Professional Documents
Culture Documents
- Tiêu thức chỉ có hai biểu hiện không trùng nhau trên một đơn vị tổng thể được gọi
là tiêu thức thay phiên. Thí dụ: tiêu thức giới tính chỉ có hai biểu hiện không trùng
nhau là nam và nữ được gọi là tiêu thức thay phiên. Loại tiêu thức này có đặc điểm
quan trọng là nếu một đơn vị tổng thể nào đó đã nhận biểu hiện này thì không nhận
biểu hiện kia. Đây là loại tiêu thức có nhiều ứng dụng trong thực tế.
• Chỉ tiêu thống kê: phản ánh đặc điểm của toàn bộ tổng thể trong điều kiện
thời gian và địa điểm cụ thể. Chỉ tiêu thống kê là tổng hợp biểu hiện mặt lượng của
nhiều đơn vị, hiện tượng cá biệt. Do đó, chỉ tiêu phản ánh những mối quan hệ chung,
đặc điểm của số lớn các đơn vị hoặc của tất cả các đơn vị tổng thể. Chỉ tiêu thống kê
bao gồm 2 mặt : khái niệm và mức độ của chỉ tiêu. Mặt khái niệm của chỉ tiêu bao
gồm các định nghĩa và giới hạn về thực thể, thời gian và không gian; Mức độ của chỉ
tiêu là các trị số với các đơn vị tính phù hợp.
Có hai loại chỉ tiêu thống kê: chỉ tiêu khối lượng : biểu hiện quy mô, khối lượng của
hiện tượng nghiên cứu và chỉ tiêu chất lượng : biểu hiện trình độ phổ biến và mối
quan hệ trong tổng thể.
- Là thang đo định danh nhưng giữa các biểu hiện của tiêu thức có quan hệ hơn
kém.
Thí dụ với tiêu thức tầng lớp xã hội, thang đo thứ bậc đơn giản nhất có 3 nấc:
"thượng lưu", "trung lưu", "hạ lưu", những loại này lần lượt được đánh số từ 1 đến 3; những
số này thể hiện trật tự của các tầng lớp xã hội nhưng nó không phản ánh được khoảng cách
giữa các con số. Nhưng cũng có thể dùng thang đo 9 nấc phức tạp hơn để đo bằng cách chia
nhỏ mỗi loại trên thành 3 loại: "Thượng lưu bậc cao - Thượng lưu - Thượng lưu bậc thấp" ...
Tóm lại, một tiêu thức có bao nhiêu biểu hiện phụ thuộc vào mức độ thay đổi mà chúng ta
hy vọng có thể tìm ra trong quá trình điều tra và mức độ chi tiết theo yêu cầu nghiên cứu.
Chú ý: trong một số trường hợp thang đo thứ bậc có thể kết hợp với thang đo định
danh để hiểu rõ được khái niệm hơn. Chẳng hạn, để đánh số các biểu hiện của tiêu thức tôn
giáo có thể dùng thang đo định danh (1- phật giáo, 2 - thiên chúa giáo, 3 - hồi giáo, 4 - Đạo
hin đu, 5 - Đạo cao đài...). Nhưng để biểu hiện hành vi tôn giáo thì có thể dùng thang đo thứ
bậc. Chẳng hạn, bạn có dự hoạt động tôn giáo không: 1- hàng ngày, 2- hàng tuần, 3- một vài
tuần trong một tháng, 4- hàng tháng, 5- một vài lần trong năm, 6- hàng năm, 7- không bao
giờ.
- Thường dùng để đo các tiêu thức thuộc tính mà các biểu hiện có quan hệ thứ tự
như đo thái độ đối với một hành vi nào đó (hoàn toàn đồng ý, đồng ý, chưa quyết định, hoàn
toàn không đồng ý) hoặc thứ tự chất lượng sản phẩm, huân chương, bậc thợ...
- Đặc điểm: sự chênh lệch giữa các biểu hiện của tiêu thức không nhất thiết phải
bằng nhau.
- Hạn chế: Chưa biết được khoảng cách giữa các số thự tự đó gần hay xa bao nhiêu
vì vậy không thực hiện được các phép tính cộng trừ nhân chia mà chỉ nói lên đặc trưng
chung của tổng thể một cách tương đối căn cứ trên sự giải thích "lớn hơn" hay "nhỏ hơn" mà
thôi.
• Thang đo khoảng:
- Là thang đo thứ bậc có các khoảng cách đều nhau nhưng không có điểm gốc là 0.
Thí dụ: Sau khi hỏi ý kiến của Ban giám khảo về việc xếp loại các đội trong cuộc
thi..., có thể tiếp tục hỏi thêm đội này hơn đội kia bao nhiêu điểm. Như vậy khoảng cách
giữa các thứ tự đã được lượng hoá và có thể giải thích được.
- Đặc điểm: Thang đo này có thể thực hiện các phép tính cộng, trừ, tính được các
tham số đặc trưng như trung bình, phương sai, tỷ lệ.
- Hạn chế: Là thang đo có khoảng cách hơn kém nhưng chưa có điểm gốc là số 0,
nên không so sánh được tỷ lệ giữa các trị số đo.
- Là thang đo khoảng với một điểm 0 tuyệt đối (điểm gốc) để có thể so sánh được tỷ
lệ giữa các trị số đo. Thí dụ; các đơn vị đo lường vật lý thông thường (kg, mét..), thu nhập,
tuổi, số con ...
- Đặc điểm: Thang đo này cho phép thực hiện được tất cả các phép tính với trị số đo.
Theo tuần tự, thang đo sau có chất lượng đo lường cao hơn thang đo trước, đồng thời
việc xây dựng thang đo cũng phức tạp hơn. Song không phải lúc nào cũng có thể sử dụng
được thang đo hoàn hảo mà phải tuỳ thuộc vào đặc điểm của hiện tượng và tiêu thức nghiên
cứu mà sử dụng thang đo cho thích hợp.
• Quan sát có kết cấu: việc quan sát được tiến hành dựa trên các tiêu thức được chuẩn
bị từ trước.
• Quan sát không có kết cấu: là quan sát một cách tự do và người quan sát ghi chép lại
tất cả những điều quan sát được.
• Nội dung: người điều tra tạo ra một tình huống gần giống với tình huống thực tế rồi
quan sát cách ứng xử của những người được điều tra
• Ưu điểm : cho phép ta xác định được hành động của người được quan sát.
6.2. Xác định phạm vi, đối tượng và đơn vị điều tra
6.3. Xác định nội dung điều tra và thiết lập phiếu điều tra
Xác định nội dung điều tra là việc trả lời câu hỏi “điều tra cái gì?”. Nội dung điều tra
là toàn bộ các đặc điểm cơ bản của từng đối tượng, từng đơn vị điều tra, mà ta cần thu được
thông tin. Trong thực tế, các đơn vị của hiện tượng nghiên cứu thường có rất nhiều đặc điểm
khác nhau. Tuy nhiên, không thể và cũng không cần thiết phải thu thập toàn bộ các tiêu thức
đó, mà chỉ cần những tiêu thức có liên quan đến mục đích nghiên cứu, phục vụ được cho
việc nghiên cứu . Vì vậy, bất kỳ cuộc điều tra nào cũng cần phải xác định rõ, cụ thể nội dung
điều tra.
Việc xác định nội dung điều tra, cần căn cứ vào các yếu tố sau:
6.4. Chọn thời điểm, thời kỳ và quyết định thời hạn điều tra.
Các hiện tượng nghiên cứu luôn thay đổi theo thời gian và không gian. Muốn thu
thập được chính xác các thông tin về chúng, cần có quy định thống nhất về thời điểm, thời
kỳ và thời hạn điều tra.
THỐNG KÊ TRONG 17 KINH DOANH
Chương 1 – Giới thiệu chung và thu thập dữ liệu
Thời điểm điều tra là mốc thời gian được quy định thống nhất mà cuộc điều tra phải
thu thập thông tin về hiện tượng tồn tại đúng thời điểm đó. Nếu cuộc điều tra được tiến hành
vào thời điểm sau đó, thì người trả lời phải hồi tưởng lại để “miêu tả trạng thái của hiện
tượng” vào đúng thời điểm điều tra.
Thời kỳ điều tra là khoảng thời gian (tuần, tháng, năm...) được quy định để thu thập số
liệu về lượng của hiện tượng được tích lũy trong cả thời ký đó.
Thời hạn điều tra là khoảng thời gian dành cho việc thực hiện nhiệm vụ thu thập số
liệu. Thời hạn dài hay ngắn phụ thuộc vào quy mô, tính phức tạp của hiện tượng nghiên cứu
và nội dung điều tra, vào khả năng, kinh nghiệm của điều tra viên. Nhìn chung, thời hạn điều
tra không nên quá dài, cách quá xa thời điểm điều tra vì có thể làm mất thông tin do người
trả lời không nhớ đầy đủ các sự kiện đã xảy ra.