạo ra tín hiệu cho việc hoạch định CSTT mặt khác là cơ
chế lan truyền tốt nhất để phát huy có hiệu quả các công cụ của CSTT.

f. Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài chính và một số
chính sách kinh tế vĩ mô khác:

Để nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ cần có sự phối hợp chặt
chẽ giữa chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác (chính sách
tài chính, chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài..). Trong điều kiện dòng
vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam nhiều như một số năm trước đây
(trong đó có dòng vốn ngắn hạn), nếu không kiểm soát tốt dòng vốn này, sẽ
ảnh hưởng đến việc chống lạm phát. Do đó, cần có sự phối hợp chặt giữa
chính sách tiền tệ với chính sách tài chính và chính sách thu hút vốn đầu tư
nước ngoài : đánh thuế hoặc yêu cầu ký quỹ đối với dòng vốn ngắn hạn vào
Việt Nam. Hiện nay trong bối cảnh kinh tế thế giới sụt giảm, thì việc điều
hành chính sách tiền tệ trong quan hệ phối hợp chính sách tài chính nhằm mục
tiêu góp phần ngăn chặn nguy cơ sụt giảm nền kinh tế trong nước, nhưng
đồng thời kiểm soát được lạm phát.

Mục Lục
Tính độc lập, trách nhiệm của NHNN chưa thích ứng với mức độ hội nhập tài
chính thế giới và phù hợp thể chế chính trị ở nước ta. Kỹ thuật thu thập, xử lý
thông tin chưa đáp ứng được với tình hình biến động của nền kinh tế do đó việc
đưa ra quyết định điều hành CSTT đôi lúc còn chậm. Năng lực dự báo yếu kém,
lúng túng, bị động, giải pháp chưa sát với yêu cầu thực tế....................................33

You might also like