You are on page 1of 107

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT


---------------  ---------------

MAI VĂN NGHĨA

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI VẤN ĐỀ


CÔNG BẰNG XÃ HỘI TẠI THỊ XÃ BÀ RỊA

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
---------------  ---------------

MAI VĂN NGHĨA

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI VẤN ĐỀ


CÔNG BẰNG XÃ HỘI TẠI THỊ XÃ BÀ RỊA

Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ


Mã số: 60.31.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


PGS.TS NGUYỄN VĂN LUÂN

TP. HỒ CHÍ MINH – 2010


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc
lập của tôi. Các tư liệu, tài liệu sử dụng trong luận văn là hoàn toàn trung thực
và có nguồn dẫn rõ ràng.

Tác giả

MAI VĂN NGHĨA


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CIEM Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương

CN Khu vực công nghiệp và xây dựng

DNNN Doanh nghiệp nhà nước

DV Khu vực dịch vụ và thương mại

GDP Tổng sản phẩm trong nước

GDTX-HN Giáo dục thường xuyên và hướng nghiệp

GNP Tổng sản phẩm quốc dân

HDI Chỉ số phát triển con người

HĐND Hội đồng nhân dân

ICOR Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư

NN Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản

NSNN Ngân sách nhà nước

TBXH Thương binh xã hội

THCS Trung học cơ sở

THPT Trung học phổ thông

UBND Ủy ban nhân dân

UNDP Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc

WB Ngân hàng Thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

Bảng 2.2.4: Năng suất lao động xã hội của Thị xã qua các năm ............................ 45

Bảng 2.4.2.1: Xếp hạng kết quả tốt nghiệp THPT các trường ở Thị xã .................. 58

Biểu đồ 1: Đường cong Lorenz ............................................................................. 15

Biểu đồ 2: Mô hình chữ U ngược .......................................................................... 22

Biểu đồ 3: Tăng trưởng GDP của thị xã Bà Rịa 1996-2009 ................................... 38

Biểu đồ 4: Tăng trưởng GDP/người của thị xã Bà Rịa 1995-2009 ......................... 39

Biểu đồ 5: Cơ cấu (%) ngành kinh tế theo giá thực tế của Thị xã .......................... 40

Biểu đồ 6: Cơ cấu lao động (%) theo ngành kinh tế của Thị xã qua các năm ......... 41

Biểu đồ 7: Phát triển dân số thành thị của thị xã Bà Rịa qua các năm .................... 42

Biểu đồ 8: Tỷ trọng (%) chi đầu tư phát triển trong cơ cấu chi NSNN của thị xã Bà
Rịa giai đoạn 1995-2009 ........................................................................................ 44

Biểu đồ 9: Tỷ trọng (%) chi cho giáo dục trong cơ cấu chi NSNN của Thị xã ....... 48

Biểu đồ 10: Tỷ trọng giá trị sản xuất và tỷ trọng giá trị tăng thêm (theo giá thực tế)
của ngành dịch vụ trong cơ cấu ngành kinh tế của Thị xã 1995 - 2009................... 56

Biểu đồ 11: Tỷ trọng (%) chi cho sự nghiệp y tế trong cơ cấu chi NSNN của thị xã
Bà Rịa (giai đoạn 2001-2008) ................................................................................ 60
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ
CÔNG BẰNG XÃ HỘI .........................................................................................6

1.1. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội .................................................6

1.1.1. Tăng trưởng kinh tế, Phát triển kinh tế và Phát triển bền vững..............6
1.1.2. Bất bình đẳng xã hội và Công bằng xã hội.............................................9

1.2. Các tiêu chí đo lường tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội .............12

1.2.1. Các tiêu chí đo lường tăng trưởng kinh tế ............................................12


1.2.2. Các tiêu chí đo lường công bằng xã hội ...............................................13

1.3. Các mô hình lựa chọn giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội....19

1.3.1. Mô hình “Công bằng trước – Tăng trưởng sau” ..................................20


1.3.2. Mô hình “Tăng trưởng trước – Công bằng sau” ..................................21
1.3.3. Mô hình “Tăng trưởng đi đôi với Công bằng” .................................23

1.4. Kinh nghiệm của một số nước giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội.............................................................................24

1.4.1. Trung Quốc .........................................................................................24


1.4.2. Hàn Quốc ............................................................................................27
1.4.3. Nhật Bản .............................................................................................29

1.5. Những bài học kinh nghiệm rút ra về sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh
tế với công bằng xã hội ....................................................................................31

1.5.1. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện công bằng xã hội.................31


1.5.2. Tăng trưởng kinh tế đến đâu phải thực hiện ngay công bằng xã hội đến
đấy ................................................................................................................32
1.5.3. Thực hiện công bằng xã hội phải dựa trên những thành quả của tăng
trưởng kinh tế................................................................................................32
1.5.4. Công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực quan trọng nhằm
đảm bảo tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững ...................................... 33

Tóm tắt chương 1 ............................................................................................ 34

Chương 2. THỰC TRẠNG VỀ SỰ KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ


CÔNG BẰNG XÃ HỘI TẠI THỊ XÃ BÀ RỊA (1995 – 2009) .......................... 35

2.1. KHÁI LƯỢC ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ-XÃ HỘI THỊ XÃ BÀ RỊA .......... 35

2.1.1. Về lĩnh vực kinh tế .............................................................................. 35


2.1.2. Về xã hội ............................................................................................. 36
2.1.3. Các chỉ số kinh tế - xã hội cơ bản của thị xã Bà Rịa............................. 37

2.2. Tăng trưởng kinh tế của thị xã Bà Rịa giai đoạn 1995-2009 ................. 38

2.2.1. Tốc độ tăng trưởng GDP và GDP bình quân đầu người ....................... 38
2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế.................................................................. 39
2.2.3. Vốn đầu tư phát triển ........................................................................... 43
2.2.4. Tăng trưởng năng suất lao động xã hội ................................................ 45

2.3. Tác động của tăng trưởng kinh tế đến công bằng xã hội ở thị xã Bà Rịa
(1995-2009)....................................................................................................... 47

2.3.1. Về lao động và việc làm ...................................................................... 47


2.3.2. Về giáo dục và đào tạo ........................................................................ 48
2.3.3. Về y tế ................................................................................................. 50
2.3.4. Về xóa đói – giảm nghèo và an sinh xã hội .......................................... 51
2.3.5. Về cơ sở hạ tầng và đô thị hóa ............................................................. 53

2.4. Những yếu kém trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội tại thị xã Bà Rịa giai đoạn 1995-2009 ......................................... 55

2.4.1. Tăng trưởng kinh tế còn dưới mức tiềm năng ...................................... 55
2.4.2. Thực hiện công bằng xã hội còn bất cập, độ bao phủ chưa rộng........... 58

Tóm tắt chương 2 ............................................................................................ 61


Chương 3. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM
KẾT HỢP GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
TẠI THỊ XÃ BÀ RỊA GIAI ĐOẠN 2010 - 2020 ................................................ 62

3.1. Những quan điểm và định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam về kết
hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ........................................ 62

3.2. Định hướng và mục tiêu của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và thị xã Bà Rịa về
tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội (2010 – 2020) ................................ 65

3.2.1. Định hướng và mục tiêu của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu .......................... 65
3.2.2. Định hướng và mục tiêu của thị xã Bà Rịa ........................................... 66

3.3. Những giải pháp cơ bản nhằm kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội tại Thị xã Bà Rịa trong giai đoạn 2010 - 2020 ............................ 68

3.3.1. Duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao đồng thời nâng cao chất lượng tăng
trưởng ........................................................................................................... 68
3.3.2. Thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách
phát triển ....................................................................................................... 73
3.3.3. Nâng cao trách nhiệm, hiệu quả quản lý của các cơ quan công quyền và
cán bộ-công chức .......................................................................................... 83

Tóm tắt chương 3 ............................................................................................ 85

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 86

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC
1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Công cuộc đổi mới ở nước ta trong hơn hai thập kỷ qua đã đem lại
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, trong đó tốc độ tăng trưởng kinh
tế thuộc loại khá cao so với mức tăng trưởng của các nước trong khu vực và
trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn thì đồng thời những đòi hỏi
về công bằng xã hội cũng lớn hơn. Đây chính là vấn đề phức tạp đang đặt ra
cho đất nước ta đúng như Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã
chỉ rõ: “Lý luận chưa giải quyết được một số vấn đề của thực tiễn đổi mới và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt là trong việc giải quyết các mối
quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển; giữa tăng trưởng
kinh tế và thực hiện công bằng xã hội” [12; tr. 69].

Thật vậy, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội không phải là một vấn đề đơn giản. Trong thực tiễn đã có nhiều bằng
chứng cho thấy sự đối lập giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
Tăng trưởng thường làm gia tăng tình trạng bất bình đẳng và không công
bằng vì những người giàu sẽ được hưởng nhiều lợi ích hơn do tăng trưởng
đem lại. Nếu lấy kết quả tăng trưởng để giải quyết vấn đề công bằng xã hội do
chính tăng trưởng gây ra có thể sẽ làm giảm hoặc triệt tiêu các yếu tố kích
thích tăng trưởng. Nhưng ngược lại, nếu không giải quyết vấn đề công bằng
xã hội thì xã hội sẽ không ổn định và như vậy sẽ không thể có tăng trưởng bền
vững. Dù sao đi nữa, thì sự lựa chọn khó khăn giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội đã được Đảng ta khẳng định: “Thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển” [12; tr. 77]
và “ Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả
nước, ở từng lĩnh vực, địa phương” [12; tr. 101].
2

Để kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, chúng ta cần
phải giải quyết hai vấn đề mấu chốt sau đây:

Một là, làm thế nào để tận dụng những cơ hội do tăng trưởng kinh tế
đem lại nhằm thực hiện công bằng xã hội?

Hai là, làm thế nào để việc thực hiện công bằng xã hội sẽ tạo điều kiện
tăng trưởng kinh tế cao và bền vững?

Việc đưa ra các giải pháp cụ thể và phù hợp với cơ cấu đặc thù riêng của
nước ta phải xuất phát từ thực tiễn sinh động ở từng địa phương, từ những
kinh nghiệm đã có, những mô hình, lý thuyết và nghiên cứu khoa học về mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Vì vậy, việc nhận thức
đúng bản chất mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
không chỉ có ý nghĩa về mặt nhận thức luận, về cơ sở khoa học thực tiễn mà
vấn đề quan trọng hơn là tìm cho được những giải pháp phù hợp nhằm kết
hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trong tình hình hiện nay ở nước
ta nói chung và ở mỗi địa phương nói riêng. Đây cũng là lý do mà tôi chọn đề
tài “Tăng trưởng kinh tế với vấn đề công bằng xã hội tại thị xã Bà Rịa”.

2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Đề tài tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội đã có nhiều công trình
nghiên cứu, nhiều lý thuyết và mô hình về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế và công bằng xã hội, nhiều bài báo, hội thảo khoa học .v.v… đề cập đến
vấn đề này ở các khía cạnh cũng như cách tiếp cận khác nhau. Một số công
trình nghiên cứu tiêu biểu ở Việt Nam hiện nay như: “Đặc trưng của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của GS.TS. Vũ Đình
Bách-GS.TS. Trần Minh Đạo (đồng chủ biên); “Phân phối trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của GS. TS. Nguyễn Công Nghiệp
(Chủ biên); sách chuyên khảo “Các mô hình tăng trưởng kinh tế” của
3

PGS.TS. Trần Thọ Đạt; “Tăng trưởng kinh tế với vấn đề công bằng xã hội tại
Thành Phố Hồ Chí Minh” của Phạm Mỹ Duyên (Luận văn Thạc sĩ kinh tế -
năm 2006, Khoa kinh tế – ĐHQG. TP.HCM). Đặc biệt là các ấn phẩm, báo
cáo khoa học, các bài viết của Ngân hàng thế giới (WB) , của Chương trình
phát triển của Liên Hiệp quốc (UNDP), của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế
trung ương (CIEM) và của Viện kinh tế Thành Phố Hồ Chí Minh phân tích
sâu về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta
hiện nay có giá trị khoa học và thực tiễn.

Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách
hoàn chỉnh và toàn diện về vấn đề kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công
bằng xã hội ở cấp quận, huyện, thị xã nói chung và ở thị xã Bà Rịa nói riêng
với những số liệu, tài liệu được cập nhật đến năm 2009.

3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

- Khái quát cơ sở lý luận về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội; các
tiêu chí đo lường tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội; nghiên cứu các mô
hình lựa chọn giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội; kinh nghiệm của
một số nước giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội và những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam.

- Phân tích và đánh giá một cách khách quan về thực trạng kết hợp giữa
tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội tại thị xã Bà Rịa giai đoạn 1995 –
2009, những thành tựu đạt được, những mặt hạn chế và những vấn đề đặt ra
nhằm giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội tại
thị xã Bà Rịa hiện nay.

- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu mà rút ra những vấn đề


mang tính phổ biến nhằm đề nghị các định hướng , giải pháp phù hợp trong
4

việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội tại thị xã Bà Rịa
trong giai đoạn 2010 – 2020.

4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu của luận văn được xác định là việc kết hợp giữa
tăng trưởng kinh tế với vấn đề công bằng xã hội tại thị xã Bà Rịa .

Giới hạn của đề tài về thời gian nghiên cứu là giai đoạn 1995 – 2009 (thị
xã Bà Rịa mới thành lập và đi vào hoạt động chính thức từ ngày 15/8/1994).

Phạm vi của đề tài sẽ trình bày mang tính khái quát những vấn đề lý luận
và thực tiễn, chủ yếu là sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội tại thị xã Bà Rịa giai đoạn 1995 – 2009.

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TÀI LIỆU

5.1. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sẽ vận dụng cách tiếp cận theo phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, vận dụng những quan điểm của Đảng ta về nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về phân phối và tái phân phối, về
tăng trưởng kinh tế và các chính sách xã hội.

Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp tiếp cận khác như :
mô tả, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chứng, thống kê … để làm rõ thực
trạng các mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội tại thị xã
Bà Rịa.

5.2. Nguồn tài liệu

Ngoài những sách chuyên khảo, các giáo trình kinh tế, các nghị quyết
của Đảng, tạp chí, báo cáo khoa học – hội thảo, các bài viết trên các phương
tiện thông tin xoay quanh đề tài tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Tác
giả sử dụng các báo cáo của Đảng bộ, HĐND và UBND thị xã Bà Rịa trong
5

các nhiệm kỳ và hàng năm; các số liệu từ Niên giám thống kê tình hình kinh
tế – xã hội tại thị xã Bà Rịa trong giai đoạn 1995 – 2009 của Phòng thống kê,
Phòng Giáo dục, Trung tâm y tế, Ban chỉ đạo giảm nghèo Thị xã và của các
phòng, ban có liên quan (như Tài chính – kế hoạch, Ban Bảo vệ chăm sóc sức
khỏe bà mẹ trẻ em của Thị xã .v.v…).

6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN

Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu đã có, luận văn này sẽ góp phần :

+ Làm rõ những vấn đề kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội tại thực tế nghiên cứu (thị xã Bà Rịa).

+ Đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm tìm kiếm một con đường phát
triển cho đất nước ngày càng vững chắc và công bằng hơn trong bối cảnh toàn
cầu hóa hiện nay, chủ yếu là việc kết hợp như thế nào giữa tăng trưởng kinh
tế và công bằng xã hội ở nước ta nói chung và thị xã Bà Rịa nói riêng.

+ Là tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập cho sinh viên
chuyên ngành kinh tế chính trị và kinh tế phát triển.

7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo;
nội dung chính của luận văn bao gồm:

- Chương 1: Những lý luận cơ bản về tăng trưởng kinh tế và công bằng


xã hội.

- Chương 2: Thực trạng về sự kết hợp tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội tại thị xã Bà Rịa giai đoạn 1995 – 2009.

- Chương 3: Quan điểm, định hướng và những giải pháp cơ bản nhằm kết
hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội tại thị xã
Bà Rịa giai đoạn 2010 - 2020.
6

Chương 1

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ


CÔNG BẰNG XÃ HỘI

1.1. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội

1.1.1. Tăng trưởng kinh tế, Phát triển kinh tế và Phát triển bền vững

1.1.1.1. Tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, liên quan đến sự
thịnh suy của một quốc gia. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang suy
giảm mạnh như hiện nay thì tăng trưởng kinh tế dường như đã và đang trở
thành một lối sống. Chính phủ nước nào cũng ưu tiên các nguồn lực của mình
cho tăng trưởng kinh tế, coi đó là cái gốc, là nền tảng để giải quyết mọi vấn
đề khác, đặc biệt là các vấn đề xã hội như: tạo công ăn việc làm, nâng cao
mức sống của người dân, tăng cường phúc lợi xã hội, xóa đói - giảm nghèo,
thực hiện công bằng xã hội… Tăng trưởng kinh tế thực sự là cần thiết.

Khái niệm Tăng trưởng kinh tế được nhiều tác giả đề cập với nhiều
cách khác nhau, song hầu hết các tác giả đều thống nhất ở định nghĩa chung
nhất về tăng trưởng kinh tế như sau: “Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu
nhập thực tế hay sự gia tăng về qui mô sản lượng của toàn bộ nền kinh tế
trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm)”.

Như vậy, Tăng trưởng kinh tế là khái niệm chỉ diễn tả động thái biến
đổi về số lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của toàn bộ nền kinh tế theo
thời gian, nhưng chưa đề cập đến mối quan hệ của nó với xã hội.

1.1.1.2. Phát triển kinh tế

Tăng trưởng kinh tế là cần thiết nhưng chưa đủ để làm cho phúc lợi
được phân phối rộng rãi. Sự phát triển của một quốc gia không chỉ là sự gia
7

tăng về qui mô sản lượng của nền kinh tế mà còn hướng đến nhiều mục tiêu
kinh tế và xã hội rộng rãi hơn. Do vậy, khái niệm Phát triển kinh tế đã được
đặt ra và nhận thức về nó ngày càng được hoàn thiện.

Trước hết, phát triển cần phải được hiểu như một quá trình nhiều mặt
liên quan đến việc tái tổ chức và tái định hướng toàn bộ các hệ thống kinh tế
và xã hội [22; tr. 139]. Vì vậy, phát triển kinh tế là một nhận thức toàn diện
bao gồm các khía cạnh tinh thần và vật chất. Trong khi tăng trưởng kinh tế chỉ
thuần tuý là sự gia tăng vật chất thì phát triển kinh tế là sự hoàn thiện của hai
vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Phát triển kinh tế thể hiện trên ba
khía cạnh bao gồm tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và biến
đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội.

Có thể nói một cách khái quát: “phát triển kinh tế là quá trình tăng tiến
của nền kinh tế trên các mặt, bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản
lượng, tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội. Đó là sự tiến bộ, thịnh vượng và
cuộc sống tốt đẹp hơn” [18; tr. 13].

Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế có mối quan hệ biện
chứng với nhau.Tăng trưởng chưa phải là phát triển nhưng không thể nói phát
triển mà không có tăng trưởng. Tăng trưởng mà không phát triển sẽ dẫn đến
thảm họa, ngược lại phát triển mà không tăng trưởng là không tồn tại trong
thực tế [27; tr. 43].

1.1.1.3. Phát triển bền vững

Mặc dù khái niệm phát triển kinh tế đã đáp ứng được các nhu cầu đặt ra
cho sự phát triển toàn diện trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, nhưng
thực tiễn quá trình tăng trưởng kinh tế ở các nước buộc con người phải nhìn
nhận lại mục tiêu của sự phát triển.
8

Trong những năm gần đây, nhiều vấn đề toàn cầu cực kỳ phức tạp, nan
giải và ngày càng trầm trọng đòi hỏi cả cộng đồng nhân loại phải chung sức
giải quyết như: vấn đề sinh thái, ô nhiễm môi trường, phân hóa giàu
nghèo, bất bình đẳng xã hội, tắc nghẽn giao thông, thiên tai, dịch bệnh, chiến
tranh, khủng bố…. Tác giả Joseph E. Stiglitz - nhà kinh tế học nhận giải
Nobel năm 2001 - cũng đã bày tỏ lo ngại rằng: “kể cả những nước có được
một chút tăng trưởng cũng thấy rõ là lợi ích chủ yếu tích tụ trong tay những
người giàu và đặc biệt là tầng lớp cực giàu, khoảng 10% giàu nhất, trong khi
nghèo đói vẫn hoành hành và thậm chí trong một số trường hợp, thu nhập của
những người dưới đáy còn tụt giảm”[16; tr. 25].

Vì vậy, một khái niệm mới về phát triển đã ra đời, mang nội hàm phản
ánh tổng hợp hơn, toàn diện hơn tất cả các khái niệm về tăng trưởng kinh
tế, phát triển kinh tế…, đó là khái niệm phát triển bền vững. Năm 1987, Ủy
ban Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED: World Commission on
Environment and Development) đã công bố báo cáo “Tương lai chung của
chúng ta”, trong đó phát triển bền vững được định nghĩa “là sự phát triển
thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại khả năng thỏa
mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai” [44].

Cụ thể hơn, phát triển bền vững được hiểu là quá trình phát triển có sự
kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển, gồm có:
(1) phát triển kinh tế (nền tảng là tăng trưởng kinh tế) , (2) phát triển xã hội
(mục tiêu là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xóa đói giảm nghèo và giải
quyết việc làm) và (3) bảo vệ môi trường (mục tiêu là xử lý, khắc phục ô
nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống cháy và
chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên).
9

Phát triển bền vững có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước
đang phát triển. Phát triển bền vững là sự phát triển những giá trị của con
người, trong khi tăng trưởng kinh tế chỉ là yếu tố biểu thị năng lực thỏa mãn
nhu cầu của con người, nhưng không phải là tất cả. Sự phát triển những giá trị
của con người cần đặt trong khuôn khổ phát triển bền vững, trong đó, việc kết
hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội giữ vai trò quan trọng. Do
vậy, vấn đề tăng trưởng - công bằng đã được đặt ra: làm thế nào kinh tế
không những tăng trưởng mà công bằng xã hội cũng được thực hiện?.

1.1.2. Bất bình đẳng xã hội và Công bằng xã hội

1.1.2.1. Bất bình đẳng xã hội

Nhằm hướng đến sự phát triển bền vững, việc khắc phục tình trạng bất
bình đẳng xã hội đã trở thành vấn đề cốt lõi của mọi quốc gia. Trong hầu hết
các xã hội, chúng ta luôn chứng kiến những hiện tượng bất bình đẳng. “Bất
bình đẳng xã hội được hiểu là giữa các cá nhân không có sự ngang bằng
nhau” [48; tr. 231].

Tình trạng bất bình đẳng xã hội diễn ra trên nhiều khía cạnh như: khía
cạnh thu nhập hay tiêu thụ, khía cạnh địa lý, khía cạnh giới tính, sức khỏe,
năng lực, uy thế xã hội, dân tộc…Trong đó, bất bình đẳng về phương diện
kinh tế có ảnh hưởng lớn lao đến sự ổn định xã hội và sự tồn tại của cả một
cơ cấu xã hội hay một thể chế chính trị, mà biểu hiện rõ nét nhất là bất bình
đẳng về phân phối thu nhập, nghĩa là thành quả của tăng trưởng kinh tế không
được san sẻ đồng đều cho mọi tầng lớp dân chúng. Phân phối thu nhập càng
bị sai lệch nhiều thì mức độ bất bình đẳng xã hội càng cao.

Vì vậy, xu hướng gia tăng bất bình đẳng trong thu nhập là một thách
thức lớn của các quốc gia hiện nay, mà nguyên nhân chủ yếu của xu hướng
này chính là vấn đề công bằng xã hội.
10

1.1.2.2. Công bằng xã hội

Công bằng xã hội và bình đẳng xã hội là hai khái niệm hoàn toàn khác
nhau. Trong công bằng xã hội có thể có bình đẳng (là sự ngang bằng, bằng
nhau), và có thể có bất bình đẳng. Chẳng hạn, trước pháp luật, mọi công dân
đều bình đẳng, không phân biệt đối xử (về chủng tộc, giới tính, văn hóa, tôn
giáo hay tín ngưỡng..); sự bình đẳng trong trường hợp này là một yêu cầu của
công bằng xã hội. Ngược lại, trên phương diện kinh tế, sự thụ hưởng của mỗi
cá nhân không thể bằng nhau (dựa trên nguyên tắc làm nhiều-hưởng nhiều;
làm ít-hưởng ít; không làm-không hưởng; hoặc gây thiệt hại-phải bồi thường);
sự chênh lệch hay bất bình đẳng trong trường hợp này được pháp luật thừa
nhận, xã hội đồng thuận và cũng là một yêu cầu của công bằng xã hội.

Công bằng xã hội được xem xét trên nhiều phương diện: kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hóa, đạo đức…Công bằng xã hội không phải là vấn đề cá
nhân, mà là mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội (giữa cá nhân với cá nhân,
cá nhân với tập thể, với cộng đồng xã hội, giữa công dân với nhà nước, giữa
các nhóm xã hội…). Khái niệm về công bằng xã hội, vì vậy, có nhiều ý kiến
khác nhau tuỳ thuộc vào quan điểm của mỗi xã hội nên mang tính chủ quan,
tương đối và đa diện. Có thể nêu ra một vài quan niệm khác nhau về công
bằng xã hội sau đây:

- Khi đề cập đến nguyên tắc công bằng trong phân phối dưới chủ nghĩa
xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội là công bằng,
hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được
hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm
nom”[ 23; tr. 181] và nhắc nhở: “Trong công tác lưu thông phân phối, có hai
điều quan trọng phải luôn luôn nhớ: Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng;
Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”[ 24; tr. 187].
11

- Theo tác giả Trần Văn Thọ, “Công bằng trước hết phải được hiểu là
sự bình đẳng trong cơ hội, cơ hội làm việc, cơ hội đầu tư; nghĩa là bình đẳng
trong việc tiếp cận những cơ hội mà với cố gắng và năng lực con người có
thể đạt đến một mức sống cao hơn hiện nay”[33; tr. 132].

- Theo các nhà kinh tế hiện nay, công bằng xã hội được phân biệt thành
công bằng ngang và công bằng dọc: Công bằng ngang là đối xử như nhau
với người có đóng góp như nhau; Công bằng dọc là đối xử khác nhau với
người có khác biệt bẩm sinh hoặc có các điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội
khác nhau (do khả năng và kĩ năng lao động khác nhau; cường độ làm việc
khác nhau; sự khác nhau về nghề nghiệp; sự khác nhau về giáo dục đào tạo;
được hưởng thừa kế và chiếm hữu tài sản khác nhau; hoặc gánh chịu rủi ro
khác nhau). Nếu như công bằng ngang được thực hiện bởi cơ chế thị trường
thì công bằng dọc cần có sự điều tiết của chính phủ nhằm thu hẹp khoảng
cách bất bình đẳng xã hội. Việc phân định và kết hợp công bằng dọc và ngang
sẽ đảm bảo công bằng xã hội thực sự.

Khái quát lại, theo quan điểm của tác giả, công bằng xã hội được hiểu
là sự bình đẳng trong việc tiếp cận và lựa chọn những cơ hội cho mọi người
trên các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội; là đối xử bình
đẳng với những người có nhu cầu, khả năng và đóng góp như nhau; là thu
hẹp một cách hợp lý sự cách biệt, chênh lệch về mức sống giữa các thành viên
trong xã hội với hoàn cảnh lịch sử, điều kiện và khả năng cho phép.

Suy đến cùng thì mục tiêu của mọi chính sách phát triển bền vững là
nhằm kiến tạo một xã hội thịnh vượng và công bằng. Công bằng xã hội là một
trong những động lực phát triển kinh tế - xã hội vì nó là yếu tố tác động trực
tiếp đến lợi ích của chủ thể hoạt động, nó kích thích tính năng động, sáng tạo
và nhiệt tình của mọi thành viên trong xã hội. Công bằng xã hội còn là một
12

giá trị cơ bản định hướng cho việc giải quyết các mối quan hệ giữa người và
người trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Tóm lại, công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện quan trọng
nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.

1.2. Các tiêu chí đo lường tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội

1.2.1. Các tiêu chí đo lường tăng trưởng kinh tế

1.2.1.1. Tốc độ tăng trưởng GDP : cho thấy xu hướng của quy mô sản
lượng tăng lên hay giảm đi và nếu tăng thì tăng nhanh hay chậm qua các thời
kỳ khác nhau. Để tính tốc độ tăng trưởng GDP, ta có :
Yt  Y0 Y
gy   (%)
Y0 Y0
Trong đó, Y : GDP hoặc GNP

Yt : GDP hoặc GNP của năm t

Y0 : GDP hoặc GNP của năm gốc

∆Y : mức gia tăng GDP hoặc GNP giữa hai thời điểm

Sự tích lũy tốc độ tăng trưởng cao của GDP liên tục trong nhiều năm
(tăng trưởng kép) có thể dẫn tới một kết quả ngoạn mục (còn gọi là phép màu
của tăng trưởng kép) theo “quy tắc 70, nghĩa là, nếu một biến số nào đó tăng
với tỷ lệ x % một năm, thì nó sẽ tăng gấp đôi trong vòng 70 / x năm” [25; tr.
48]. Ví dụ, thu nhập của A mỗi năm là 5.000 USD, nếu như mỗi năm thu
nhập của A tăng 7% thì (70/7=10) 10 năm sau, thu nhập của A sẽ tăng gấp
đôi là 10.000 USD. Sự khác biệt trong tốc độ tăng trưởng có thể giúp các
nước nghèo đuổi kịp các nước giàu sau một thời gian, tiêu biểu nhất là Nhật
Bản chỉ sau vài thập kỷ đã vươn lên trên nhiều nước khác và trở thành nền
kinh tế phát triển lớn thứ hai trên thế giới hiện nay.
13

1.2.1.2. GDP bình quân đầu người (GDP/người): là chỉ tiêu phản ánh
một cách tổng quan mức sống dân cư và được tính bằng tỉ lệ giữa tổng sản
phẩm trong nước với tổng dân số trung bình trong năm. Tổng sản phẩm trong
nước bình quân đầu người có thể tính theo giá thực tế, giá so sánh, tính theo
nội tệ hoặc theo ngoại tệ. Sự gia tăng liên tục với tốc độ ngày càng cao của
chỉ tiêu này là dấu hiệu thể hiện sự tăng trưởng bền vững và nó còn được sử
dụng trong việc so sánh mức sống dân cư giữa các quốc gia hoặc giữa các
tỉnh, thành phố trong cả nước với nhau. Ngân hàng Thế giới–WB (năm 2006)
đã phân chia các nhóm quốc gia theo thu nhập bình quân đầu người, cụ thể là:

- Nhóm nước thu nhập cao ≥ 11.116 USD/người/năm.

- Nhóm nước thu nhập trung bình từ 906 đến 11.115 USD/người/năm.

- Nhóm nước thu nhập thấp ≤ 905 USD/người/năm [41; tr. 24]

Theo số liệu xếp hạng 170 quốc gia trên thế giới của WB (năm 2007),
GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 836 USD, xếp hạng 134; cao nhất
là Luxembourg với 99.879 USD/ người và thấp nhất là Burundi với 115 USD/
người [45]. Năm 2008 và 2009, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là
1.047 USD và 1.055 USD, vượt qua ngưỡng nhóm nước có thu nhập thấp.

Tuy nhiên, GDP bình quân đầu người chỉ cho chúng ta biết những gì
xảy ra đối với một người trung bình, còn đằng sau thu nhập bình quân đó có
rất nhiều sự khác biệt giữa các cá nhân với nhau. Thu nhập không phải là tất
cả cuộc sống con người. Mục đích của sự phát triển bền vững là mở rộng mọi
sự lựa chọn của con người chứ không phải chỉ là gia tăng thu nhập.

1.2.2. Các tiêu chí đo lường công bằng xã hội

1.2.2.1. Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập: được thể hiện qua đường
cong Lorenz và hệ số Gini.
14

Đường cong Lorenz: là một loại đồ thị được phát triển từ năm 1905
bởi Max Otto Lorenz (1880 – 1962), nhà thống kê người Mỹ. Trên đồ thị này
ta thấy: tỷ lệ phần trăm cộng dồn số hộ gia đình được thể hiện trên trục
hoành, và tỷ lệ phần trăm cộng dồn thu nhập thể hiện trên trục tung. Đường
chéo 45° gọi là đường bình đẳng tuyệt đối (vì mỗi điểm trên đường này thể
hiện tỷ lệ phần trăm số hộ gia đình đúng bằng tỷ lệ phần trăm thu
nhập). Khoảng cách giữa đường chéo 45 và đường cong Lorenz là một dấu
hiệu cho biết mức độ bất bình đẳng, nó càng lõm thì mức độ bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập càng cao, nghĩa là phần trăm thu nhập người nghèo
nhận được sẽ giảm đi. Đường cong Lorenz là cách biểu hiện trực quan của sự
bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, nhưng nó không phải là cách đánh
giá định lượng về bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Vì vậy, người ta
thường sử dụng hệ số Gini.

Hệ số Gini: được phát triển bởi Corrado Gini (1884-1965), nhà thống kê
học người Ý. Hệ số Gini là một hệ số được tính từ đường cong Lorenz dùng
để chỉ ra mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập theo công thức sau:

1 2
G 1  2  y1  2 y2  3 y3  ...  nyn 
n n y bq

Trong đó:
o y1, y2, … yn : Thu nhập của từng nhóm hộ theo thứ tự giảm dần
o ybq : Thu nhập bình quân của hộ
o n: Tổng số nhóm hộ
Biểu thị bằng hình học, hệ số Gini được tính như sau:

Diện tích phần nằm giữa đường cong Lorenz với đường chéo 45 (A)

G=

Tổng diện tích nằm dưới đường chéo 45 (A+B)


15

Khi đường cong Lorenz trùng với đường chéo 45 (đường bình đẳng
tuyệt đối) thì hệ số Gini bằng 0 (vì A=0), xã hội có sự phân phối bình đẳng
thu nhập tuyệt đối (mọi người đều có cùng một mức thu nhập). Nếu đường
cong Lorenz trùng với trục hoành, hệ số Gini bằng 1 (vì B=0), xã hội có sự
phân phối bất bình đẳng thu nhập tuyệt đối (một người có toàn bộ thu nhập,
trong khi tất cả mọi người khác không có thu nhập). Như vậy 0  G  1.

Biểu đồ 1: Đường cong Lorenz

Theo kết quả nghiên cứu của WB, giá trị của hệ số Gini biến động từ
0,20 đến 0,60. Đối với những nước có thu nhập thấp, hệ số Gini biến động từ
0,30 đến 0,50 và những nước có thu nhập cao hệ số Gini biến động từ 0,20
đến 0,40. Trong thực tế cuộc sống, không có nước nào đạt được hệ số Gini
bằng 0 hoặc 1. Theo báo cáo của UNDP (2007/08), hệ số Gini của Việt Nam
(năm khảo sát: 2004) là 0,344; của Mê-hi-cô (2004) là 0,424; Hoa Kỳ (2000)
là 0,408; Liên bang Nga (2002) là 0,399; hệ số Gini cao nhất là Nhật Bản
(1993) là 0,249 và thấp nhất là Namibia (1993) là 0,743 [41].
16

Theo kết quả tóm tắt khảo sát mức sống hộ gia đình 2006 do Tổng cục
Thống kê công bố ngày 26/12/2007 cho thấy hệ số GINI về thu nhập tính
chung cả nước ta năm 2006 là 0,42, tương đương năm 2004. Hệ số này năm
1999 là 0,39, năm 2002 là 0,418. Như vậy, sự bất bình đẳng về thu nhập của
nước ta ở mức thấp nhưng có xu hướng tăng.

1.2.2.2. Phân phối thu nhập theo đầu người hoặc các nhóm dân cư

Phương pháp tính là người ta chia dân số thành 5 nhóm người, mỗi nhóm
có 20% dân số, sau đó xếp theo thứ tự từ thấp đến cao về thu nhập. Qua đó,
có thể thấy mức độ công bằng xã hội thông qua việc so sánh nhóm giàu nhất
và nhóm nghèo nhất. Nếu khoảng cách chênh lệch này ngày càng giãn ra
trong khi kinh tế đất nước vẫn có tốc độ tăng trưởng khá, song mức độ cải
thiện thu nhập của lớp người nghèo không được bao nhiêu, thì đây là một vấn
đề rất đáng được báo động.

Theo kết quả tóm tắt khảo sát mức sống hộ gia đình 2006 do Tổng cục
Thống kê công bố ngày 26/12/2007 cho thấy chênh lệch về thu nhập bình
quân 1 người 1 tháng giữa nhóm hộ giàu nhất và nhóm hộ nghèo nhất trong
năm 2006 tăng nhẹ so với năm 2004. Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng của
nhóm hộ nghèo nhất (nhóm 1) đạt 184 nghìn đồng, tăng 29,9%, của nhóm hộ
giàu nhất (nhóm 5) đạt 1542 nghìn đồng, tăng 30,4% so 2004. Mức chênh
lệch thu nhập bình quân 1 người 1 tháng giữa nhóm 5 và nhóm 1 là 8,37 lần,
tăng nhẹ so năm 2004. So sánh 20% số hộ có mức thu nhập cao nhất với 20%
số hộ có thu nhập thấp nhất thì hệ số chênh lệch năm 2006 là 8,4 lần (hệ số
này năm 1999 là 7,6 lần, năm 2002 là 8,1 lần, năm 2004 là 8,3 lần). Như vậy,
chênh lệch giàu - nghèo ở nước ta có xu hướng ngày càng giãn ra.

1.2.2.3. Chỉ số nghèo khổ : là tỉ lệ phần trăm giữa số dân sống dưới mức
tối thiểu với tổng số dân.
17

Tình trạng nghèo khổ không chỉ tồn tại ở các nước đang phát triển, mà
còn tương đối phổ biến ở các nước phát triển. Vì vậy, sự nghèo khổ không chỉ
là hậu quả của mức thu nhập thấp mà còn là hệ quả của cả sự phân phối thu
nhập không công bằng trong xã hội.

Để xác định mức nghèo khổ, người ta phải đưa ra chuẩn nghèo, hiện
nay còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau về đói nghèo. WB đưa ra chuẩn nghèo
tuyệt đối là dưới 1USD/người/ngày (theo sức mua tương đương - PPP) đối
với các nước có thu nhập trung bình lớp dưới; đối với các nước có thu nhập
cao thì chuẩn nghèo tuyệt đối được xác định là trên 14,40 USD /người/ ngày
(UNDP - 1997). Theo số liệu của WB thì trong năm 2001 trên toàn thế giới
có 1,1 tỉ người (tương ứng với 21% dân số thế giới) thu nhập dưới
1USD/người/ngày (PPP) và đó là những người nghèo khổ nhất thế giới.

Ở Việt Nam, theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng


Chính phủ ngày 8/7/2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai
đoạn 2006 - 2010 thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình
quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là
hộ nghèo; ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000
đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Với chuẩn này, Việt Nam hiện có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm 14,7%
tổng số hộ dân cả nước, tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn.

1.2.2.4. Chỉ số phát triển con người

Không phải lúc nào thu nhập cũng là thước đo tốt nhất phản ánh những
gì hình thành nên cuộc sống con người. Theo quan điểm của Liên hiệp quốc,
phát triển con người là một quá trình nhằm mở rộng khả năng lựa chọn của
dân chúng (bao gồm sự tự do về kinh tế, xã hội, chính trị) để con người có
được các cơ hội trở thành người lao động sáng tạo, có năng suất, được tôn
18

trọng cá nhân và được bảo đảm quyền con người. Do đó, một thước đo tóm
lược tình trạng phúc lợi của con người được Liên Hiệp Quốc dùng là chỉ số
phát triển con người – HDI (Human Development Index). HDI là một chỉ số
tổng hợp đo lường thành tựu trung bình ở một quốc gia về ba phương diện cơ
bản của phát triển con người: một cuộc đời khỏe mạnh và lâu dài; tiếp cận tới
tri thức; và mức sống hợp lý. Ba phương diện cơ bản này được đo bằng:

+ Chỉ số tuổi thọ (LI - Life Expectancy Index): tính từ lúc sinh
Tuoithotrungbinh  25
LI =
85  25

(Trong đó, 25 là tuổi thọ trung bình của quốc gia được xếp hạng thấp
nhất trên thế giới; và 85 là tuổi thọ trung bình của quốc gia được xếp hạng cao
nhất trên thế giới).

+ Chỉ số giáo dục (EI -Education Index): sự biết đọc biết viết ở người
lớn và tổng tỷ lệ đi học tiểu học, trung học và đại học:

2 Pe  Pa
EI =
3

Trong đó, (Pe) là tỷ lệ người lớn biết chữ và (Pa) là tỷ lệ nhập học
các cấp giáo dục.

+ Chỉ số thu nhập (YI - Income Index): tổng sản phẩm trong nước
bình quân đầu người (tính bằng USD theo ngang giá sức mua – PPP)

Y  Ymin
YI 
Ymax  Ymin

Trong đó, Y : GDP/người của quốc gia được đánh giá (tính theo PPP).

Ymin : GDP/người của quốc gia được xếp hạng thấp nhất trên thế giới.

Ymax : GDP/người của quốc gia được xếp hạng cao nhất trên thế giới.
19

LI  EI  YI
Như vậy, HDI =
3

Mọi quốc gia trong HDI được xếp vào một trong ba nhóm:

+ phát triển con người thấp : HDI dưới 0,500

+ phát triển con người trung bình : HDI từ 0,500-0,799

+ phát triển con người cao : HDI từ 0,800 trở lên

Theo số liệu xếp hạng 182 quốc gia năm 2007 của UNDP, chỉ số HDI
của Việt Nam là 0,725 hạng 116; Malysia là 0,829 hạng 66; hạng nhất là
Norway (0,971) và thấp nhất là Niger với HDI= 0,340 [42].

Đối với nước ta, việc tính toán cũng như tính ứng dụng và tính so sánh
quốc tế của các chỉ số như GINI, HDI đang tồn tại rất nhiều bất cập. Hơn nữa,
trong thống kê hàng năm ở cấp quận, huyện không có đủ dữ liệu cần thiết nên
không thể tính toán các chỉ số GINI hay HDI ở Thị xã được. Thay vào đó,
Luận văn này sẽ đánh giá tác động của tăng trưởng kinh tế đến công bằng xã
hội của Thị xã trên các phương diện: giải quyết việc làm, giáo dục, chăm sóc
sức khỏe, xoá đói giảm nghèo, an sinh xã hội và việc đầu tư, xây dựng các cơ
sở hạ tầng kinh tế-xã hội với các dữ liệu sẵn có trong Niên giám thống kê
hằng năm của Thị xã theo quy định hiện hành của ngành Thống Kê Việt Nam.

1.3. Các mô hình lựa chọn giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội

Việc lựa chọn và xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội hiện còn nhiều ý kiến khác nhau. Tăng trưởng kinh tế tự nó
không thể tạo ra công bằng xã hội, mà còn làm cho bất bình đẳng xã hội ngày
càng tăng vì người giàu thường hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế nhiều hơn
người nghèo. Tuy nhiên, nếu khắc phục bất bình đẳng để mang lại nhiều công
bằng hơn thì sẽ có nguy cơ dẫn đến giảm hiệu quả - động lực của tăng trưởng.
20

Ngược lại, nếu không giải quyết vấn đề bất bình đẳng và công bằng xã
hội thì ổn định xã hội sẽ bị đe dọa và như vậy sẽ không thể có tăng trưởng bền
vững. Đây chính là vấn đề phức tạp và khó khăn trong việc lựa chọn giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội, song tựu trung lại hiện có 3 mô hình được
bàn luận nhiều nhất. Đó là mô hình “Công bằng trước – Tăng trưởng sau”;
mô hình “Tăng trưởng trước – Công bằng sau” và mô hình “Tăng trưởng đi
đôi với Công bằng”. Cụ thể là :

1.3.1. Mô hình “Công bằng trước – Tăng trưởng sau”

Mô hình này nhấn mạnh và đặt công bằng lên trên, đi trước và là cơ sở
vì cho rằng mục tiêu của phát triển là nâng cao đời sống dân cư, xóa bỏ
khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Chính
sách làm giảm sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, tăng phúc lợi cho
các tầng lớp dân cư được thực hiện bằng cách “tước đoạt lại của những kẻ
tước đoạt” trên cơ sở công hữu hóa các nguồn lực chủ yếu của phát triển kinh
tế. Đặc biệt, phân phối thu nhập, giáo dục, văn hóa, y tế được quan tâm và
thực hiện theo phương thức dàn đều, bình quân cho mọi tầng lớp dân cư.

Kết quả bước đầu là quốc gia đạt tới những chỉ tiêu tiến bộ xã hội khá
tốt, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế không cao vì cơ chế phân phối bình
quân đã làm hạn chế động lực của tăng trưởng. “Công bằng” được thực hiện
nhưng không thúc đẩy được tăng trưởng bền vững, thu nhập và mức sống của
dân cư thấp [19; tr. 214-215]. Xét trên quan điểm triết học thì mô hình này
hàm chứa nhiều yếu tố phi duy vật. Vận dụng mô hình này khi điều kiện vật
chất, trình độ văn minh chưa đủ độ chín muồi, có thể tạo nguy cơ hủy hoại
động lực phát triển, kiềm chế, đẩy lùi sự phát triển của lịch sử [27; tr. 236].
Những quốc gia có nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã thực hiện mô hình này
nhưng không thành công (trong đó có Việt Nam).
21

Có thể nói, giải quyết công bằng xã hội mà không dựa trên những thành
quả của tăng trưởng kinh tế chẳng những không tạo ra động lực trong việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn dẫn đến suy giảm kinh tế và mất ổn định
chính trị. Công bằng xã hội nếu không có tăng trưởng kinh tế, hoặc chỉ có
tăng trưởng kinh tế thấp thì đó chỉ là sự công bằng trong nghèo khổ và mong
manh. Nếu không có tăng trưởng kinh tế thì không thể có công bằng xã hội
lâu dài và vì vậy không thể phát triển bền vững được.

1.3.2. Mô hình “Tăng trưởng trước – Công bằng sau”

Theo Simon Smith Kuznets (1901 – 1985), nhà kinh tế và nhân khẩu
học người Mỹ, đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm và đưa ra giả thiết cho
rằng các nước đang phát triển có xu hướng diễn ra tình trạng bất bình đẳng ở
mức độ cao hơn các nước phát triển vì hệ số Gini của một nước lúc đầu thấp
nhưng từ từ tăng lên trong quá trình tăng trưởng. Nói cách khác, bất bình đẳng
sẽ tăng ở giai đoạn ban đầu, sau khi đạt đỉnh cao thì bất bình đẳng sẽ giảm khi
lợi ích của sự tăng trưởng được lan tỏa rộng rãi hơn. Nếu biểu diễn mối quan
hệ trên đồ thị sẽ có dạng chữ U ngược.

Để kiểm định giả thuyết này (mô hình chữ U ngược), đã có nhiều nghiên
cứu khi so sánh các nước ở nhiều trình độ phát triển khác nhau và khẳng định:
sự bất công về thu nhập sẽ tăng lên từ nước có thu nhập thấp - tới nước có
thu nhâp vừa; và giảm từ nước có thu nhập vừa - tới nước có thu nhập cao.

Nhất trí với giả thuyết của Kuznets, theo Arthur Lewis (1915 – 1991), sở
dĩ bất bình đẳng tăng lên ở giai đoạn đầu là vì thu nhập của các nhà tư bản sẽ
tăng do qui mô mở rộng, trong khi tiền lương của công nhân không thay đổi;
ở giai đoạn sau bất bình đẳng sẽ giảm khi lao động dư thừa được thu hút hết
vào khu vực thành thị (sản xuất công nghiệp và dịch vụ) nên lao động sẽ trở
nên khan hiếm và tiền lương sẽ tăng lên dẫn đến giảm bớt sự bất bình đẳng.
22

Biểu đồ 2: Mô hình chữ U ngược

Gini

1-
Trước tăng Giai đoạn đầu Sau tăng
0,8 - trưởng tăng trưởng trưởng

0,6 -

0,4 -

0,2 -

0 GDP/người

Như vậy, bất bình đẳng vừa là kết quả của tăng trưởng kinh tế, vừa là
điều kiện cần thiết để tăng trưởng. Bất bình đẳng là điều kiện để người giàu
tăng tích lũy, tăng đầu tư, do đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng. Các cố gắng để phân
phối lại thu nhập “một cách hấp tấp, vội vã” sẽ dẫn đến nguy cơ bóp nghẹt
tăng trưởng kinh tế [29; tr. 142-145].

Giả thuyết của Kuznets cùng với giải thích của Lewis cho rằng trạng thái
bất bình đẳng trong phân phối thu nhập là khó tránh khỏi trong quá trình tăng
trưởng kinh tế. Thực hiện theo mô hình này, nhiều nước đã đặt ưu tiên cho
tăng trưởng kinh tế trước, rồi mới giải quyết vấn đề công bằng xã hội sau, đôi
khi còn hy sinh cả công bằng xã hội. Kinh tế càng phát triển, càng có điều
kiện để thực thi các chính sách công bằng xã hội, chỉ có hiệu quả kinh tế mới
tạo ra tăng trưởng và như vậy là tạo ra tiềm lực kinh tế giúp đất nước có
nguồn lực để giảm bớt tình trạng bất bình đẳng.

Tiếc thay, tăng trưởng kinh tế tự nó không thể đem đến công bằng xã
hội được. Thực tiễn tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước đã cho thấy bất bình
23

đẳng trong phân phối thu nhập đã không giảm mà còn tạo ra nhiều vấn đề bức
xúc cần phải tập trung giải quyết như: phân hóa giàu – nghèo, dốt nát, bệnh
tật, ô nhiễm môi trường, ùn tắc giao thông, tham nhũng ngày càng tăng, trong
khi các giá trị truyền thống lại suy giảm. Chính những hạn chế này đã tạo ra
lực cản cho sự tăng trưởng kinh tế ở giai đoạn phát triển kế tiếp như đã xảy ra
ở các nước như Brazil, Mehico, Philippines, Malaysia và Indonesia.

1.3.3. Mô hình “Tăng trưởng đi đôi với Công bằng”

Theo Harry T. Oshima, nhà kinh tế Nhật Bản, có thể hạn chế sự bất
bình đẳng ngay từ giai đoạn đầu của tăng trưởng kinh tế, bằng cách tập trung
cải thiện thu nhập ở khu vực nông nghiệp như mở rộng và phát triển ngành
nghề nhằm tạo ra nhiều việc làm cho thời gian nhàn rỗi. Sau đó, tiến hành đa
dạng hóa nông nghiệp, tăng việc làm phi nông nghiệp (như chế biến lương
thực, thực phẩm, đồ gỗ, đồ thủ công mỹ nghệ và các hoạt động dịch vụ) làm
cho lao động được dịch chuyển từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công
nghiệp và dịch vụ tăng lên, nhờ vậy tiền lương thực tế tăng lên, tạo cơ hội mở
rộng thị trường cho các ngành công nghiệp, dịch vụ và khoảng cách thu nhập
giữa nông thôn và thành thị dần dần được cải thiện. Như vậy, tăng trưởng
kinh tế có thể đi đôi với công bằng xã hội được.

Theo Ngân hàng thế giới (WB), tăng trưởng kinh tế đi đôi với bình đẳng
trong phân phối thu nhập có thể thực hiện được với điều kiện nguồn lợi thu
được từ tăng trưởng kinh tế cần được phân phối lại sao cho cùng với thời
gian thực hiện tăng trưởng, phân phối thu nhập dần được cải thiện hoặc ít nhất
là không xấu đi trong khi quá trình tăng trưởng vẫn tiến lên. Điều này tùy
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó sự lựa chọn các giải pháp chính sách phân
phối lại được xem là quan trọng. Nó bao gồm chính sách phân phối lại tài sản
(của cải) và chính sách phân phối lại từ tăng trưởng.
24

Chính sách phân phối lại tài sản nhằm khắc phục sự bất bình đẳng trong
vấn đề sở hữu tài sản và được áp dụng phổ biến ở các nước đang phát triển
như chính sách cải cách ruộng đất ở Hàn Quốc, Đài Loan. Chính sách phân
phối lại từ tăng trưởng như chính sách nhằm tăng cường cơ hội giáo dục cho
nhiều người [29; tr. 147].

Nhìn chung, mô hình “Tăng trưởng đi đôi với Công bằng” là mô hình
có tính khả thi. Theo mô hình này, Chính phủ của các nước đã đưa ra các
chính sách thúc đẩy tăng trưởng nhanh, đồng thời đặt ra vấn đề bình đẳng,
công bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư dựa trên cơ sở
phát triển kinh tế tư nhân, khuyến khích dân cư làm giàu và thực hiện phân
phối thu nhập theo sự đóng góp của các nguồn lực.

1.4. Kinh nghiệm của một số nước giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội

Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam
hiện nay, nhất là các nước cùng ở trong khu vực Đông - Nam Á và có những
điểm tương đồng với nước ta như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản.

1.4.1. Trung Quốc

Tuy có những sự khác biệt về diện tích, lịch sử, dân số và mô hình quản
lý, nhưng giữa Trung Quốc và Việt Nam cũng có sự tương đồng vì cả hai
nước đều tiến hành chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế thị trường và đang ở trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Vào năm 1976, mức thu nhập bình quân đầu người của hai nước xấp xỉ
bằng nhau (khoảng 140 USD) [20].

Hơn ba mươi năm qua, với chính sách “cho phép một số người giàu
trước”, công cuộc cải cách mở cửa ở Trung Quốc đã giành được những thành
25

tựu to lớn và rất đáng khâm phục: từ một nền sản xuất lạc hậu trở thành nền
kinh tế tăng trưởng liên tục. Giai đoạn 1978 – 2007, tăng trưởng kinh tế hàng
năm tăng bình quân hơn 9% và có hàng chục năm đạt tốc độ tăng trưởng GDP
ở mức trên 10% (dấu hiệu của nền kinh tế cất cánh); thực lực kinh tế từ vị trí
thứ 10 tăng lên thứ 4 (sau Mỹ, Nhật Bản và Đức)- nếu tính GDP theo sức mua
tương đương (PPP) thì đứng hàng thứ 2 sau Mỹ, ngoại thương từ thứ 32 vươn
lên thứ 3, thu hút đầu tư nước ngoài đứng thứ 2 và dự trữ ngoại tệ đứng đầu
thế giới với 1.060 tỷ USD (năm 2006), so với 154 tỷ USD năm 2000.

Đời sống nhân dân từ chỗ chưa giải quyết được vấn đề no ấm, nay về
tổng thể đã bước vào giai đoạn khá giả, thu nhập bình quân đầu người tăng
trưởng nhanh đạt 2.485 USD (năm 2007), xếp hạng 99/170 quốc gia. Tỷ lệ
biết chữ ở người lớn (từ 15 tuổi trở lên) đạt 90,9% (trong giai đoạn 1995-
2005), tỷ lệ bác sĩ (trên 100.000 dân) là 106, mức độ điện khí hóa trong cả
nước là 99% [20; 41; 45; 46].

Trong khi tập trung cao độ cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, Trung
Quốc đã có phần xem nhẹ các mục tiêu công bằng xã hội. Hệ quả là kể từ
những năm 1990 trở đi, tiến bộ và phát triển xã hội của Trung Quốc đã chậm
lại một cách đáng kể và nhiều thách thức mới đã xuất hiện cùng với quá trình
tăng trưởng. Tình trạng công nhân bị sa thải hàng loạt, khan hiếm việc làm ở
nông thôn ngày càng tăng: tỉ lệ thất nghiệp vào giữa những năm 1990 từ 3%
đã tăng lên gần 5% (năm 2005) và hiện nay có thể lên tới 12-13%; số vụ đình
công từ 1.909 vụ năm 1994 đã tăng lên thành 22.600 vụ vào năm 2003.

Trong lĩnh vực giáo dục và y tế, người sử dụng các dịch vụ này phải
đóng phí nên đã làm xói mòn hệ thống an sinh xã hội của cả khu vực thành thị
và nông thôn. Chi phí y tế giờ đây đã trở thành một trong những nguyên nhân
quan trọng nhất gây nên tình trạng nghèo khó cùng cực ở Trung Quốc.
26

Ở cực kia của phân phối thu nhập, quá trình cổ phần hóa DNNN đã làm
cho một số người trở nên giàu có một cách nhanh chóng nhưng bất minh; tình
trạng chiếm đoạt đất đai, nhũng nhiễu cửa quyền của hệ thống hành chính
quan liêu đã làm cho bất bình đẳng xã hội ngày càng tăng nhanh. Ngoài ra,
tình hình ô nhiễm ở Trung Quốc đang xấu đi một cách trầm trọng. Hiện tại, sự
suy đồi đạo đức, sự mất lòng tin và thiếu an toàn xã hội đã dẫn tới những khó
khăn rất lớn cho sự phát triển và bước cải cách tiếp theo [46].

Tất cả những căn bệnh nêu trên đã làm cho đời sống xã hội và chính trị
của Trung Quốc ngày càng trở nên căng thẳng ở cả nông thôn và thành thị. Hệ
số Gini của Trung Quốc (2007) là 0,415 và chỉ số HDI là 0,772 - xếp hạng
92/182 quốc gia; khoảng cách giữa 10% dân số nghèo nhất và 10% dân số
giàu nhất là 21,6 lần; giữa 20% dân số nghèo nhất và 20% dân số giàu nhất là
12,2 lần; nhóm 20% người giàu nhất tiêu dùng 50% GDP và 20% người
nghèo nhất tiêu dùng 5,4% GDP [42].

Nhận thức được những nguy cơ tiềm ẩn của tình trạng này, đồng thời
phê phán quan điểm tuyệt đối hóa tăng trưởng kinh tế của những năm 1990,
Đại hội toàn quốc lần thứ XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đề ra mục
tiêu xây dựng một xã hội “tiểu khang” (tạm dịch là khá giả) vào năm 2020.
Xã hội “tiểu khang” là một xã hội trong đó sự thịnh vượng kinh tế được chia
sẽ tương đối đồng đều cho mọi người dân sao cho hầu hết mọi người đều trở
nên khá giả (thuộc tầng lớp trung lưu) và xã hội ngày một công bằng hơn.

Tuy nhiên, những vấn đề cố hữu như tham nhũng tràn lan, môi trường
suy thoái, dịch vụ y tế và giáo dục chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh
tế cùng với những bất bình đẳng giữa thành thị-nông thôn, giữa trung ương –
địa phương, và một số vấn đề về công bằng xã hội vẫn còn là những thách
thức lớn mà Trung Quốc buộc phải tập trung giải quyết.
27

1.4.2. Hàn Quốc

Hàn Quốc cũng là một đất nước có sự tương đồng với Việt Nam, từ một
dân tộc nghèo khó, chiến tranh, thậm chí chết đói vào những năm 1950, trong
vòng ba mươi lăm năm, Hàn Quốc đã chuyển từ nền nông nghiệp lạc hậu sang
sản xuất công nghiệp cạnh tranh toàn cầu, từ một trong những nước nghèo
nhất thế giới đã trở thành nước có nền công nghiệp phát triển và hiện đại, từ
một nước kém phát triển đã vượt qua giai đoạn tăng trưởng ban đầu và sau đó
thành công trong giai đoạn phát triển bền vững.

Chỉ hơn ba thập kỷ, Hàn Quốc đã tạo ra sự tăng trưởng ngoạn mục mà
hầu như không cần nhiều đầu tư quốc tế và đã theo đuổi một hướng đi khác
để nhập khẩu công nghệ hiện đại và tiếp cận thị trường. Tăng trưởng dựa trên
tiết kiệm của quốc gia và của từng doanh nghiệp và do chính những người
Hàn Quốc quản lý. Hàn Quốc là một quốc gia thiếu tài nguyên thiên nhiên, tài
nguyên khoáng sản nghèo nàn của Hàn Quốc chỉ có tungsten, than đá, quặng
sắt, đá vôi, kaolinit và graphit. Nước này không có dầu, và vì vậy chương
trình đầy tham vọng của Hàn Quốc nhằm xây dựng các nhà máy năng lượng
hạt nhân đã được thực hiện.

Tài sản lớn nhất của Hàn Quốc chỉ là số dân biết chữ, cần cù và không
có kỹ năng.Trong quá trình công nghiệp hóa, Hàn Quốc đã chú trọng vào các
ngành công nghiệp nhẹ cần nhiều lao động, làm hàng xuất khẩu và xóa bỏ
dần dần các hạn chế đối với nhập khẩu. Nhờ vậy, tốc độ tăng trưởng liên tục
tăng cao cùng với tốc độ gia tăng dân số giảm xuống và tỷ lệ lao động nông
nghiệp đã giảm từ 46% năm 1963 còn 7% năm 2003.

Kết quả là GDP của Hàn Quốc vào năm 2004 là 680 tỉ USD, đứng thứ 12
trên thế giới; đời sống của nhân dân ngày một nâng cao, từ một trong 25
nước nghèo nhất thế giới với mức thu nhập bình quân đầu người đạt 100 USD
28

lần đầu tiên vào năm 1963 [22; tr. 165], nhưng chỉ sau 4 thập kỷ Hàn Quốc đã
trở thành quốc gia có thu nhập bình quân đầu người đạt 11.000 USD, hiện
nay, thu nhập bình quân đầu người của Hàn Quốc là 19.983 USD, xếp thứ
28/170 quốc gia trên thế giới [45]; chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu xếp
hạng 11.

Sự thành công về tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc là nhờ có chính
sách đúng đắn trong các lĩnh vực then chốt, nhất là các vấn đề về giáo dục, y
tế và công bằng xã hội. Hệ thống giáo dục - đào tạo của Hàn Quốc rất chú
trọng tới hoạt động dạy nghề và rèn luyện kỹ năng để đáp ứng nhu cầu của
các doanh nghiệp chế tạo đang ngày một lớn mạnh. Ngay cả những chiến lược
công nghiệp có tính định hướng của chính phủ cũng được bắt đầu bằng việc
đầu tư vào vốn con người. Ví dụ như trong những năm 1970 và 1980, hàng
trăm sinh viên Hàn Quốc đã ra nước ngoài để học về các ngành liên quan đến
công nghệ đóng tàu tại những trường đại học hàng đầu của thế giới, khi trở về
đã đóng vai trò then chốt trong việc ra đời ngành công nghiệp đóng tàu của
Hàn Quốc. Hàn Quốc đã thực hiện công nghiệp hóa trên cơ sở phát triển giáo
dục và đào tạo. Tỉ trọng dành cho giáo dục vào cuối thập niên 1950 chỉ có
dưới 10% ngân sách nhà nước, nhưng đã tăng liên tục lên 15% – 18% trong
thập niên 1960, và 19% - 21% trong đầu thập niên 1980. Hàn Quốc là một
trong những nước có tỉ lệ sinh viên du học (so với tổng số sinh viên) và tỉ lệ
người du học trở về (so với tổng số sinh viên du học) rất cao. Thành quả này
là nhờ có các cơ chế liên quan đến việc thi tuyển và đãi ngộ người tài [34].

Ngoài ra, với hệ thống y tế có chi phí vừa phải, Hàn Quốc đã giúp nhiều
gia đình tránh được bẫy nghèo do chi phí y tế quá cao và mất thu nhập khi gia
đình có người ốm [4; tr. 12, 13, 47]. Tỷ lệ bác sĩ (trên 100.000 dân) giai đoạn
2000-04 là 157. Theo báo cáo (2009) của UNDP: hệ số Gini của Hàn Quốc
năm 2007 là 0,316; tuổi thọ trung bình là 79,2 tuổi (năm 2007); chỉ số HDI là
29

0,937 (xếp hạng 26/182 quốc gia); khoảng cách giữa 10% dân số nghèo nhất
và 10% dân số giàu nhất là 7,8 lần; giữa 20% dân số nghèo nhất và 20% dân
số giàu nhất là 4,7 lần, bất công xã hội ngày một thu hẹp lại [42].

Có thể nói, Chính phủ Hàn Quốc đã thành công trong việc kết hợp giữa
tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, góp phần đưa đất nước Hàn Quốc
phát triển nhanh chóng, toàn diện và bền vững như ngày nay.

1.4.3. Nhật Bản

Với lịch sử phát triển hàng ngàn năm, Nhật Bản cũng có nhiều điểm
tương đồng với Việt Nam về phong tục tập quán, tín ngưỡng và tôn giáo của
phương đông. Là một nước rất nghèo nàn về tài nguyên, kinh tế bị tàn phá
kiệt quệ trong Thế chiến thứ hai, nhưng với các chính sách phù hợp, kinh tế
của Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi , tăng trưởng cao liên tục, đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và ngày nay trở
thành một nền kinh tế phát triển lớn thứ 2 trên thế giới.

Có thể nói, xuất khẩu là lĩnh vực thành công điển hình của Nhật Bản.
Mặc dù rất hạn chế về tài nguyên, nhưng Nhật Bản đã tập trung cho các chính
sách xuất khẩu nhằm phát triển công nghiệp. Ngoài những ngành công nghiệp
có lợi thế nhờ chi phí nhân công thấp (như thủ công mỹ nghệ, dệt may và các
ngành công nghiệp quy mô nhỏ khác), Nhật Bản đã bước vào được các thị
trường sản phẩm phức tạp và tinh vi hơn, thâm dụng vốn và công nghệ cao
hơn. Những mặt hàng xuất khẩu chính của Nhật Bản hiện nay là: thiết bị giao
thông vận tải, xe cơ giới, hàng điện tử, máy móc điện tử và hóa chất.
Bên cạnh đó, Nhật Bản cũng phải nhập khẩu rất nhiều loại hàng hóa đa dạng
như chất đốt, thực phẩm (đặc biệt là thịt bò), nguyên liệu dệt may và những
nguyên liệu khác. Nhờ vậy, nhiều ngành công nghiệp quy mô nhỏ đã phát
triển nở rộ, sản xuất thức ăn và công nghiệp bán lẻ là những ngành điển hình.
30

Nhờ những chính sách trên, tốc độ phát triển kinh tế của Nhật Bản đạt
được "sự thần kì". Trong giai đoạn 1950 - 1987, trung bình hàng năm đạt
7,1%; giai đoạn 1980 – 1990, tuy giảm nhưng vẫn đạt 4% [2; tr. 63 và tr. 71].
Nhật Bản ngày nay là quốc gia dẫn đầu thế giới trong các lĩnh vực về nghiên
cứu khoa học, y học, công nghệ máy móc; là nước có nhiều tập đoàn tài
chính, ngân hàng, cán cân thương mại dư thừa và dự trữ ngoại tệ đứng hàng
đầu thế giới; là nước cho vay, viện trợ tái thiết và phát triển lớn nhất thế giới.

Thu nhập bình quân đầu người của Nhật vào năm 1960 chỉ là 480 USD
(Mỹ là 2.879 USD - gấp 6 lần Nhật Bản). Nhưng chỉ sau hơn bốn thập kỷ,
Nhật Bản hiện nay đã đạt 34.254 USD/ người, xếp hạng 28/170 quốc gia trên
thế giới và hầu như đã đuổi kịp Mỹ [45].

Nguồn lực con người là nhân tố rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế
thành công của Nhật bản. Nhật Bản đã đầu tư một cách hết sức mạnh mẽ cho
giáo dục ở tất cả các cấp. Từ năm 1947, Nhật Bản áp dụng hệ thống giáo dục
bắt buộc gồm tiểu học và trung học trong chín năm cho học sinh từ sáu đến
mười lăm tuổi. Hầu hết sau đó đều tiếp tục chương trình trung học và khoảng
75,9% học sinh tốt nghiệp phổ thông tiếp tục học lên bậc đại học, cao đẳng
hay các chương trình trao đổi giáo dục khác.

Về y tế, các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở Nhật Bản chủ yếu được cung
cấp bởi chính quyền trung ương và địa phương. Từ năm 1973, tất cả người già
đều được cung cấp miễn phí các loại hình bảo hiểm sức khỏe do chính phủ đài
thọ, trong đó bệnh nhân được tùy chọn cơ sở họ muốn cùng các hình thức
chăm sóc sức khỏe phù hợp nhất. Tỷ lệ bác sĩ (trên 100.000 dân) là 198. Nhật
Bản là một trong những nước có tuổi thọ dân số cao nhất thế giới, trung bình
là 82,7 tuổi (năm 2007).
31

Hệ số Gini của Nhật Bản năm 2007 là 0,249 cao nhất thế giới (tiếp theo
là Thụy Điển: 0,25 và Na-Uy là 0,258); chỉ số HDI của Nhật Bản là 0,960
(xếp hạng 10/182 quốc gia); khoảng cách giữa 10% dân số nghèo nhất và
10% dân số giàu nhất là 4,5 lần; giữa 20% dân số nghèo nhất và 20% dân số
giàu nhất là 3,4 lần và bất công xã hội ngày một thu hẹp lại [42].

Tóm lại, Nhật Bản đã thành công trong việc kết hợp giữa sự tăng
trưởng nhanh về kinh tế với sự phân phối thu nhập tương đối đồng đều đưa
đất nước đạt tới sự thịnh vượng , xã hội ngày một công bằng hơn và xứng
đáng nhận được sự tôn trọng của cộng đồng quốc tế.

1.5. Những bài học kinh nghiệm rút ra về sự kết hợp giữa tăng trưởng
kinh tế với công bằng xã hội

Các mô hình và kinh nghiệm thành công cũng như không thành công của
các nước đi trước về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công
bằng xã hội đã đem lại cho chúng ta những bài học kinh nghiệm sau:

1.5.1. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện công bằng xã hội

Tăng trưởng kinh tế tạo khả năng tăng thu ngân sách nhà nước và tăng
thu nhập dân cư. Nhờ có tăng trưởng kinh tế, Nhà nước và nhân dân mới có
tích lũy để tăng chi đầu tư phát triển trên các lĩnh vực chủ yếu như hạ tầng
giao thông, giáo dục, y tế, nghề nghiệp, giải trí…nhằm mở rộng cơ hội lựa
chọn cho mọi người và giúp người dân ngày càng phát triển toàn diện hơn
(kinh nghiệm Nhật Bản và Hàn Quốc).

Không thể có công bằng xã hội trong nền kinh tế ở trình độ phát triển
thấp kém (suy thoái, thiếu hụt, khủng hoảng..) và người dân còn nhiều vấn đề
phải lo toan về những nhu cầu cơ bản hàng ngày của cuộc sống ( như ăn, mặc,
ở, đi lại, được chăm sóc sức khỏe, được giáo dục cơ bản và được hưởng các
dịch vụ cần thiết khác). Nếu không có tăng trưởng kinh tế thì không thể có
32

công bằng xã hội lâu dài và vì vậy không thể phát triển bền vững được.

Tuy nhiên, cũng không thể chấp nhận quan điểm tăng trưởng kinh tế
bằng mọi giá vì đó là tăng trưởng không bền vững.

1.5.2. Tăng trưởng kinh tế đến đâu phải thực hiện ngay công bằng xã
hội đến đấy

Tăng trưởng kinh tế tự nó không thể đem đến công bằng xã hội được
(kinh nghiệm Trung Quốc) và cũng không thể chờ đợi đến khi trình độ kinh tế
phát triển cao mới thực hiện công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải đi
kèm với việc tạo dựng nhiều cơ hội việc làm, sử dụng tối đa sức lao động xã
hội nhằm tạo điều kiện cho người lao động chuyển từ việc làm có thu nhập
thấp sang việc làm có thu nhập cao hơn, chuyển từ khu vực sản xuất nông
nghiệp sang những việc làm có năng suất cao hơn trong khu vực sản xuất
công nghiệp hay dịch vụ (Hary T. Oshima)

Đồng thời, tăng trưởng kinh tế phải tạo cơ hội cải thiện tình hình của
những người nghèo nhất, thu hẹp dần khoảng cách giàu - nghèo, thu hẹp sự
khác biệt giữa nông thôn - thành thị nhằm giảm bớt tình trạng bất bình đẳng
xã hội thông qua một cơ chế tái phân phối phần của cải được tạo ra thêm nhờ
tăng trưởng (kinh nghiệm Hàn Quốc và Nhật Bản).

1.5.3. Thực hiện công bằng xã hội phải dựa trên những thành quả của
tăng trưởng kinh tế

Công bằng xã hội mà không dựa trên những thành quả của tăng trưởng
kinh tế thì không tạo ra động lực trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sẽ
dẫn đến suy giảm kinh tế, mất ổn định chính trị (trường hợp các nước xã hội
chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam trước đây). Công bằng xã hội không phải là
cào bằng, không phải là làm cho mọi người có mức thu nhập bằng nhau.
33

Thực hiện phân phối thu nhập phải dựa theo nguyên tắc: gắn quyền lợi
với nghĩa vụ, gắn cống hiến với hưởng thụ, gắn với kết quả lao động, hiệu quả
kinh tế và theo mức đóng góp của các nguồn lực. Các cố gắng để phân phối
lại thu nhập “một cách hấp tấp, vội vã” sẽ dẫn đến nguy cơ bóp nghẹt tăng
trưởng kinh tế (Arthur Lewis).

Nguồn lợi thu được từ tăng trưởng kinh tế cần được phân phối lại sao
cho cùng với thời gian thực hiện tăng trưởng, phân phối thu nhập dần được
cải thiện hoặc ít nhất là không xấu đi trong khi quá trình tăng trưởng vẫn tiến
lên (Ngân hàng Thế giới - WB).

1.5.4. Công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực quan trọng
nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững

Có thể nói mục tiêu của mọi chính sách phát triển bền vững là nhằm kiến
tạo một xã hội công bằng và thịnh vượng. Công bằng xã hội là một trong
những động lực phát triển kinh tế - xã hội vì nó là yếu tố tác động trực tiếp
đến lợi ích của chủ thể hoạt động, nó kích thích tính năng động, sáng tạo và
nhiệt tình của mọi thành viên trong xã hội.

Việc thực hiện công bằng xã hội phải tạo ra động lực để tăng trưởng kinh
tế chứ không phải là nguyên nhân kìm hãm tăng trưởng kinh tế. Công bằng xã
hội là một trong những điều kiện không thể thiếu được để có tăng trưởng kinh
tế cao và bền vững. Rõ ràng, công bằng xã hội không đối lập với tăng trưởng
kinh tế, ngược lại, công bằng xã hội là một động lực quan trọng nhằm đảm
bảo tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.

Tăng trưởng – Công bằng chính là mục tiêu kép của mọi quốc gia và là
một quá trình phát triển lâu dài, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
34

Tóm tắt chương 1

Trong chương 1, luận văn đã trình bày tổng quát lý luận chung về tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội bao gồm các khái niệm về tăng trưởng
kinh tế, phát triển kinh tế, phát triển bền vững, bất bình đẳng xã hội và công
bằng xã hội; các tiêu chí đo lường tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
(bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, chỉ số nghèo khổ, chỉ số phát triển
con người); trình bày các mô hình lựa chọn giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội (Tăng trưởng trước-Công bằng sau; Công bằng trước-Tăng
trưởng sau và Tăng trưởng đi đôi với Công bằng); kinh nghiệm giải quyết mối
quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng tại các nước có nhiều tương đồng với
Việt Nam (như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản), từ đó rút ra những bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội.

Đây cũng chính là những cơ sở để phân tích, đánh giá thực trạng và đề ra
những giải pháp cho việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội tại thị xã Bà Rịa trong các phần tiếp theo của luận văn.
35

Chương 2

THỰC TRẠNG VỀ SỰ KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ


CÔNG BẰNG XÃ HỘI TẠI THỊ XÃ BÀ RỊA (1995 – 2009)

2.1. KHÁI LƯỢC ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ-XÃ HỘI THỊ XÃ BÀ RỊA

Bà Rịa là một thị xã thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, nằm trong vùng kinh
tế trọng điểm phía nam. Thị xã Bà Rịa được thành lập từ ngày 02 tháng 6 năm
1994 (do chia huyện Châu Thành thành huyện Châu Đức, huyện Tân Thành
và thị xã Bà Rịa) và đi vào hoạt động từ ngày 15-8-1994. Thị xã Bà Rịa hiện
có 11 đơn vị hành chính gồm 8 phường và 3 xã, với tổng diện tích tự nhiên là
91,46 km2, dân số trung bình tại thời điểm 01/4/2009 là 93.576 người, mật độ
1.023 người/km2, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2009 là 9,6 ‰.

Thị xã Bà Rịa là một đầu mối giao thông của các tuyến quốc lộ là 51, 55,
56 và tỉnh lộ 52; cách Thành phố Hồ Chí Minh 90 km về phía Đông Bắc, cách
Vũng Tàu 20 km về hướng Tây Bắc. Phía Bắc thị xã Bà Rịa giáp huyện Châu
Đức và một phần huyện Tân Thành; phía Nam giáp thành phố Vũng Tàu; phía
Đông giáp huyện Long Điền; phía Tây giáp huyện Tân Thành.

Thị xã Bà Rịa có những đặc điểm thuận lợi về kinh tế-xã hội và những
tồn tại, thách thức như sau:

2.1.1. Về lĩnh vực kinh tế

Thị xã Bà Rịa có nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế. Thiên nhiên đã
ưu đãi cho Bà Rịa nguồn tài nguyên tương đối phong phú và điều kiện sinh
thái đa dạng để phát triển các ngành kinh tế biển (cảng sông, vận tải đường
thủy, khai thác và chế biến hải sản), nông-lâm nghiệp, công nghiệp chế biến,
khai thác và đặc biệt là các ngành dịch vụ, thương mại. Bà Rịa có vị trí gần
như trung tâm về mặt địa lý, hệ thống giao thông thuận lợi, kết cấu hạ tầng
36

kinh tế - kỹ thuật đã được cải thiện đáng kể đáp ứng nhu cầu phát triển kinh
tế. Cùng với Phú Mỹ, Bà Rịa còn là một trung tâm điện năng lớn của cả nước.
Hệ thống sản xuất nước sạch lớn nhất tỉnh cũng nằm ở Bà Rịa với công suất
43.000 m³ mỗi ngày đêm. Trong tương lai, Bà Rịa còn là Trung tâm hành
chính-chính trị, kinh tế-xã hội và an ninh-quốc phòng của Tỉnh nên có thuân
lợi cho việc phát triển các ngành dịch vụ chất lượng cao (như Y tế, giáo dục-
đào tạo, viễn thông-tin học, tài chính- ngân hàng…).

Tuy nhiên, thách thức lớn nhất hiện nay của thị xã Bà Rịa là nhiều
tiềm năng chưa được khai thác và sử dụng hiệu quả (đất, nước, sinh vật,
nguồn nhân lực…); sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; lao động có trình
độ cao còn thiếu; nguy cơ ô nhiễm môi trường còn tiềm ẩn.

2.1.2. Về xã hội

Thị xã có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc phát triển y tế, giáo dục,
văn hóa, xã hội và cải thiện không ngừng đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân địa phương.

Về Y tế, mạng lưới y tế cơ bản được kiện toàn với đội ngũ y, bác sĩ có
trình độ chuyên môn; công tác phòng chống dịch bệnh và chăm sóc sức khỏe
ban đầu của người dân được chăm lo chu đáo. Về giáo dục-đào tạo, hệ thống
trường, lớp và trang thiết bị, đồ dùng dạy học được đầu tư đồng bộ tạo nhiều
cơ hội học tập thuận lợi cho nhân dân; công tác khuyến học khuyến tài được
quan tâm. Về hoạt động văn hóa, thể thao ở Bà Rịa đạt nhiều tiến bộ: mức
hưởng thụ văn hóa của người dân thị xã năm 2009 là 44 lần/người/năm, tỷ lệ
gia đình văn hóa là 97,19%; Trung tâm văn hóa-học tập cộng đồng phát triển
rộng khắp các phường, xã.

Ngoài ra, cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi xã hội ở Bà Rịa được
đầu tư, nâng cấp khang trang và hiện đại; tệ nạn xã hội được ngăn chặn và đẩy
37

lùi; công tác cải cách hành chính bước đầu có nhiều chuyển biến tích cực.
Công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, công tác chính sách xã hội
và đền ơn đáp nghĩa được quan tâm.

Bên cạnh đó, Thị xã Bà Rịa vẫn còn một số tồn tại và thách thức về
mặt xã hội như chưa đáp ứng kịp yêu cầu nâng cao chất lượng khám chữa
bệnh; chất lượng giáo dục còn bất cập; kết quả công tác xóa đói-giảm nghèo
chưa được vững chắc.

2.1.3. Các chỉ số kinh tế - xã hội cơ bản của thị xã Bà Rịa

 Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 1995 – 2009 đạt bình quân
18,8%/năm.

 GDP/người năm 2009 là 2.440 USD, tăng gấp 8 lần so với năm 1995.

 Cơ cấu ngành trong GDP: CN 65,77%; DV 29,13% và NN 5,1%.

 Cơ cấu lao động theo ngành: CN 29,32%; DV 37,67% và NN 33,01%.

 Vốn đầu tư phát triển/GDP giai đoạn 1995 – 2009 đạt bình quân
09,92%/năm.

 Số trường (mầm non, tiểu học, THCS, THPT và GDTX) đạt chuẩn
quốc gia 20/34, tỉ lệ 58,82%. Số học sinh nhập học phổ thông (tiểu học,
THCS và THPT) là 18.502, đạt 1.972 học sinh phổ thông/1 vạn dân.

 Số trạm y tế phường, xã đạt chuẩn quốc gia 8/11, tỉ lệ 72,72%.

 Đến cuối năm 2009, số hộ nghèo theo chuẩn của Tỉnh là 217 hộ, tỉ lệ
0,87%

 Về hạ tầng cơ sở: 100% dân số sử dụng điện lưới quốc gia và nước
sạch; 100% xã, phường có chợ, trạm y tế, trường tiểu học, trung tâm
văn hóa – học tập cộng đồng.
38

2.2. Tăng trưởng kinh tế của thị xã Bà Rịa giai đoạn 1995-2009

2.2.1. Tốc độ tăng trưởng GDP và GDP bình quân đầu người

Một trong những thành tựu nổi bật nhất về tăng trưởng kinh tế của thị xã
Bà Rịa giai đoạn 1995 - 2009 là tốc độ tăng trưởng GDP tăng cao, đạt bình
quân 18,80 %/năm. Trong giai đoạn này, năm 1996 đạt mức thấp nhất là
7,78%; năm 1999 và năm 2006 đạt mức cao nhất là 27,72% và 25.39%. Đặc
biệt, giai đoạn 1998-2004, tốc độ tăng trưởng GDP đạt bình quân 20,82 %.

Trong vòng 15 năm (1995-2009), GDP của Thị xã (theo giá so sánh
1994) đã tăng từ 392.805 triệu đồng năm 1995 lên 4.325.487 triệu đồng năm
2009, tăng 11 lần (phụ lục 2.2.1).

Biểu đồ 3: Tăng trưởng GDP của thị xã Bà Rịa 1996-2009

30%
2 7 .7 2%

2 5 .3 9%
25% 2 4 .0 3%

2 0 .4 6% 2 0 .8 4%
19 .2 2% 19 .2 8%
20% 18.47 %
17 .9 2% 17 .9 8% 17 .4 6%
Tốc độ

15% 14 .2 1%
12 .4 3%

10%
7.78 %

5%

0%
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Năm

(Nguồn: Niên giám thống kê của Thị xã qua các năm; tổng hợp và tính toán của tác giả)

Tăng trưởng kinh tế cao đã tạo điều kiện tăng trưởng thu nhập bình
quân đầu người từ 305 USD năm 1995 (theo giá thực tế) lên 639 USD năm
2000, vượt ngưỡng 1.000 USD vào năm 2004 là 1.121 USD và vượt ngưỡng
39

2.000 USD vào năm 2008 là 2069 USD và năm 2009 là 2.440 USD, tăng gấp
8 lần so với năm 1995. Tính bình quân trong giai đoạn 1995-2009, tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân đầu người (theo giá thực tế) của Thị xã là 16,16%.

Biểu đồ 4: Tăng trưởng GDP/người của thị xã Bà Rịa 1995-2009

3000

2440
2500

2069
2000
GDP/người (USD)

1776
1540
1500 1323
1121
968
1000 818
713
639
409 474
500 343 387
305

0
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Năm

(Nguồn: Niên giám thống kê của thị xã Bà Rịa qua các năm)

2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

2.2.2.1. Cơ cấu ngành chuyển dịch theo xu hướng tiến bộ

Tăng trưởng kinh tế cao của thị xã Bà Rịa trong thời gian qua là kết quả
của sự chuyển dịch trong cơ cấu nền kinh tế. Đặc biệt, cơ cấu ngành kinh tế
đã chuyển dịch theo xu hướng tiến bộ: tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp
và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản.

Khu vực công nghiệp và xây dựng liên tục tăng trưởng cao, giá trị sản
xuất (tính theo giá so sánh 1994) tăng bình quân 20,17%/năm, cơ cấu giá trị
tăng thêm năm 2009 đạt tỷ trọng 62,91%, so với năm 1995 tăng 12,95% (phụ
lục 2.4.1.2). Tỷ trọng giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng hiện nay
(tính theo giá thực tế) tăng liên tục từ 60,82% GDP năm 1995 lên 70,02%
40

năm 2004 và 71,39% năm 2007, đến năm 2009 giảm còn 65,77% GDP,
nhưng vẫn cao hơn 4,95% so với năm 1995. Đặc biệt, ngành xây dựng có
những bước phát triển khá, việc xây dựng đô thị, xây dựng nhà ở có nhiều tiến
bộ theo hướng hiện đại.

Riêng khu vực dịch vụ có bước phát triển cả về qui mô, ngành nghề và
thị trường. Giá trị sản xuất (tính theo giá so sánh 1994) của các ngành dịch vụ
tăng bình quân 18,83%/năm. Tỷ trọng ngành dịch vụ (tính theo giá thực tế) từ
25,27% GDP năm 1995- tăng 26,38% năm 1999- giảm còn 24,21% năm 2000
và giảm dần còn 22,14% năm 2006, đến năm 2007 tăng 22,86% và năm 2009
tăng mạnh lên 29,13% GDP (cao hơn 3,86% so với năm 1995). Một số ngành
dịch vụ phát triển khá như: vận tải, bưu chính-viễn thông, khách sạn, ăn uống,
ngân hàng, bảo hiểm, y tế, đào tạo…Điều này cho thấy cơ cấu ngành kinh tế
của Thị xã đã bắt đầu chuyển dịch theo xu hướng hiện đại.

Biểu đồ 5: Cơ cấu (%) ngành kinh tế theo giá thực tế của Thị xã

80
70.02 69.97 71.23 71.39
67.88 69.13 69.19
66.94 67.15 65.77
70 62.27 62.61 62.72
64.15
60.82

60

50

40
29.13
26.12 26.38 27.5
25.27 25.52 25.66
30 24.21 23.93 23.69 23.73 22.69 22.86
22.57 22.14

20 13.91
12.21 11.74 11.16
9.47 8.85 8.19 7.17 7.08 7.42 7.34 6.63 5.76 5.35 5.1
10

0
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009

CN DV NN
(Nguồn : Niên giám Thống kê Thị xã )

Bên cạnh đó, khu vực nông nghiệp có phát triển tích cực; giá trị sản xuất
nông, lâm nghiệp và thủy sản (tính theo giá so sánh 1994) tăng bình quân
41

8,11%/năm. Các sản phẩm như rau-cải, trái cây, thịt xô các loại, cá, tôm tươi
sống, trứng gia cầm..có nhiều lợi thế cạnh tranh trên thị trường do giá cả phải
chăng và chất lượng bảo đảm. Bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân ngày
càng được cải thiện. Đồng thời, tỷ trọng ngành nông - lâm - thủy sản (tính
theo giá thực tế) trong GDP giảm liên tục: từ 13,91% GDP năm 1995 giảm
còn 7,08% năm 2003, chỉ tăng nhẹ 7,42% năm 2004 và tiếp tục giảm còn
5,10% GDP năm 2009 (giảm 8,81% so với năm 1995). Đây là xu hướng tiến
bộ trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế (phụ lục 2.2.2.1).

2.2.2.2. Cơ cấu lao động và cơ cấu dân số đã có sự chuyển dịch tích cực

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã tạo ra sự phân công lao động xã
hội mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Biểu đồ 6: Cơ cấu lao động (%) theo ngành kinh tế của Thị xã qua các năm

100%

90%

80% 37.79 37.79 35.46 37.67

70%
Cơ cấu lao động

60% Dịch vụ
14.83 23.54
50% 27.71 29.32 Công nghiệp
40% Nông nghiệp
30%
47.38
20% 41
34.5 33.01
10%

0%
1995 2000 2005 2009

Năm

(Nguồn: Niên giám thống kê của Thị xã - Tác giả tổng hợp và tính toán)
42

Cụ thể là so với năm 1995, tỉ trọng lao động đang làm việc trong khu vực
công nghiệp và dịch vụ tăng từ 52,62% năm 1995 lên 66,99% năm 2009
(trong đó, khu vực dịch vụ, tỉ trọng lao động giảm nhẹ 0,12% từ 37,79% năm
1995 xuống còn 37,67% năm 2009); thay vào đó là tỉ trọng lao động trong
khu vực nông nghiệp từ 47,38% đã giảm 14,37% còn 33,01% năm 2009. Nhìn
chung, cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành và cơ cấu lao động xã hội làm cho
dân số thành thị ở Thị xã tăng, góp phần đẩy nhanh tiến trình đô thị hóa.

Biểu đồ 7: Phát triển dân số thành thị của thị xã Bà Rịa qua các năm

2009 65.556
93.576

2005 61.053 DS nông thôn


85.959
Năm

DS thành thị
2000 46.333 Dân số TB
79.691

1995 39.482
68.189

0 20 40 60 80 100
Đơn vị tính: người

(Nguồn: Niên giám thống kê của thị xã Bà Rịa qua các năm)

Năm 1995, thị xã Bà Rịa có 8 xã, phường với dân số trung bình là
68.189 người, trong đó cơ cấu dân số thành thị là 39.482 người, chiếm tỷ
trọng 57,90%. Đến năm 2009, thị xã Bà Rịa có 11 xã, phường với dân số
trung bình là 93.576 người, trong đó cơ cấu dân số thành thị là 65.556 người,
chiếm tỷ trọng 70,06%; tương ứng dân số nông thôn từ 28.707 người năm
43

1995, chiếm 42,10% giảm còn 28.020 người năm 2009, chiếm 29,94%. So
với năm 1995, dân số trung bình của Thị xã năm 2009 tăng 1,37 lần và thấp
hơn mức tăng dân số thành thị (năm 2009 so với năm 1995 mức tăng dân số
thành thị là 1,66 lần).

Thị xã Bà Rịa đã được công nhận là đô thị loại III (theo quyết định số
574/QĐ-BXD ngày 16-4-2007 của Bộ Xây dựng) và đang phấn đấu vươn lên
đô thị loại II, tương xứng với vai trò là trung tâm hành chính - chính trị - văn
hóa của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong thời gian tới.

2.2.3. Vốn đầu tư phát triển

Vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước (của Trung ương, Tỉnh và
Thị xã) đã tập trung cho những mục tiêu quan trọng như xây dựng kết cấu hạ
tầng giao thông, giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe, xóa đói - giảm
nghèo , văn hóa và thể dục, thể thao, chỉnh trang đô thị…Qua đó, đã góp phần
tăng cường tiềm lực cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế, làm tăng cơ hội
việc làm, tăng năng suất lao động, tăng thu nhập và do vậy tác động đến công
bằng xã hội.

Đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách nhà nước của thị xã Bà Rịa
trong giai đoạn 1995-2009 giữ vị trí quan trọng và chiếm tỷ trọng bình quân
18,73%/năm trong cơ cấu chi ngân sách nhà nước của Thị xã (năm 2005, đạt
tỷ trọng cao nhất là 37,80% và năm 2000 đạt tỷ trọng thấp nhất là 2,49%).

Ngoài nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, Thị xã còn kêu gọi đầu tư của
các doanh nghiệp trong và ngoài nước (như Cty Hanshin VINA, Cty Master
Interprise Hồng Kông…). Đầu tư ngoài quốc doanh ở Thị xã hiện nay tập
trung chủ yếu là triển khai các dự án đầu tư hạ tầng các cụm công nghiệp-
tiểu thủ công nghiệp, đầu tư cụm cảng Bà Rịa, đầu tư khai thác mỏ đất san
lấp, xây dựng các nhà máy, xí nghiệp, xưởng sản xuất, chung cư, nhà ở…..
44

Biểu đồ 8: Tỷ trọng (%) chi đầu tư phát triển trong cơ cấu chi NSNN của
thị xã Bà Rịa giai đoạn 1995-2009

40 37.8
35.02
35
30.03
30 27.11
24.06 24.76
25
20.92
18.56 18.49
20
14.49
15
10.28
10 8.15
6.03

5 2.49 2.83

0
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Năm

(Nguồn: Niên giám thống kê của thị xã Bà Rịa từ 1995 đến 2009, Tác giả tổng hợp)

Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội (theo giá thực tế) so với GDP
của Thị xã tăng nhanh, tính bình quân trong giai đoạn 1995-2009 đạt
09,92%/năm. Đặc biệt, giai đoạn 2005 - 2009 đạt bình quân một năm là
17,86% (phụ lục 2.2.3).

Riêng năm 2009, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội (theo giá thực tế) là
909.521 triệu đồng, chiếm 15,20% GDP; trong đó, cơ cấu nguồn vốn: do
Trung ương quản lý là 40.572 triệu đồng- chiếm 4,46% tổng số vốn đầu tư, do
Tỉnh quản lý là 145.082 triệu đồng- chiếm 15,95% tổng số vốn đầu tư, do Thị
xã quản lý là 363.370 triệu đồng- chiếm 39,95% tổng số vốn đầu tư, còn lại
nguồn vốn ngoài quốc doanh là 360.497 triệu đồng- chiếm 39,64% tổng số
vốn đầu tư.
45

Không chỉ tăng khối lượng vốn đầu tư, mà việc sử dụng vốn đầu tư phát
triển của Thị xã còn đạt hiệu quả cao. Tính bình quân trong giai đoạn 1996-
2009 hệ số ICOR của Thị xã là 0,56 : thấp nhất là năm 1998 với ICOR= 0,16
và cao nhất là năm 2005 với ICOR= 1,80; năm 2009 là 0,79 (Phụ lục 2.2.3).

2.2.4. Tăng trưởng năng suất lao động xã hội

Năng suất lao động xã hội của Thị xã trong những năm qua tăng khá
cao: năm 1995 là 9,019 Triệu đồng/người/năm, năm 2000 là 21,650 Triệu
đồng, năm 2005 là 51,225 Triệu đồng và năm 2009 là 87,297 Triệu
đồng/người/năm, gấp 9,68 lần so với năm 1995.

Bảng 2.2.4: Năng suất lao động xã hội của Thị xã qua các năm

Năm 1995 2000 2005 2009

GDP tăng thêm- giá thực tế 228.583 724.868 1.787.398 3.997.687

(Triệu đồng)

Lao động đang làm việc 25,344 33,481 34,893 45,794

(ngàn người)

Năng suất lao động 9,019 21,650 51,225 87,297

(Triệu đồng/người/năm)

(Nguồn: Niên giám thống kê của Thị xã và tác giả tính toán)

Năng suất lao động xã hội phân theo khu vực kinh tế của Thị xã - tính
theo giá trị tăng thêm (giá thực tế) năm 2009, cụ thể là:

- Khu vực nông-lâm nghiệp và thủy sản với 15.118 lao động đang làm
việc, có giá trị tăng thêm là 193.524 triệu đồng, đạt năng suất lao động là
12,801 triệu đồng/lao động/năm;
46

- Khu vực công nghiệp-xây dựng với 13.428 lao động đang làm việc có
giá trị tăng thêm là 2.514.761 triệu đồng đạt năng suất lao động là 187,277
triệu đồng/lao động/năm;

- Khu vực thương mại-dịch vụ với 17.248 lao động đang làm việc có giá
trị tăng thêm là 1.289.405 triệu đồng đạt năng suất lao động là 74,757 triệu
đồng/lao động/năm.

Một số ngành có năng suất lao động cao hơn mức bình quân năng suất
lao động xã hội của Thị xã hiện nay (87,297 triệu đồng/lao động/năm) là:

+ Sản xuất, phân phối điện-nước, đạt năng suất lao động là 3.408,164
triệu đồng/lao động/năm, cao gấp 39,04 lần năng suất lao động của Thị xã.

+ Tài chính, tín dụng, đạt năng suất lao động là 277,613 triệu đồng/lao
động/năm, cao gấp 3,18 lần năng suất lao động của Thị xã.

+ Công nghiệp khai thác mỏ, đạt năng suất lao động là 170,700 triệu
đồng/lao động/năm, cao gấp 1,96 lần năng suất lao động của Thị xã.

+ Xây dựng, đạt năng suất lao động là 123,829 triệu đồng/lao động/năm,
cao gấp 1,42 lần năng suất lao động của Thị xã.

Qua đó, có thể nói các ngành có năng suất lao động cao, đóng góp đáng
kể giá trị tăng thêm vào tăng trưởng kinh tế của Thị xã chính là những ngành:
ứng dụng khoa học-công nghệ cao (sản xuất, phân phối điện-nước); dịch vụ
chất lượng cao (tài chính-ngân hàng); và thâm dụng lao động ( xây dựng, khai
thác tài nguyên). Vì vậy, tiến bộ công nghệ và nguồn nhân lực chính là
những nhân tố quyết định nâng cao năng suất lao động xã hội (phụ lục 2.2.4).
47

2.3. Tác động của tăng trưởng kinh tế đến công bằng xã hội ở thị xã Bà
Rịa (1995-2009)

2.3.1. Về lao động và việc làm

Tăng trưởng kinh tế đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm, tạo điều kiện cho
người lao động chuyển từ việc làm có thu nhập thấp sang việc làm có thu
nhập cao hơn, chuyển từ khu vực sản xuất nông nghiệp sang những việc làm
có năng suất cao hơn trong khu vực sản xuất công nghiệp hay dịch vụ. Hiện
nay, lao động trong độ tuổi của Thị xã là 64.280 người chiếm 68,69% dân số,
chứng tỏ nguồn nhân lực trẻ. Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế
năm 2009 là 45.794 người, chiếm 71,24% lao động trong độ tuổi và so với số
lượng lao động đang làm việc năm 1995 tăng 1,8 lần. Cơ cấu lao động đang
làm việc phân theo khu vực kinh tế như sau (phụ lục 2.2.2.2):

+ Khu vực công nghiệp-xây dựng có 13.428 lao động, chiếm tỷ trọng
29,32% (so với năm 1995 tăng 14,49% và tính theo số lượng lao động tăng
3,57 lần)

+ Khu vực thương mại-dịch vụ có 17.248 lao động, chiếm tỷ trọng


37,67% (so với năm 1995 giảm 0,12%, nhưng tính theo số lượng lao động thì
tăng 1,8 lần).

+ Khu vực nông-lâm nghiệp và thủy sản có 15.118 lao động, chiếm tỷ
trọng 33,01% (so với năm 1995 giảm 14,37%, nhưng tính theo số lượng lao
động thì tăng 1,26 lần).

Các ngành thu hút nhiều lao động: trên 4 ngàn người bao gồm công
nghiệp chế biến (8.141 người), thương nghiệp-dịch vụ (7.449 người), xây
dựng (4.465 người); và các ngành sử dụng trên 1 ngàn và dưới 4 ngàn người
bao gồm khách sạn nhà hàng (3.288 người), giáo dục (1.469 người), vận tải
(1.307 người) và quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng (1.110 người).
48

2.3.2. Về giáo dục và đào tạo

Tăng trưởng kinh tế đã tạo ra khả năng tăng thu ngân sách. Nhờ vậy, chi
ngân sách cho giáo dục được quan tâm và đạt tỷ trọng cao. Trong giai đoạn
2001- 2009, tỷ trọng chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trong
tổng chi ngân sách nhà nước của Thị xã đạt bình quân hàng năm là 19,25 %,
mức thấp nhất là 15,81% năm 2006 và mức cao nhất là 26,09% năm 2004.
Tính theo số tuyệt đối thì ngân sách chi cho sự nghiệp giáo dục tại Thị xã tăng
nhanh: năm 2001 là 10.885 triệu đồng, năm 2003 là 18.210 triệu đồng, năm
2005 là 24.435 triệu đồng, năm 2007 là 30.622 triệu đồng, năm 2008 là
31.602 triệu đồng và năm 2009 là 37.832 triệu đồng.

Biểu đồ 9: Tỷ trọng (%) chi cho giáo dục trong cơ cấu chi NSNN của Thị xã

30

25

20

15
25.19 26.09

10 19.55 18.64
17.67 18.3
15.81 16.6
15.37

0
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Năm

(Nguồn: Niên giám thống kê của thị xã và tính toán của Tác giả)
49

Qua đó, cơ hội tiếp cận giáo dục của nhân dân ngày càng mở rộng:
mạng lưới cơ sở giáo dục được mở rộng ở hầu hết các xã, phường. Đến nay, ở
Thị xã có 10 trường mầm non và 8 cơ sở giáo dục mầm non tư thục; 11 xã,
phường có 13 trường tiểu học công lập; 7/11 xã, phường có trường trung học
cơ sở công lập; số trường trung học phổ thông công lập là 3 và 1 Trung tâm
giáo dục thường xuyên- Hướng nghiệp. Ngoài ra, mỗi xã, phường đều có
trung tâm văn hóa-học tập cộng đồng. Số trường được công nhận đạt chuẩn
quốc gia hiện nay là 20/34 trường, đạt tỉ lệ 58,82% (bao gồm 7/10 trường
mầm non, 7/13 trường tiểu học, 5/7 trường trung học cơ sở và 1/4 trường
trung học phổ thông và giáo dục thường xuyên). Hằng năm ở Thị xã đều tiến
hành chống xuống cấp (trường, lớp), bổ sung trang thiết bị, đồ dùng dạy học
nhằm đảm bảo cơ sở vật chất, phương tiện cho việc phục vụ dạy và học.

Tỷ lệ biết chữ và nhập học giáo dục các cấp ngày càng tăng. Do cơ sở
trường, lớp được mở rộng đều khắp phường, xã đã tạo điều kiện, cơ hội học
tập thuận lợi cho con em nhân dân địa phương. Kết quả huy động hàng năm:
tỷ lệ trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100%; tỷ lệ trẻ từ 11-14 tuổi học xong Tiểu học
đạt 98,4%; tỷ lệ trẻ học xong Tiểu học vào lớp 6 đạt 99,9%; tỷ lệ tốt nghiệp
THCS 2009 đạt 99,01%; tỷ lệ người 15-18 tuổi tốt nghiệp THCS đạt 90,8%;
tỷ lệ tốt nghiệp THPT năm 2009 đạt 75,35%. Số học sinh nhập học phổ thông
đạt 1.972 người/1 vạn dân. Các trường công lập giữ vai trò nồng cốt trong
việc hoàn thành và duy trì được hàng năm kết quả phổ cập giáo dục: toàn Thị
xã đã hoàn thành công tác xóa mù chữ vào năm 1994, đạt chuẩn phổ cập giáo
dục tiểu học năm 1996, đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và
đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2003. Hiện nay, Thị xã đang
thực hiện công tác phổ cập giáo dục trung học phổ thông.

Tạo nhiều cơ hội học tập đa dạng. Việc huy động nguồn lực trong xã
hội đầu tư cho giáo dục thông qua chủ trương xã hội hóa đã đạt một số tiến
50

bộ. Một số trường dân lập, tư thục ở các bậc học mầm non, dạy nghề đã được
thành lập. Bên cạnh hệ thống giáo dục phổ thông, trên địa bàn Thị xã còn có 1
trường Cao đẳng Sư phạm công lập, 1 trường Trung học chuyên nghiệp của
Công an Biên phòng, 1 trường Cao đẳng nghề tư thục, 1 trường Trung học
chuyên nghiệp (chi nhánh của Đại học tư thục Hồng Bàng), một số lớp liên
kết đào tạo (vừa làm, vừa học) với các Trường Cao đẳng, Đại học (trong và
ngoài Tỉnh), một số cơ sở tư nhân dạy tin học, ngoại ngữ…Qua đó, hệ thống
giáo dục quốc dân trên địa bàn Thị xã ngày càng được hoàn thiện với các cấp
học, bậc học, trình độ đào tạo, với nhiều loại hình, phương thức giáo dục.. tạo
nhiều cơ hội học tập đa dạng cho nhân dân.

2.3.3. Về y tế

Tăng trưởng kinh tế đã tạo điều kiện đầu tư và phát triển hệ thống y tế.
Qui mô và năng lực cung ứng dịch vụ của hệ thống y tế ngày càng được nâng
cao. Trên địa bàn Thị xã hiện có 141 cơ sở khám, chữa bệnh và 44 hiệu thuốc
(cơ sở dược)- bao gồm: 1 bệnh viện đa khoa (500 giường) của Tỉnh, 1 Trung
tâm Y tế của Thị xã (có 111 cán bộ y tế-trong đó có 17 Bác sĩ, Nha sĩ), 8/11
phường xã có trạm y tế (40 giường) và 131 phòng mạch tư nhân. Mạng lưới y
tế cơ sở được củng cố và phát triển tại các xã, phường (hoặc liên phường) và
có 100% trạm y tế đạt chuẩn quốc gia với đủ bác sĩ, nữ hộ sanh, y sĩ sản nhi
công tác tại trạm y tế; mạng lưới y tế thôn ấp như tổ cấp cứu và nhân viên sức
khỏe cộng đồng được mở rộng các khu phố, ấp.

Người dân được tiếp cận với các dịch vụ y tế ngày càng dễ dàng hơn.
Trung tâm y tế thị xã Bà Rịa được quan tâm đầu tư có đủ phương tiện, thiết bị
khám chữa bệnh với mô hình một cửa, một dấu, không để bệnh nhân ngồi chờ
lâu quá 15 phút đã đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Thực hiện
chế độ khám, chữa bệnh cho các đối tượng chính sách, người dân tộc, người
51

nghèo, cấp 8.631 thẻ khám, chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi với số
tiền miễn phí hàng năm trên 100 triệu đồng. Ngoài ra, Trung tâm y tế còn tổ
chức khám chữa bệnh tại nhà và cấp thuốc miễn phí hàng tháng cho các Bà
mẹ Việt Nam anh hùng và Cựu chiến binh Điện Biên Phủ. Việc phòng, chống
HIV/AIDS được quan tâm.

Hoạt động các chương trình y tế quốc gia hằng năm đạt kế hoạch trên
giao. Ngoài công tác khám chữa bệnh ra, các bác sĩ ở Trung tâm Y tế Thị xã
còn tham gia các chương trình y tế dự phòng và phòng chống dịch bệnh. Một
số bệnh truyền nhiễm như lao, phong, sốt xuất huyết, sốt rét…đã được khống
chế và giảm rõ rệt qua từng năm. Chất lượng khám bệnh, chữa bệnh được
nâng cao nhờ triển khai tại chỗ các khâu xét nghiệm ban đầu như: siêu âm,
điện tim. Số trẻ trong độ tuổi tiêm chủng đủ mũi đạt chỉ tiêu giao, tỉ lệ trẻ em
dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng được thường xuyên quan tâm với nhiều biện
pháp phục hồi và giảm từ 1-2% mỗi năm; công tác chăm sóc sức khỏe người
mẹ về kế hoạch hóa gia đình, về nuôi dạy trẻ..có nhiều tiến bộ.

2.3.4. Về xóa đói – giảm nghèo và an sinh xã hội

Tăng trưởng kinh tế là tốt cho người nghèo. Thật vậy, nhờ tốc độ tăng
trưởng kinh tế tăng cao đã tạo điều kiện về vật chất giúp xóa đói - giảm nghèo
tại thị xã Bà Rịa đạt nhiều kết quả tiến bộ.

Trong giai đoạn 1995-2005, chuẩn nghèo được xác định là 25 kg


gạo/người/tháng (thông báo 1751/BLĐTBXH ngày 20/5/1997), sau đó chuẩn
nghèo được xác định là mức thu nhập dưới 150.000đ /người / tháng đối với
khu vưc thành thị, dưới 100.000đ/ người/ tháng với vùng nông thôn (theo
quyết định: 1143/QĐ/LĐTBXH ngày 01/10/2000). Theo số liệu điều tra tháng
4/2001, số hộ nghèo trên địa bàn Thị xã có mức thu nhập dưới chuẩn quy định
là 1.625 hộ với 7.262 nhân khẩu, chiếm 9,38% trên tổng số hộ nghèo hiện có
52

được điều tra xác định. Từ cuối tháng 12 năm 2005 đến nay, số hộ nghèo trên
địa bàn Thị xã qua điều tra được xác định theo quyết định số 170/2005/QĐ-
TTg ngày 8/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ là 1.930 hộ – 8.859 khẩu, chiếm
tỷ lệ 10,74%, theo Quyết định số 883/2006/QĐ-UBND ngày 22/3/2006 của
UBND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu về việc quy định mức chuẩn nghèo của Tỉnh
giai đoạn 2006-2010 là 4.264 hộ-19.120 khẩu, chiếm tỷ lệ 23,72% trên tổng
số hộ dân trên toàn địa bàn (chuẩn nghèo của Tỉnh là 400.000
đồng/người/tháng ở thành thị và 300.000 đồng/người/tháng ở nông thôn).

Nguyên nhân nghèo được xác định bao gồm: thiếu vốn, có người ốm tàn
tật, đông người ăn theo, thiếu đất sản xuất, thiếu lao động, thiếu kinh nghiệm
làm ăn… Ngày 01/03/2006 Ban Thường vụ thị ủy Bà Rịa đã ra Nghị quyết
02-NQ/TXU và Đề án giảm nghèo giai đoạn 2006-2010. Hội đồng nhân dân,
UBND, UB Mặt trận và các tổ chức đoàn thể-xã hội, các ban ngành, các
doanh nghiệp từ Thị xã đến các xã, phường đều có kế hoạch và tham gia tích
cực trong công tác xóa đói-giảm nghèo.

Bằng nhiều hình thức trợ giúp cụ thể và thiết thực như: giải quyết việc
làm cho hàng ngàn lao động mỗi năm, chuyển giao kỹ thuật-công nghệ,
hướng dẫn cách làm ăn, cho 1.865 hộ vay vốn sản xuất-kinh doanh với kinh
phí là 17,043 tỷ đồng, cấp 17.867 thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, khám chữa
bệnh miễn phí, miễn giảm học phí, cấp học bổng, cho vay ưu đãi đối với học
sinh-sinh viên con hộ nghèo, trẻ em mồ côi, tàn tật, có hoàn cảnh khó khăn,
hộ dân tộc, vận động xây dựng và sữa chữa 136 căn nhà tình thương, nhà tình
nghĩa với tổng kinh phí là 1,050 tỷ đồng…và đã có hàng ngàn hộ thoát nghèo.

Đến cuối năm 2009, số hộ nghèo nói chung của Thị xã (bao gồm cả
nghèo phi lương thực, thực phẩm) còn lại trên địa bàn được xác định là 217
53

hộ, đạt tỷ lệ là 0,87% số hộ nghèo theo chuẩn của Tỉnh. Thị xã phấn đấu hết
năm 2010 sẽ xóa 100% số hộ nghèo theo chuẩn của Tỉnh.

An sinh xã hội được quan tâm. Thị xã luôn quan tâm thực hiện tốt các
chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, gia đình thương binh liệt sĩ,
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng lực lượng vũ trang…nhất là trong các
dịp Lễ, Tết (trợ cấp ưu đãi một lần). Thị xã đã thực hiện các chính sách bảo
trợ xã hội, bảo hiểm xã hội…đảm bảo chi trả kịp thời, đúng đối tượng, không
để xảy ra tiêu cực, thất thoát, tạo lòng tin đối với cán bộ và nhân dân.

Ngoài ra, Thị xã đã tích cực thực hiện công tác phòng chống mại dâm và
cai nghiện phục hồi cho các đối tượng xã hội. Số đối tượng nghiện ma túy
trên địa bàn quản lý được là 134 người, trong đó có 52 đối tượng bắt buộc đưa
đi cai nghiện tại Trung tâm giáo dục lao động xã hội của Tỉnh (năm 2009).

2.3.5. Về cơ sở hạ tầng và đô thị hóa

Tại Thị xã đã kết hợp tốt các nguồn lực của Nhà nước và nhân dân, xây
dựng nhiều công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, văn hóa-xã hội, xây dựng Thị
xã từng bước trở thành một đô thị hiện đại, văn minh, xanh và sạch. Tính từ
năm 1995 đến nay, thị xã Bà Rịa đã đầu tư 524 công trình với tổng vốn đầu tư
là 1.771,6 tỷ đồng. Trong đó, nâng cấp và làm mới 40 km đường bê tông
nhựa, gần 2.500 km đường láng nhựa và gần 100 km đường cấp phối ở khu
vực nông thôn. Hiện nay, các trục giao thông chính của Thị xã vào các
phường, xã đều được láng nhựa hoặc bê tông hóa.

Bên cạnh đó là các công trình phúc lợi công cộng được mở rộng ngày
càng đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và đời sống của nhân dân. Trụ sở làm việc
của cơ quan, các xã, phường và trụ sở các khu phố - ấp đã được đầu tư xây
dựng mới; 100% xã, phường đều có điện với 5. 479 cây đèn chiếu sáng được
lắp đặt, tỷ lệ dân số được sử dụng điện lưới quốc gia và sử dụng nước sạch đạt
54

100 % trên tổng dân số; hệ thống cây xanh, thoát nước và chiếu sáng công
cộng được xây dựng đồng bộ; 100% xã, phường đều được phủ sóng truyền
thanh-truyền hình, số máy điện thoại đạt bình quân 25 cái/100 dân; các sơ sở
giáo dục từ mầm non đến phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên-hướng
nghiệp và trung tâm văn hóa-học tập cộng đồng được xây dựng và phát triển
nhằm đảm bảo phục vụ nhu cầu học tập tại chỗ của nhân dân; các xã- phường
hoặc liên phường đều có trạm y tế, 100% trạm y tế đều có y, bác sĩ và nữ hộ
sinh; 100% xã, phường có chợ và 1 Trung tâm thương mại của Thị xã.

Hiện nay, Thị xã đang triển khai các dự án đầu tư khu nhà ở (khu nhà ở
cao cấp kết hợp du lịch sinh thái, khu nhà ở cho công nhân và tái định cư, khu
nhà ở biệt thự..); các dự án đầu tư về y tế (Trung tâm mắt, bệnh viên quốc tế
200 giường, bệnh viện đa khoa 200 giường); các dự án đầu tư về giáo dục
(trường phổ thông Trung học tư thục)…nhằm tạo nhiều cơ hội lựa chọn theo
khả năng cho người dân.

Công tác quản lý và thực hiện quy hoạch đô thị được quan tâm. Thị xã
đã xây dựng quy hoạch và được cấp trên phê duyệt quy hoạch các khu Trung
tâm hành chính, khu dân cư, khu tái định cư các phường, xã. Hiện nay, Thị xã
Bà Rịa đang triển khai thực hiện việc điều chỉnh quy hoạch tổng thể kinh tế-
xã hội đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 phải đạt mục tiêu: “ Xây
dựng thị xã Bà Rịa trở thành một đô thị phát triển, có hệ thống hạ tầng kỹ
thuật và hạ tầng xã hội hoàn chỉnh, hiện đại, tương xứng với vai trò trung tâm
hành chính-chính trị-văn hóa của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu”.

Có thể nói, công tác xây dựng hạ tầng kỹ thuật kinh tế-xã hội và chỉnh
trang đô thị của Thị xã trong thời gian vừa qua là một trong những thành tựu
nổi bật nhất. Đây cũng chính là sự kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội mà Đảng bộ và nhân dân Thị xã đã thực hiện được.
55

2.4. Những yếu kém trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội tại thị xã Bà Rịa giai đoạn 1995-2009

2.4.1. Tăng trưởng kinh tế còn dưới mức tiềm năng

2.4.1.1. Tiềm năng, lợi thế của Thị xã chưa được huy động, khai thác
đúng mức: Tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua chủ yếu dựa vào khai thác
tài nguyên có giới hạn như: đất đai, nguồn nước và sức lao động.

Hiệu quả kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn chưa cao: năng suất lao
động ngành nông-lâm nghiệp năm 2009 chỉ đạt 9,707.899 triệu đồng; nguyên
nhân do trình độ khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp còn thấp, việc sử dụng
đất chưa hiệu quả, cơ cấu nông nghiệp nặng về trồng trọt như việc độc canh
cây lúa: vừa kém hiệu quả kinh tế, vừa sử dụng lãng phí tài nguyên nước để
tưới tiêu trong mùa khô (nhu cầu tưới mỗi héc-ta cần từ 7.600-10.000 mét
khối nước); trong khi đó, nguồn nước lợ là tài nguyên thích hợp cho thủy sản
(nuôi tôm sú-giá trị kinh tế cao) thì chưa được khai thác và tận dụng hết tiềm
năng.

Ngành công nghiệp và dịch vụ (ngoại trừ ngành điện-nước) hiện nay có
qui mô nhỏ, công nghệ-thiết bị lạc hậu, sản phẩm chưa mang tính cạnh tranh
cao. Việc triển khai các thủ tục về đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án hạ
tầng cụm công nghiệp của các doanh nghiệp tiến hành chậm, chủ yếu do
vướng mắc trong khâu đền bù giải tỏa, giải phóng mặt bằng theo các quy định
của cấp trên.

2.4.1.2. Cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch chậm

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chậm, tỷ trọng giá trị tăng thêm còn
thấp: khu vực dịch vụ tuy có tốc độ tăng trưởng cao (bình quân hằng năm là
18,83%) nhưng tỷ trọng giá trị sản xuất ngành dịch vụ trong GDP năm 2009
so 1995 tăng chậm (chỉ có 3,86 %), chiếm cơ cấu thấp (29,13 %).
56

Biểu đồ 10: Tỷ trọng giá trị sản xuất và tỷ trọng giá trị tăng thêm (theo
giá thực tế) của ngành dịch vụ trong cơ cấu ngành kinh tế của Thị xã
1995-2009

Tỷ trọng GTSX Tỷ trọng GTTT

45

40

35

30

25
(%)
20

15

10

0
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009

Năm

(Nguồn: Niên giám thống kê của thị xã Bà Rịa và Tác giả tính toán)

Trong khi đó, tỷ trọng giá trị tăng thêm (tính theo giá thực tế) năm 2009
ở khu vực dịch vụ so với năm 1995 giảm 7,49 % , nghĩa là, các loại dịch vụ
cao cấp, có giá trị tăng thêm cao chưa phát triển mạnh.

Khu vực công nghiệp tuy có phát triển, nhưng nếu không tính ngành
điện-nước, thì sản xuất công nghiệp chủ yếu chỉ dựa vào khai thác tài nguyên
(đất-đá-cát), đa số cơ sở công nghiệp có qui mô nhỏ, lao động ít.

Khu vực nông nghiệp có tăng trưởng nhưng tốc độ tăng trưởng thấp,
bình quân hằng năm là 8,11% (phụ lục 2.4.1.2).

Chuyển dịch cơ cấu lao động chưa đáp ứng với yêu cầu của chuyển dịch
cơ cấu kinh tế: tỉ trọng lao động trong khu vực dịch vụ giảm 0,12% (năm
1995 là 37,79% và năm 2009 là 37,67%), tỉ trọng lao động trong khu vực
57

nông-lâm nghiệp, thủy sản tuy có giảm nhưng vẫn còn cao (33,01%) (phụ lục
2.2.2.2). Nguyên nhân chủ yếu là do người lao động không có trình độ chuyên
môn hoặc chưa qua đào tạo nên khó chuyển dịch qua các khu vực công
nghiệp và dịch vụ.

Có thể nói, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã không gắn liền với chương
trình, kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực nên tỷ trọng lao động trong nông
nghiệp còn cao, chưa tương xứng với yêu cầu của chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế.

2.4.1.3. Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với GDP còn thấp

Giai đoạn 1995-2009, tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP của Thị xã đạt bình
quân 9,92%. Theo Rostow, một trong những điều kiện để “ giai đoạn cất
cánh” xuất hiện là tỷ lệ đầu tư trong tổng sản phẩm quốc gia phải trên 20%.

Đầu tư thấp một phần là do bị cạnh tranh ở trong Tỉnh, nhưng phần chủ
yếu là do Thị xã còn lúng túng, chưa xác định rõ lợi thế so sánh của mình và
nhu cầu của thị trường, chưa tìm được khâu “đột phá” để thu hút đầu tư. Thị
xã cũng cần xem lại xu hướng công nghiệp hóa đang phổ biến hiện nay: bằng
cách hình thành các “ khu công nghiệp”, trong khi ở 2 đầu của Bà Rịa là
Vũng Tàu-Tân Thành đầy khu công nghiệp (xa hơn là Nhơn Trạch-Biên Hòa-
Bình Dương..).

Với lợi thế so sánh về vị trí và địa-chính trị, theo Tác giả, thay vì phát
triển các khu công nghiệp, thì đầu tư ở Bà Rịa nên theo hướng phát triển nông
nghiệp-sinh thái, dịch vụ chất lượng cao (ngân hàng, tài chính, viễn thông,
chăm sóc sức khỏe, giáo dục, vui chơi, giải trí, thể dục-thể thao) và dịch vụ
thương mại (bán sĩ, bán lẽ, chợ đầu mối…). Đây cũng là những xu hướng đầu
tư mới sau đợt khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong thời gian vừa qua đối với
nước ta hiện nay.
58

2.4.2. Thực hiện công bằng xã hội còn bất cập, độ bao phủ chưa rộng

2.4.2.1. Chất lượng giáo dục còn thấp và chưa đồng đều

Về cơ sở vật chất ở một vài xã, phường vẫn chưa có trường mầm non và
trường trung học cơ sở. Chất lượng giáo dục ở các trường nhìn chung chưa
tương xứng với yêu cầu đầu tư (nhiều trường đạt chuẩn quốc gia nhưng chất
lượng giáo dục ở các trường này còn nhiều bất cập). Đồng thời, chất lượng
giữa các trường và các xã, phường cũng không đồng đều: phụ huynh phải tính
toán chuyện chuyển hộ khẩu trước mấy năm để xin cho con mình được học ở
những trường “xa nhà hơn nhưng chất lượng tốt hơn”.

Biểu hiện rõ nét nhất cho thấy chất lượng giáo dục của Thị xã có xu
hướng sụt giảm là thống kê xếp hạng kết quả tốt nghiệp THPT của Sở Giáo
dục Tỉnh BR-VT đối với các trường THPT trên địa bàn (bao gồm 3 trường
THPT Châu Thành, THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm và Trung tâm GDTX Thị xã)
trong 3 năm học gần đây. Có lẽ, đó không chỉ là kết quả về chất lượng của
những trường này, mà xa hơn là thành quả của chất lượng giáo dục mà các em
có được từ lúc vào học tiểu học lên đến THCS.

Bảng 2.4.2.1: Xếp hạng kết quả tốt nghiệp THPT các trường ở Thị xã

TT Đơn vị trường THPT Xếp hạng trong Tỉnh

Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009

1 Châu Thành hạng 5/25 hạng 7/27 hạng 13/27

2 Nguyễn Bỉnh Khiêm hạng 23/25 hạng 26/27 hạng 25/27

3 Trung tâm GDTX hạng 3/9 hạng 7/8 hạng 8/8

(Nguồn: Báo cáo Tổng kết năm học 2008-2009 của Sở Giáo dục Tỉnh BR-VT
và tổng hợp của tác giả)
59

Giáo dục phổ thông nói chung còn nặng “dạy chữ”, chưa quan tâm đúng
mức đến “dạy người” và dạy nghề cho thanh niên; phương pháp giáo dục
chậm đổi mới; tình trạng học sinh nghỉ, bỏ học còn cao; việc huy động học
sinh bỏ học ra các lớp phổ cập giáo dục còn thấp; việc phân luồng sau tốt
nghiệp THCS chưa được quan tâm do thiếu các cơ sở đào tạo nghề phù hợp
với nhu cầu xã hội. Hoạt động của một số Trung tâm văn hóa-học tập cộng
đồng còn yếu. Khả năng thu hút các nguồn lực của xã hội để chăm lo cho sự
nghiệp giáo dục và đào tạo còn hạn chế, chủ yếu vẫn là nguồn từ ngân sách
nhà nước.

2.4.2.2. Tỷ trọng chi cho sự nghiệp y tế chưa tương xứng

Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc ngân sách nhà nước của Thị xã
cho hoạt động văn hóa, thể dục-thể thao, Y tế, bảo hiểm ngày càng tăng (giai
đoạn 1996-2000 chiếm tỷ trọng 1,42%/năm; giai đoạn 2001-2005 chiếm tỷ
trọng 4,69%/năm; giai đoạn 2006-2008 chiếm tỷ trọng 17,38%/năm).

Trong khi đó, cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp y tế nói riêng
(không tính các hoạt động văn hóa, thể dục-thể thao) thì có xu hướng mỗi
năm lại giảm (bình quân giai đoạn 2001-2008 cơ cấu ngân sách của Thị xã chi
cho y tế chiếm tỷ trọng 2,06%/năm). Riêng năm 2009, nhiệm vụ chi ngân
sách cho sự nghiệp y tế được giao về ngân sách nhà nước của Tỉnh.

Có thể nói, sự phân phối lại thành quả của tăng trưởng kinh tế dành cho
việc chăm sóc sức khỏe chưa tương xứng: chi đầu tư phát triển nhằm tạo cơ
hội cho nhân dân tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế thì ngày càng mở rộng
(hiện nay ở Thị xã chỉ còn 3 phường Phước Hưng, Phước Nguyên và Long
Tâm chưa có Trạm y tế) nhưng chi cho hoạt động sự nghiệp y tế thì ngày càng
giảm, nghĩa là chất lượng chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng và đa dạng của
nhân dân chưa được đáp ứng kịp theo nhu cầu.
60

Biểu đồ 11: Tỷ trọng (%) chi cho sự nghiệp y tế trong cơ cấu chi NSNN
của thị xã Bà Rịa (giai đoạn 2001-2008)

3.5
2.98
3
2.81
2.61
2.36
2.5
cơ cấu (%)

2
1.57 1.55 1.47
1.5 1.16
1

0.5

0
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008

Năm

(Nguồn: Niên giám thống kê của thị xã Bà Rịa, Tác giả tính toán)

2.4.2.3. Xóa đói, giảm nghèo và an sinh xã hội chưa thật vững chắc

Thành tựu xóa đói, giảm nghèo chưa thật vững chắc, nguy cơ tái nghèo
cao. Một số chính sách trợ giúp người nghèo, hộ nghèo đạt hiệu quả chưa cao,
một số hộ nghèo có tâm lý ỷ lại, còn trông chờ vào các chính sách hỗ trợ của
Nhà nước. Tình trạng hộ nghèo đã vượt khỏi chuẩn nghèo vẫn không muốn ra
khỏi chương trình vì muốn hưởng các quyền lợi của hộ nghèo. Khi nâng mức
chuẩn nghèo lên thì hầu như các hộ này lại rơi vào chuẩn mới.

Mạng lưới an sinh xã hội chưa bao phủ. Việc đào tạo nghề, giới thiệu
việc làm cho lao động hộ nghèo chưa đạt được kết quả như mong đợi. Nhiều
người không thích học nghề, thay vào đó tìm một việc làm để kiếm tiền phục
vụ cuộc sống trước mắt. Một số trường hợp học xong việc, tìm việc và tự giải
quyết việc làm còn gặp nhiều khó khăn, thậm chí không có nơi nhận vào làm.
61

Tóm tắt chương 2

Trong chương 2, luận văn đã trình bày khái quát thực trạng kết hợp giữa
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội tại thị xã Bà Rịa trong giai đoạn
1995-2009, cụ thể là: những kết quả trong tăng trưởng kinh tế như tốc độ tăng
trưởng GDP và GDP bình quân đầu người cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế có
tiến bộ, sử dụng vốn đầu tư hiệu quả, năng suất lao động xã hội tăng cao; tăng
trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện công bằng xã hội, biểu hiện trên các
phương diện như lao động và việc làm, giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức
khỏe, xóa đói-giảm nghèo và an sinh xã hội, xây dựng hạ tầng kỹ thuật kinh
tế-xã hội và đô thị hóa đã đạt nhiều thành tựu quan trọng.

Bên cạnh đó, luận văn cũng trình bày những tồn tại, yếu kém trong việc
kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong thời gian qua tại
thị xã Bà Rịa, trong đó phân tích cụ thể từng mặt tồn tại, yếu kém trong tăng
trưởng kinh tế như tăng trưởng kinh tế còn dưới mức tiềm năng, chuyển dich
cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động còn chậm, việc thực hiện công bằng xã hội
như chất lượng giáo dục, y tế, xóa đói-giảm nghèo và an sinh xã hội còn bất
cập, chưa tương xứng, độ bao phủ chưa rộng. Qua đó, xác định những vấn đề
cần tập trung giải quyết nhằm thực hiện tốt hơn nữa việc kết hợp giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội tại thị xã Bà Rịa trong thời gian tới.
62

Chương 3

QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM KẾT


HỢP GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
TẠI THỊ XÃ BÀ RỊA GIAI ĐOẠN 2010 - 2020

3.1. Những quan điểm và định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam về
kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội

Trong những năm đổi mới ở nước ta, đường lối của Đảng cũng như
chính sách của Nhà nước đã thể hiện một cách nhất quán và ngày càng hoàn
thiện những quan điểm mới, sâu sắc và toàn diện trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, cụ thể như sau:

Một, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với công bằng xã hội trong
từng bước đi và trong suốt quá trình phát triển

Đây là quan điểm chỉ đạo cơ bản và nhất quán xuyên suốt quá trình đổi
mới của Đảng. Văn kiện Đại hội VII (1991) nêu rõ “Kết hợp hài hòa giữa
phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân”[9 ;
tr.73]. Đại hội VIII (1996) nhấn mạnh: "Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với
tiến bộ xã hội và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá
trình phát triển"[10; tr.113]. Đại hội lần thứ IX khẳng định: "… phát triển
nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn
hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường" [11; tr.88-
89]. Đại hội lần thứ X bổ sung và phát triển một bước quan trọng, cụ thể là:
“Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước,
ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và từng chính sách phát triển”[ 12; tr. 101].
63

Hai, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục,
giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người

Con người không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực để phát triển xã
hội. Trong thời đại ngày nay, muốn tăng trưởng kinh tế phải đầu tư vào con
người bằng cách mở rộng khả năng tiếp cận với các lĩnh vực văn hóa, giáo
dục, y tế và mạng lưới an sinh xã hội nhằm tạo điều kiện cho con người phát
huy mọi năng lực và hưởng thụ xứng đáng những thành quả của chính mình.
Vì vậy, sự nghiệp phát triển kinh tế phải đặt con người vào vị trí trung tâm.
Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế,
đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người [9, tr.73
và 115]. Đại hội X chỉ rõ: “ Xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo
đảm cung ứng dịch vụ công cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về
giáo dục và đào tạo, tạo việc làm, chăm sóc sức khỏe, văn hóa-thông tin, thể
dục thể thao…”[12; tr.101]. Hội nghị lần thứ sáu BCH Trung ương (khóa X)
khẳng định: “ tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục,
bảo vệ môi trường…, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển
con người” [13; tr.139-140].

Ba, thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu
quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và
thông qua phúc lợi xã hội

Đại hội VIII (1996) nêu rõ: “phải luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của người
lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa
coi trọng xóa đói, giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã hội, tiến tới
làm cho mọi người, mọi nhà đều khá giả” [10; tr.72-73] và khẳng định: “Công
bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở
khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có
64

cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình" [10; tr.113].

Về phân phối: “ Chính sách phân phối và phân phối lại phải bảo đảm hài
hòa lợi ích của Nhà nước, người lao động và doanh nghiệp, tạo động lực cho
người lao động, doanh nhiệp và bảo đảm lợi ích quốc gia. Chú trọng phân
phối lại qua phúc lợi xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, y tế; bảo đảm
đời sống, ít nhất là ở mức trung bình của xã hội cho các đối tượng chính sách”
[13; tr. 143]. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói-giảm nghèo;
từng bước làm cho mọi thành viên xã hội đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính
sách phát triển [13; tr. 154-155].

Bốn là, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển xã hội

Thực tiễn phát triển thành công của nhiều nước đã cho thấy giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội có mối quan hệ biện chứng thống nhất với
nhau, không thể vì tăng trưởng kinh tế mà coi nhẹ công bằng xã hội và cũng
không thể thực hiện công bằng xã hội mà không dựa trên những thành quả do
tăng trưởng kinh tế đem lại. Tăng trưởng mà không công bằng thì tăng trưởng
không bền vững; ngược lại, công bằng mà không tăng trưởng thì công bằng
mong manh.

Vì vậy, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển xã hội. Đại hội X khẳng định: “ kết hợp chặt chẽ,
hợp lý các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở
từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội
trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng
thụ, tạo động lực mạnh mẽ hơn cho phát triển kinh tế-xã hội” [12; tr.32].
65

3.2. Định hướng và mục tiêu của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và thị xã Bà Rịa
về tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội giai đoạn 2010 – 2020

3.2.1. Định hướng và mục tiêu của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ Tỉnh khóa IV
trình Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần V đã đề ra mục tiêu tổng quát giai đoạn 2011
– 2020, chỉ tiêu chủ yếu 5 năm 2011 – 2015, phát triển thị xã Bà Rịa và các
đô thị vệ tinh, cụ thể như sau:

Mục tiêu tổng quát phát triển tỉnh trong giai đoạn 2011 – 2015 và
định hướng đến 2020: Tiếp tục phát triển mạnh về kinh tế biển, phấn đấu
trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào đầu thời kỳ 2015 – 2020;
gắn kết hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái, đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững; nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân; đảm bảo quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn
xã hội; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Một số chỉ tiêu chủ yếu 5 năm 2011 – 2015:

Về kinh tế

 Tốc độ tăng trưởng GDP kể cả dầu khí bình quân 9,3%/năm; trừ
dầu khí bình quân 12,2%/năm.

 Đến năm 2015, GDP/người kể cả dầu khí khoảng 14.000 USD, trừ
dầu khí đạt 10.600 USD.

 Cơ cấu kinh tế kể cả dầu khí: CN 70,13% - DV 27,04% - NN


2,83%; trừ dầu khí: CN 66,02% - DV 30,76% - NN 3,22%.

 Giá trị xuất khẩu trừ dầu khí đạt 6.990 triệu USD, tốc độ tăng
12,51%/năm.
66

Về xã hội

 Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,04%, mức giảm sinh 0,2‰, tuổi thọ trung
bình đạt 74 tuổi. Chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2015 đạt 0,844
(năm 2010 là 0,795).

 Tỷ lệ người biết chữ 99%, tỷ lệ học sinh nhập học tiểu học và trung học
cơ sở 99,5%, nhập học trung học phổ thông 95%, cao đẳng và đại học
40%. Số học sinh phổ thông đạt 1.818 học sinh/1 vạn dân; tỷ lệ huy
động các cháu đi nhà trẻ 30% và đi mẫu giáo 85%, riêng trẻ mẫu giáo 5
tuổi trên 95%.

 Số bác sĩ đạt 6,5 bác sĩ/1 vạn dân; giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi còn suy
dinh dưỡng xuống còn dưới 10%.

 Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn dưới 30%; tỷ lệ lao động qua đào tạo
đạt 70%; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới quốc gia còn dưới 1%, theo
chuẩn mới của tỉnh còn dưới 3%.

 Gia đình đạt chuẩn văn hóa đạt 92%; dân số nông thôn được sử dụng
điện và nước hợp vệ sinh 99%.

Phát triển thị xã Bà Rịa và các đô thị vệ tinh

Phát triển thị xã Bà Rịa đáp ứng yêu cầu vị thế đô thị tỉnh lỵ, trung tâm
hành chính – chính trị của tỉnh theo hướng trở thành một trung tâm dịch vụ -
thương mại – công nghiệp với các đô thị vệ tinh là Long Điền, Đất Đỏ, Ngãi
Giao, Phước Bửu và các thị tứ lân cận.

3.2.2. Định hướng và mục tiêu của thị xã Bà Rịa

Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ thị xã Bà Rịa
khóa III trình Đại hội đại biểu Đảng bộ thị xã Bà Rịa lần IV đã đề ra mục tiêu
tổng quát và các chỉ tiêu chủ yếu 5 năm 2010 – 2015, cụ thể như sau:
67

Mục tiêu tổng quát: Xây dựng thị xã Bà Rịa trở thành tỉnh lỵ, trung tâm
hành chính – chính trị của Tỉnh, đạt tiêu chuẩn đô thị loại II vào năm 2015,
có hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội cơ bản hoàn chỉnh với nền
kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững, tập trung phát triển mạnh dịch vụ; nâng
cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo vệ tốt môi trường sinh thái; đảm
bảo quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội;
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ, xây dựng hệ thống
chính trị trong sạc, vững mạnh.

Một số chỉ tiêu chủ yếu 5 năm 2010 – 2015:

Về kinh tế

 Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 20,41%/năm.

 GDP/người là 6.962 USD, nếu trừ giá trị sản phẩm của các đơn vị
Trung ương và Tỉnh đóng trên địa bàn, tính riêng của Thị xã là
4.525 USD/người/năm.

 Cơ cấu kinh tế: DV 42,47% - CN 56,49% - NN 1,04%.

Về xã hội

 Phấn đấu 80% trường (mầm non, tiểu học và THCS) đạt chuẩn
quốc gia; tỷ lệ huy động trẻ từ 3 đến 5 tuổi đến trường mầm non
đạt 95%; duy trì kết quả phổ cập tiểu học và THCS đúng độ tuổi.

 Trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng 7 loại vắc-xin đạt 100%.

 Gia đình đạt chuẩn văn hóa 97,5%; phường, xã, khu phố, ấp đạt
chuẩn văn hóa 100%.

 Phấn đấu đến năm 2015 Thị xã không còn hộ nghèo theo chuẩn
mới quốc gia và của Tỉnh; hoàn thành 750 căn nhà ở thu nhập thấp
và nhà ở xã hội.
68

3.3. Những giải pháp cơ bản nhằm kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội tại Thị xã Bà Rịa trong giai đoạn 2010 - 2020

3.3.1. Duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao đồng thời nâng cao chất
lượng tăng trưởng

Nhằm đạt được mục tiêu phát triển nhanh và bền vững cần phải duy trì
tốc độ tăng trưởng GDP cao, đồng thời phải nâng cao chất lượng tăng trưởng
kinh tế. Có duy trì được tốc độ tăng trưởng cao liên tục, Thị xã mới phát triển
nhanh và tạo được nguồn lực để phát triển các lĩnh vực xã hội, phát triển con
người, mở rộng hệ thống phúc lợi, an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội. Mặt khác, có nâng cao chất lượng tăng trưởng mới tăng sức cạnh
tranh của nền kinh tế, tăng khả năng tích luỹ, bảo đảm nguồn lực cho tăng
trưởng cao và ổn định trong dài hạn. Có thể nói chất lượng tăng trưởng là sự
tăng trưởng ổn định, bền vững và tạo ra phúc lợi xã hội rộng rãi nhằm bảo
đảm cuộc sống của mọi người dân ngày càng tốt đẹp hơn.

Để bảo đảm tốc độ tăng trưởng cao đồng thời nâng cao chất lượng tăng
trưởng kinh tế, trước hết cần phải quan tâm đến các yếu tố nội tại cấu thành
của sự tăng trưởng kinh tế (bao gồm: tích lũy tư bản, năng suất lao động và
tiến bộ công nghệ) và tiếp tục đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

3.3.1.1. Đẩy mạnh thu hút đầu tư

Đầu tư góp phần làm tăng cơ hội việc làm, tăng năng suất lao động,
tăng thu nhập và do vậy tác động đến công bằng xã hội. Tăng đầu tư không
chỉ tạo ra năng lực sản xuất mới, chuyển dịch cơ cấu lao động, thúc đẩy tăng
trưởng trong ngành xây dựng mà còn tạo ra thị trường cho hàng hoá và dịch
vụ (như dịch vụ tài chính, thông tin, tư vấn, du lịch, thương mại, dịch vụ vận
chuyển và kho vận, bán lẽ), giải quyết việc làm và do đó có tác động lan toả
đến toàn bộ nền kinh tế.
69

Với tỉ lệ vốn đầu tư phát triển so với GDP của Bà Rịa trong thời gian qua
đạt bình quân là 09,92%/năm là thấp, chưa thể đáp ứng kịp yêu cầu xây dựng
và phát triển thị xã Bà Rịa thành một đô thị hiện đại. Vì vậy, trong giai đoạn
2010 – 2020, Thị xã cần tăng thêm vốn đầu tư (trong và ngoài nước) vào
những lĩnh vực và dự án cần thiết, có nhiều tiềm năng phát triển hiệu quả, tạo
công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho nhân dân.

Chú trọng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển sản xuất kinh
doanh và đầu tư vào nguồn nhân lực (giao thông, trường học, y tế, điện, nước
sạch, các công trình văn hóa, thể dục, thể thao, vui chơi, giải trí). Không vì
chủ trương xã hội hóa mà làm tăng sự đóng góp của người dân vào những
nhu cầu thiết yếu như học hành, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe. Đặc biệt, cần
quan tâm hơn việc đầu tư vào nhà ở cho những người có thu nhập thấp. Đây
là vấn đề cấp bách vì một đồng vốn trong hôm nay - hổ trợ cho người nghèo
có nhà ở, còn tốt hơn hàng trăm đồng trong tương lai - để hổ trợ cho các ngân
hàng đang trên bờ vực phá sản (vì cho vay “bong bóng” bất động sản) trong
khi người nghèo không có khả năng mua một căn hộ giá rẻ.

Vấn đề cấp thiết lúc này là đẩy nhanh tiến độ thi công, sớm đưa các công
trình vào sử dụng, tạo ra nhiều sản phẩm, qua đó mà góp phần nâng cao hiệu
quả đầu tư. Ngoài ra, để nâng cao chất lượng tăng trưởng cần chú trọng đến
chất lượng và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Nếu như một công trình đã hoàn
tất và chờ được sử dụng, hoặc mới đưa vào sử dụng nhưng chất lượng
kém, sau đó lại đầu tư thêm vốn để sửa chửa hoặc làm lại, thì vốn đầu tư mới
đó sẽ được tính vào tăng trưởng GDP (và hệ số ICOR có thể rất đẹp); nói cách
khác, số lượng tăng trưởng thì có mà chất lượng tăng trưởng thì không. Vì
vậy vấn đề chất lượng sử dụng của nguồn vốn đầu tư mới là vấn đề quan
trọng nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng.
70

3.3.1.2. Nâng cao năng suất lao động

Năng suất lao động (tính theo giá trị tăng thêm) hiện nay ở ngành nông,
lâm nghiệp của Thị xã nhìn chung là thấp, đạt 9,708 triệu đồng/lao động/năm.
Vì vậy, phải đẩy mạnh đầu tư và phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông
thôn, coi đây là hướng chính để tạo ra nhiều việc làm mới, góp phần tăng
năng suất lao động và tăng nhanh thu nhập cho nông dân; Nhà nước cần có
chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, giảm
chi phí sản xuất, qua đó nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả sản
xuất, kinh doanh và sức cạnh tranh của sản phẩm.

Hiện nay, một số ngành dịch vụ ở Thị xã có năng suất lao động tính theo
giá trị tăng thêm rất thấp như hoạt động văn hóa, thể dục-thể thao (15,314
triệu đồng/lao động/năm), Đảng-đoàn thể xã hội (20,470 triệu đồng/lao
động/năm), giáo dục đào tạo (23,477 triệu đồng/lao động/năm), phục vụ cá
nhân và cộng đồng (22,497 triệu đồng/lao động/năm). Những ngành nêu trên
lại chính là những ngành có lợi thế so sánh về vị trí, địa-chính trị của Thị xã
nằm trong Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam và là trung tâm hành chính của
Tỉnh trong tương lai. Vì vậy, Thị xã cần đầu tư mạnh hơn vào vốn con người
nhằm nâng cao chất lượng lao động, nâng cao năng suất lao động và tạo ra giá
trị gia tăng cao trong các ngành dịch vụ có lợi thế nêu trên.

3.3.1.3. Đầu tư vào tiến bộ công nghệ

Đầu tư vào tiến bộ công nghệ là giải pháp quan trọng nhất nhằm nâng
cao năng suất lao động và bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao. Theo kết quả
khảo sát về đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp do Chương trình Phát
triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) và Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương
(Bộ KHĐT) phối hợp cho thấy hầu hết các doanh nghiệp thường tiến hành đổi
mới công nghệ một cách thụ động, mang tính chất tình huống, chủ yếu là
71

công nghệ nhập khẩu từ nước ngoài. Với thái độ đầu tư cho khoa học - công
nghệ như vậy thì chất lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ không mang tính
cạnh tranh, tăng trưởng kinh tế không bền vững.

Việc đầu tư tiến bộ công nghệ phải gắn với định hướng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cụ thể là: không nên đầu tư tiến bộ công nghệ mang tính thâm
dụng lao động - giá trị gia tăng thấp (đầu tư vào các ngành dùng nhiều lao
động giản đơn như hàng may mặc, giày dép, đồ chơi), vì như vậy khu vực
công nghiệp tuy có phát triển nhưng năng suất lao động không cao và trong
tương lai Thị xã cũng chỉ là một “đại công trường đang thi công” mà
thôi. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế tri thức như hiện nay, nên đầu tư
vào các tiến bộ- công nghệ mang tính tăng lao động, giá trị gia tăng cao
nhằm nâng cao thu nhập và năng suất lao động xã hội. Tiến bộ- công nghệ
làm tăng lao động xảy ra khi chất lượng hay kỹ năng của lực lượng lao động
được nâng cao thí dụ như việc sử dụng băng ghi hình, máy ghi hình và các
phương tiện truyền thông điện tử khác đối với việc giảng dạy tại lớp
[22; tr. 157]. Việc đầu tư những tiến bộ- công nghệ như vậy (các ngành có
hàm lượng công nghệ cao như các loại máy móc dùng cho văn phòng, thiết bị
viễn thông…) sẽ giúp cho Thị xã đẩy mạnh hơn nữa việc chuyển dịch cơ cấu
theo hướng dịch vụ có chất lượng cao và công nghệ cao, phù hợp với lợi thế
so sánh, vai trò, vị trí của Thị xã và xu hướng phát triển kinh tế hiện đại trong
bối cảnh toàn cầu hóa.

3.3.1.4. Đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa nông nghiệp, nông thôn; phát triển các ngành dịch vụ chất lượng cao

Chìa khóa để cải thiện công bằng về mặt kinh tế là khả năng tạo điều
kiện cho người lao động chuyển từ việc làm thu nhập thấp sang việc làm thu
nhập cao hơn, cụ thể là: tiếp tục giảm dần tỉ trọng lao động nông, lâm, ngư
72

nghiệp; tăng tỉ trọng lao động công nghiệp, xây dựng và đặc biệt là lao động ở
khu vực dịch vụ trong tổng lao động xã hội. Để hướng tới một thành phố Bà
Rịa phát triển hiện đại, trong cơ cấu ngành kinh tế thì các ngành dịch vụ sẽ
chiếm tỷ trọng lớn nhất (hiện nay khu vực dịch vụ chỉ chiếm tỷ trọng 29,13%
GDP) và đem lại nhiều lợi nhuận nhất trong nền kinh tế của địa phương.

Đến nay, tỉ trọng lao động đang làm việc trong khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản ở thị xã Bà Rịa chiếm 33% là quá cao. Vì vậy, việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế phải gắn với đẩy mạnh chương trình giải quyết việc làm
và đào tạo nghề nhằm tăng tỷ lệ việc làm và nâng cao thu nhập cho nhân dân.
Muốn giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp thì phải luôn luôn coi trọng đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; gắn phát triển
kinh tế với xây dựng nông thôn mới, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa
nông thôn và thành thị, giữa các phường, xã.

Trong sản xuất nông-lâm-thủy sản, cần chuyển đổi đất sản xuất lúa kém
hiệu quả, sang trồng các loại cây khác có giá trị kinh tế cao hơn; hình thành
và phát huy lợi thế cạnh tranh của Thị xã nhằm sản xuất tập trung (chuyên
canh, nuôi-trồng, chế biến) các sản phẩm thiết yếu, phục vụ đời sống hàng
ngày như: rau thực phẩm, cây cảnh, trái cây đặc sản (mít, nhãn, mãng cầu..),
thịt xô các loại, trứng gia cầm, cá-tôm tươi sống, đậu đỗ, nước chấm. Đây
cũng là những sản phẩm của mô hình nông nghiệp- sinh thái- đô thị.

Trong sản xuất công nghiệp: tiếp tục phát huy lợi thế so sánh của Thị xã
trong sản xuất và phân phối ngành điện, nước; khai thác công nghiệp khí hóa
lỏng, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông sản, thủy sản đông lạnh, gia
súc-gia cầm, sữa chữa cơ khí, ô tô, sản xuất cửa nhôm, sắt, i-nox, hàng mộc
dân dụng; chú ý tránh nguy cơ trở thành “ bãi thải công nghiệp”.
73

Trong khu vực dịch vụ cần phát triển mạnh hơn nữa các ngành dịch vụ
chất lượng cao, gắn liền với phát triển các ngành công nghệ cao như điện tử-
viễn thông-tin học, vận tải, khách sạn, nhà hàng, tài chính-ngân hàng-bảo
hiểm, giáo dục chất lượng cao, chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ cao cấp theo
nhu cầu của người tiêu dùng. Tổ chức lại mạng lưới kinh doanh thương mại,
nâng cấp các chợ phường, xã; phát triển hệ thống bán lẻ, bán buôn nhằm
phục vụ các nhu cầu tiêu dùng trong và ngoài Thị xã.

3.3.2. Thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính
sách phát triển

Những thay đổi trong môi trường quốc tế hiện nay như ảnh hưởng của sự
tăng giá toàn cầu về giá nhiên liệu và hàng hóa, trong khi lạm phát trong nước
ở mức cao trong thời gian dài, đang nhanh chóng biến thành những cú sốc đối
với nền kinh tế quốc gia, tác động đáng kể đến việc làm, tăng trưởng kinh tế
và công bằng xã hội. Trong bối cảnh có những diễn biến và đầy biến động
như vậy, việc thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng quốc gia, từng địa
phương cần được quan tâm đặc biệt, nhất là đối với những người nghèo dễ bị
tổn thương bởi những cú sốc kinh tế.

Mục tiêu của công bằng xã hội suy cho cùng không phải là sự công bằng
trong thu nhập, mà xa hơn là sự mở rộng cơ hội lựa chọn cho mọi người dân,
nhất là người nghèo, được tiếp cận bình đẳng với các lĩnh vực giáo dục, chăm
sóc sức khỏe, công ăn việc làm, an sinh và phúc lợi xã hội nhằm đạt tới mục
tiêu cuối cùng là phát triển con người toàn diện. Vì vậy, công bằng xã hội
phải được thực hiện ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển của
mỗi quốc gia và mỗi địa phương.

Đối với thị xã Bà Rịa, việc thực hiện công bằng xã hội trong giai đoạn
2010 - 2020 cần tập trung vào các nhóm giải pháp, cụ thể như sau:
74

3.3.2.1. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện nhằm bảo đảm công
bằng xã hội trong giáo dục, đào tạo

Công bằng trong giáo dục, nhất là ở bậc học từ phổ thông trở xuống, là
phải bảo đảm cho người dân có cơ hội được tiếp cận với nền giáo dục có chất
lượng như nhau ở mọi cơ sở, mọi vùng, miền, bất kể nguồn gốc xuất thân, giới
tính, sắc tộc hay mức sống gia đình của người học (không phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế gia đình và hoàn cảnh của người học). Nói cách khác, công bằng
trong giáo dục không phải chỉ là “bảo đảm không có học sinh nào phải bỏ học
vì không có khả năng chi trả”, mà còn phải bảo đảm sao cho không có học
sinh nào bị buộc phải thụ hưởng nền giáo dục chất lượng thấp do điều kiện
kinh tế - xã hội hoặc địa bàn cư trú của mình. Chất lượng giáo dục thấp không
chỉ kìm hãm lâu dài sự phát triển của một quốc gia mà còn tạo ra và duy trì sự
bất công trong xã hội.

Vì vậy, nâng cao chất lượng giáo dục là một trong những yêu cầu quan
trọng nhằm thực hiện công bằng xã hội. Trong giai đoạn 2010 - 2020, Thị xã
cần tiếp tục tăng cường nguồn lực cho giáo dục; nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện và đồng đều ở mỗi bậc học, mỗi cơ sở; xây dựng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục vững vàng và tạo chuyển biến mạnh mẽ về
phương pháp giáo dục, cụ thể các giải pháp như sau:

Thứ nhất, tăng cường nguồn lực cho giáo dục

Tiếp tục tăng đầu tư nhà nước cho giáo dục và đào tạo; ưu tiên các
chương trình mục tiêu quốc gia: củng cố và duy trì kết quả xóa mù chữ, ngăn
chặn tình trạng tái mù chữ; duy trì phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và
phổ cập trung học cơ sở một cách bền vững. Làm tốt việc phân luồng, giáo
dục hướng nghiệp, phấn đấu thực hiện phổ cập giáo dục trung học phổ thông.
Đầu tư xây dựng và phát triển các trường mầm non công lập ở khắp các xã,
75

phường bảo đảm hầu hết trẻ em trong độ tuổi được đi học mẫu giáo. Tiếp tục
đầu tư xây dựng các trường trung học cơ sở ở những xã, phường chưa có.

Quan tâm nâng cấp, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy-học và các
điều kiện thiết yếu (thư viện, phòng thí nghiệm, phòng học ngoại ngữ, tin học,
sân chơi, bãi tập..) cho các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung
học phổ thông và Trung tâm GDTX-HN Thị xã theo chuẩn quốc gia (còn
14/34 trường , tỷ lệ 41,18% trường chưa đạt chuẩn quốc gia), từng bước giảm
sự chênh lệch về điều kiện vật chất và chất lượng giáo dục giữa các trường
cũng như giữa các phường, xã. Tiếp tục đầu tư trang thiết bị cho các trung
tâm văn hóa-học tập cộng đồng ở các xã, phường tạo nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho mọi người có thể học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.

Đẩy mạnh việc thực hiện xã hội hóa giáo dục; khuyến khích và tạo điều
kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân, các thành phần kinh tế (trong và
ngoài nước) tích cực tham gia các hoạt động phát triển giáo dục, đầu tư xây
dựng các trường học tư thục (ở tất cả cấp học, bậc học) chất lượng cao; phát
triển các hình thức liên kết đào tạo và dạy nghề đa dạng, linh hoạt (tại trường
lớp, tại doanh nghiệp, tại cơ sở sản xuất…). Gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và
yêu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp và xã hội.

Thứ nhì, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và đồng đều ở mỗi bậc
học, mỗi cơ sở, mỗi địa phương

Cần coi trọng chất lượng cả 3 mặt giáo dục: dạy chữ, dạy nghề, dạy làm
người; đặc biệt là việc giáo dục lý tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống, lịch sử,
kỹ năng thực hành, ứng dụng tin học, ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
sống và xây dựng quy tắc ứng xử văn hoá cho học sinh. Tập trung vào việc
chấm dứt hiện tượng học sinh ngồi sai lớp; giảm tỷ lệ học sinh yếu kém, học
sinh bỏ học trong từng bậc học.
76

Thực hiện chương trình phổ cập mẫu giáo 5 tuổi, nâng cao chất lượng
chăm sóc giáo dục trẻ, phối hợp với ngành y tế giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng.
Xây dựng và phát triển các trường THCS và THPT trên địa bàn thành trường
chất lượng cao và bồi dưỡng nhân tài, chuyển một số trường sang học 2
buổi/ngày để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện; tích cực đổi mới kiểm tra
đánh giá, thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học.

Củng cố và mở rộng hoạt động của Trung tâm Giáo dục thường xuyên-
Hướng nghiệp thị xã Bà Rịa. Tăng cường chất lượng và hiệu quả hoạt động
của các Trung tâm văn hóa-học tập cộng đồng ở các xã, phường. Đa dạng hoá
nội dung, chương trình và phương thức học tập thường xuyên, nhất là các
chương trình phổ biến kiến thức hành dụng, chuyển giao công nghệ,... đáp
ứng nhu cầu học tập suốt đời của mọi người dân, góp phần nâng cao năng suất
lao động và chất lượng cuộc sống cộng đồng.

Thứ ba, xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số
lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng cho mỗi bậc học; tạo chuyển biến
mạnh mẽ về phương pháp giáo dục

Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng,
đáp ứng yêu cầu về chất lượng cho mỗi bậc học. Đảm bảo tuyển dụng được
các giáo viên có đạo đức và trình độ chuyên môn phù hợp với nhu cầu phát
triển giáo dục ở địa phương. Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý giáo dục.
Tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường đi đôi với hoàn thiện
cơ chế công khai, minh bạch, bảo đảm sự giám sát của các cơ quan nhà nước,
đoàn thể và xã hội.

Trong thực tế hiện nay, vẫn còn những rào cản trong việc tiếp cận cơ hội
giáo dục, nhất là đối với con em các hộ nghèo do các cán bộ quản lý giáo dục
đề ra. Những rào cản này bao gồm các chi phí “ không chính thức” và đôi khi
77

“không minh bạch” trong nhà trường nhưng lại là những khoản chi đáng kể
đối với các hộ nghèo (như tiền cơ sở vật chất, tiền mua đồng phục, sách giáo
khoa, tiền học phụ đạo, hoặc các khoản tiền nộp khác). Đồng thời, chi phí cơ
hội của việc đi học là cao đối với các hộ nghèo (khi không có trẻ em tham gia
lao động sản xuất hoặc làm các công việc cho gia đình) cũng là nguyên nhân
quan trọng làm cho học sinh bỏ học hoặc không đến lớp. Rõ ràng, đây chính
là những rào cản cho tăng trưởng, công bằng và phát triển bền vững.

Vì vậy, cần công khai các chế độ miễn học phí (cho học sinh gia đình
chính sách, các hộ nghèo), giảm học phí (cho các hộ cận nghèo) và hổ trợ một
phần học phí (cho học sinh các hộ có thu nhập thấp). Đồng thời, nhà trường
cần phối hợp với các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp phát triển các loại quỹ
khuyến học, khuyến tài trong các cộng đồng dân cư nhằm hỗ trợ và tạo cơ hội
học tập cho các em là con thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với nước, học
sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và học sinh khuyết tật.

Tạo chuyển biến mạnh mẽ về phương pháp giáo dục. Tiếp tục đổi mới
phương pháp dạy và học, khắc phục cơ bản lối truyền thụ một chiều, nặng về
lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa khuyến khích đúng mức tính sáng tạo của
người học. Phát huy phương pháp dạy học tích cực, sáng tạo, hợp tác; giảm
thời gian giảng lý thuyết, tăng thời gian tự học, tự tìm hiểu, gắn học với hành,
học với ứng dụng vào sản xuất và đời sống.

Đẩy mạnh triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới
phương pháp dạy-học ở từng cấp học. Tuyển chọn, cung cấp miễn phí các
phần mềm quản lý học tập của học sinh, quản lý giáo viên, hỗ trợ sắp xếp thời
khoá biểu, quản lý thư viện trường học, quản lý phổ cập giáo dục hoặc cung
cấp phần mềm ứng dụng cho các trường thuộc phạm vi Thị xã quản lý.
78

3.3.2.2. Thường xuyên chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân để nhân
dân được khỏe mạnh và sống lâu

Công bằng trong chăm sóc sức khỏe không có nghĩa là chăm sóc sức
khỏe đồng đều cho mọi thành viên của cộng đồng mà là cung cấp các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe cho những người thực hiện có nhu cầu cần nó. Vì vậy, cần
phải tăng cường đầu tư của Nhà nước, đồng thời xã hội hóa một cách phù hợp
để huy động các nguồn lực xã hội vào phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe nhân
dân, đáp ứng yêu cầu của chiến lược phát triển con người.

Trước hết, cần tăng đầu tư của Nhà nước vào ứng dụng các công nghệ
hiện đại để nâng cao chất lượng và bảo đảm công bằng trong chăm sóc sức
khỏe nhân dân. Việc nâng cao chất lượng hoạt động khám chữa bệnh, chăm
sóc sức khỏe nhân dân của Trung tâm Y tế Thị xã và các trạm y tế phường, xã
vừa là nội dung vừa là biện pháp nhằm đáp ứng yêu cầu của chiến lược phát
triển con người. Y tế công cộng là một nhân tố cấu thành nên phúc lợi, đồng
thời có ảnh hưởng quan trọng đối với năng suất của lao động và an sinh của
người dân. Vì vậy, mạng lưới y tế cơ sở cần được tiếp tục đầu tư, tiếp tục thực
hiện các chính sách và những biện pháp cụ thể nhằm giảm dần sự khác biệt
trong chăm sóc sức khỏe, giảm tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi, tỷ lệ trẻ em tử
vong dưới 5 tuổi và tử vong bà mẹ, giảm tỷ lệ bệnh tật và tăng tuổi thọ trung
bình khi sinh. Tiếp tục trợ giúp các đối tượng chính sách xã hội, người nghèo,
người già, người có thu nhập thấp được tiếp cận dịch vụ y tế, thực hiện tốt
việc khám, chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi.

Quan tâm phát triển và nâng cao chất lượng bảo hiểm y tế. Bảo hiểm y
tế là một chính sách xã hội quan trọng, mang ý nghĩa nhân đạo, không vì mục
đích lợi nhuận và có tính chia sẽ cộng đồng sâu sắc trong hệ thống chính sách
an sinh xã hội. Cùng với ngân sách nhà nước dành cho y tế, bảo hiểm y tế còn
79

tạo ra nguồn tài chính công đáng kể, giúp cho người tham gia bảo hiểm y tế
có nguồn tài chính cho việc khám bệnh, chữa bệnh, góp phần thực hiện mục
tiêu công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân và đảm bảo an sinh xã hội.
Có nhiều hình thức bảo hiểm y tế, nhưng hình thức mang tính ưu việt nhất mà
nước ta phải hướng tới trong chính sách bảo hiểm y tế là bảo hiểm y tế bắt
buộc toàn dân với nguyên tắc mọi người dân đóng góp bảo hiểm y tế theo thu
nhập cá nhân, người nghèo và người trong diện chính sách xã hội được Nhà
nước hỗ trợ, nhưng khi khám bệnh, chữa bệnh thì được hưởng theo quyền lợi
đã được quy định dựa trên nhu cầu chữa bệnh. Vì vậy, cần đẩy mạnh công tác
thông tin, truyền thông và tuyên truyền về bảo hiểm y tế, làm cho mọi người
dân-kể cả những người đang khỏe mạnh nâng cao nhận thức, thấy được bảo
hiểm y tế vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ và bảo hiểm y tế mang tính dự
phòng những rủi ro do chi phí cao cho chăm sóc sức khỏe gây nên khi ốm
đau, bệnh tật.

Để nâng cao chất lượng công tác khám bệnh, chữa bệnh, đặc biệt là
mạng lưới y tế cơ sở, đáp ứng nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh tại các xã,
phường cần đào tạo mới và đào tạo lại liên tục đủ về số lượng, thường xuyên
nâng cao y đức, ý thức trách nhiệm, trình độ của cán bộ y tế, đấu tranh đẩy
lùi các tiêu cực trong khám, chữa bệnh. Các cán bộ y tế cơ sở phải biết quản
lý sức khỏe cộng đồng. Trước mắt, cần thực hiện việc quản lý sức khỏe cho
các đối tượng ưu tiên trước như trẻ em dưới 1 tuổi, trẻ em dưới 5 tuổi, phụ nữ
có thai, phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ (15 đến 49 tuổi), bệnh nhân bị các bệnh xã
hội, bệnh nghề nghiệp, những người trong diện chính sách ưu đãi của nhà
nước, cán bộ công nhân viên công tác tại các cơ quan nhà nước.

Huy động các nguồn lực của xã hội vào phát triển y tế, chăm sóc sức
khỏe nhân dân. Các đoàn thể phối hợp với ngành y tế triển khai các chương
trình sức khỏe tại địa phương, tuyên truyền vận động làm cho mỗi người dân
80

hiểu và tự giác tham gia các hoạt động chăm sóc sức khỏe tại gia đình và cộng
đồng. Đồng thời, trang bị kiến thức và kỹ năng về tự bảo vệ và tăng cường
sức khỏe để mỗi người dân có khả năng chủ động phòng bệnh và rèn luyện
nâng cao sức khỏe của chính bản thân mình, loại bỏ dần những lối sống, thói
quen và phong tục tập quán có hại cho sức khỏe. Chăm sóc sức khỏe không
chỉ là chữa bệnh mà còn là tăng cường hiểu biết của người dân về sức khỏe và
lối sống khỏe mạnh.

Khuyến khích đầu tư phát triển các cơ sở y tế thuộc nhiều hình thức sở
hữu, kể cả đầu tư nước ngoài. Tạo thuận lợi cho người dân khám, chữa bệnh
không lệ thuộc vào địa giới hành chính nơi cư trú; mở rộng các hình thức dịch
vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà, bác sĩ gia đình, chăm sóc người già cô đơn,
người tàn tật.Tăng cường quản lý chất lượng các nhà thuốc và hoạt động
khám chữa bệnh ở các cơ sở tư nhân; làm tốt công tác bảo đảm vệ sinh an
toàn thực phẩm và vệ sinh môi trường; bảo đảm cung cấp nước sạch; phòng,
chống các dịch bệnh, không để các dịch bệnh phát sinh, lây lan trên địa bàn.

Tiếp tục thực hiện tốt chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, kiên trì
thực hiện mục tiêu mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con. Đẩy mạnh phong trào
nuôi con khỏe, dạy con ngoan. Xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát
triển kinh tế, đô thị hóa với bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững.

3.3.2.3. Bảo đảm an sinh xã hội, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo nhằm
thoát khỏi những cái bẫy của sự bất bình đẳng

Những cái bẫy của sự bất bình đẳng bắt đầu xuất hiện khi những bất
bình đẳng giữa các cá nhân và các nhóm người cứ bị kéo dài theo thời gian,
trong hiện tại và qua nhiều thế hệ. Những cái bẫy của sự bất bình đẳng được
nhìn thấy rõ qua tỷ lệ tử vong ở trẻ em cao, tỷ lệ hoàn thành việc học tập phổ
thông thấp dẫn đến thất nghiệp và thu nhập thấp, rồi lặp đi lặp lại (vòng luẩn
81

quẩn) qua các thế hệ: từ đời cha sang con trai, từ mẹ sang con gái. Sự tồn tại
dai dẵng này làm suy giảm những động lực của cá nhân cho việc đầu tư và đổi
mới, và làm suy yếu quá trình phát triển bền vững của quốc gia. Để có thể
thoát khỏi những cái bẫy của sự bất bình đẳng, cần quan tâm đặc biệt đến
nhóm người nghèo và những nhóm người dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em,
người già, gia đình neo đơn, những người tàn tật, mồ côi…) bằng cách cung
cấp những mạng lưới an sinh xã hội cho những nhóm người dễ bị tổn thương.

An sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với những thành viên của
mình bằng một loạt những biện pháp cộng đồng nhằm chống đỡ sự hẫng hụt
về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc bị giảm đột ngột nguồn thu nhập vì ốm
đau, tai nạn, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già và chết. Vì vậy, cần xây dựng và
phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, chủ yếu là phát triển mạnh hệ
thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, đa dạng hóa các
loại hình cứu trợ xã hội, tạo việc làm. Phát triển đa dạng các hình thức tổ chức
tự nguyện, nhân đạo, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận để chăm sóc đối
tượng bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng theo tinh thần xã hội hóa với sự hổ
trợ một phần của Nhà nước, bảo đảm cho các đối tượng bảo trợ xã hội có
cuộc sống ổn định, hòa nhập tốt hơn vào cộng đồng, tự vươn lên.

Thực hiện các chính sách khuyến khích tạo việc làm; mở rộng các hình
thức dạy nghề, hỗ trợ cho vay học nghề, nhất là đối với người nghèo không có
đất sản xuất, những nơi đất nông nghiệp bị chuyển đổi do đô thị hóa, hoặc lao
động dôi dư do suy giảm kinh tế. Tạo cơ hội cho các đối tượng bảo trợ xã hội
tiếp cận dịch vụ công thiết yếu, cơ hội giáo dục, đào tạo, dạy nghề, việc làm,
chăm sóc sức khỏe, nhà ở, văn hóa, thể thao. Mở rộng và thực hiện các chính
sách bảo trợ xã hội với độ bao phủ toàn bộ các đối tượng dễ bị tổn thương
trước những cú sốc thường kỳ, bao gồm trẻ em, phụ nữ mang thai và cho con
bú, người già, người bệnh, khuyết tật, người thất nghiệp.
82

Tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách khuyến khích làm giàu hợp
pháp đi đôi với tích cực thực hiện xóa đói, giảm nghèo, vươn lên no ấm, đặc
biệt ở các vùng nông thôn. Chính sách giảm nghèo không chỉ nhằm mục tiêu
ổn định mà còn tạo động lực cho sự phát triển. Tạo điều kiện cho mọi công
dân nắm bắt được cơ hội làm ăn, nâng cao thu nhập, có cuộc sống ấm no,
hạnh phúc và được hưởng thành quả chung của tăng trưởng kinh tế. Ngăn
chặn tình trạng tái nghèo. Mở rộng tín dụng và hỗ trợ lãi suất cho vay học
nghề, dạy nghề, tạo việc làm; có chính sách hỗ trợ, khuyến khích đẩy mạnh
xuất khẩu lao động.

Phấn đấu từng bước thu hẹp khoảng cách giàu-nghèo giữa các đối tượng,
giữa thành thị-nông thôn, không để chênh lệch giàu-nghèo trở thành vấn đề xã
hội bức xúc. Xu hướng chung hiện nay ở các nước đang phát triển không chỉ
là “ người giàu ngày càng giàu thêm và người nghèo ngày càng nghèo hơn”,
mà xu hướng đó còn là “ người giàu ngày càng giàu lên-nhanh- hơn người
nghèo”. Vì vậy, cần tăng cường sự hổ trợ của Nhà nước, của cộng đồng xã
hội cho người nghèo như trợ giúp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức
để người nghèo, hộ nghèo giảm bớt khó khăn, tự vươn lên thoát nghèo, đồng
thời khắc phục tư tưởng ỷ lại, bao cấp, trông chờ vào Nhà nước.

3.3.2.4. Tăng cường cơ sở hạ tầng và đô thị hóa để nhân dân có một


điều kiện sống đàng hoàng

Tập trung vốn đầu tư nhà nước phát triển kết cấu hạ tầng kinh tê-xã hội,
dịch vụ công quan trọng và các lĩnh vực mà tư nhân không thể hoặc chưa thể
đảm đương được như: hạ tầng giao thông, điện, nước, trồng cây xanh, cảnh
quan đô thị, bưu chính-viễn thông, hạ tầng công nghệ thông tin, giáo dục và
đào tạo nguồn nhân lực, khu vui chơi, giải trí, y tế, xử lý nước thải và chất
thải rắn, bảo vệ môi trường ….
83

Đầu tư xây dựng các khu đô thị sinh thái hoàn chỉnh, các khu nhà cao
tầng, khu biệt thự, nghĩ dưỡng cao cấp và các khu nhà ở cho người có thu
nhập thấp. Đồng thời, tránh tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí,
kém hiệu quả, nâng cao hiệu quả sử dụng và chất lượng nguồn vốn đầu tư.
Cần quan tâm đến các khu dân cư, các vùng, đối tượng còn nhiều khó khăn;
thu hẹp dần khoảng cách về phát triển đô thị hóa giữa các xã, phường.

Tiếp tục tập trung chỉnh trang đô thị. Mục tiêu của đô thị hóa phải hướng
tới bảo đảm cân đối giữa tính hiện đại với tính bền vững của tự nhiên-con
người-xã hội trên cơ sở tìm kiếm những phương thức phát triển đô thị tiết
kiệm đất, đô thị xanh và đô thị sinh thái. Vì vậy, việc xây dựng và phát triển
đô thị cần có một tầm nhìn dài hạn, khoa học và tổng thể.

Đối với Thị xã hiện nay, cần tiếp tục đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật
theo quy hoạch đã được duyệt, tạo cảnh quan môi trường xanh, sạch đẹp. Chú
trọng việc điều chỉnh qui hoạch tổng thể nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
bảo vệ di sản văn hóa và lịch sử, hình thành lối sống khoa học-văn minh, xây
dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ (tránh tình trạng ngập nước, kẹt xe, ô nhiễm môi
trường…như một số đô thị lớn hiện nay).

3.3.3. Nâng cao trách nhiệm, hiệu quả quản lý của các cơ quan công
quyền và cán bộ-công chức

Nhà nước giữ vai trò quan trọng trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh
tế và công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế tự nó không đem lại công bằng xã
hội, ngược lại, nếu không thực hiện công bằng xã hội thì tăng trưởng sẽ không
bền vững, xã hội sẽ mất ổn định. Vì vậy, nâng cao trách nhiệm, hiệu quả quản
lý của các cơ quan công quyền và đội ngũ cán bộ-công chức là cần thiết cho
phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm công bằng xã hội.
84

Trước hết, cần đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin để giải
quyết thủ tục hành chính cho tổ chức và công dân tại bộ phận một cửa liên
thông từ Thị xã đến các xã, phường nhằm phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn.
Tiến tới thực hiện chính phủ điện tử trong mọi giao dịch giữa cơ quan với cơ
quan; giữa cơ quan với doanh nghiệp; giữa cơ quan với nhân dân và trong nội
bộ đơn vị, cơ quan, trường học nhằm giảm các chi phí không cần thiết cho xã
hội (chi phí mòn giầy) và thực hiện công bằng xã hội.

Các cơ quan nhà nước phải nâng cao hiệu quả quản lý của mình trên cơ
sở đảm bảo sự minh bạch, công khai và trách nhiệm giải trình trước nhân dân
đối với mọi hoạt động, nhất là các dự án đầu tư công. Đồng thời, phải có cơ
chế bảo đảm cho người dân được tham gia sâu và rộng nhằm ngăn ngừa
những quyết định, những chính sách phục vụ các nhóm lợi ích, đi ngược lại
lợi ích chung của đất nước, của địa phương và của đông đảo nhân dân.

Muốn xây dựng chính quyền vững mạnh, cần phải xây dựng một đội ngũ
“quan chức” thật sự giỏi, tận tâm, thanh liêm với một chế độ lương bổng phù
hợp để quá trình đề ra các chính sách và thực thi các chính sách có hiệu
quả. Kinh nghiệm cho thấy ở các nước như Singapore, Nhật bản, Hàn
quốc…phát triển nhanh một phần nhờ vào đội ngũ công chức có năng lực thật
sự, tận tâm và thanh liêm. Nếu không có một đội ngũ cán bộ giỏi và tốt thì
mọi giải pháp dù hay cách mấy chỉ là tờ giấy lộn mà thôi. Trong bối cảnh thế
giới đầy biến động như hiện nay, một nhà nước quản lý tốt với một đội ngũ
cán bộ giỏi và thanh liêm là hết sức cần thiết.

Để có đội ngũ công chức đủ trình độ, trước hết đòi hỏi công tác tuyển
dụng phải chuyên nghiệp, tổ chức thi tuyển công khai và công bằng. Đồng
thời, phải kèm theo các chế độ sử dụng, lương-thưởng, thăng tiến, đãi ngộ, sát
hạch và kể cả đào thải thích hợp.
85

Tóm tắt chương 3

Trong chương 3, luận văn đã trình bày những quan điểm và định hướng
của Đảng Cộng sản Việt Nam về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội; định hướng và mục tiêu của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và thị xã Bà
Rịa về tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội giai đoạn 2010 – 2020; trình
bày những giải pháp cơ bản nhằm kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội tại thị xã Bà Rịa trong giai đoạn 2010 - 2020, đó là:

- Duy trì tốc độ tăng trưởng cao đồng thời nâng cao chất lượng tăng
trưởng. Chú trọng việc đẩy mạnh thu hút đầu tư, nâng cao năng suất lao động,
đầu tư vào tiến bộ-công nghệ và đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

- Thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách
phát triển. Tập trung vào các nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục, chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội và xóa đói - giảm
nghèo, tăng cường cơ sở hạ tầng và đô thị hóa.

- Nâng cao trách nhiệm, hiệu quả của các cơ quan công quyền và cán bộ-
công chức: đảm bảo công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, tạo điều
kiện cho nhân dân tham gia có hiệu quả vào quá trình hoạch định và thực hiện
chính sách. Đồng thời, xây dựng đội ngũ cán bộ-công chức giỏi, tận tâm và
thanh liêm.
86

KẾT LUẬN

Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là một trong những vấn đề cốt
lõi của mọi thời đại. Mặc dù đã có nhiều mô hình và ý kiến khác nhau, nhưng
đến nay cả lý thuyết và thực tiễn đều khẳng định: tăng trưởng tự nó không
đem lại công bằng xã hội được (trường hợp Trung Quốc), và ngược lại, công
bằng xã hội không dựa trên tăng trưởng kinh tế thì chỉ là công bằng mong
manh (trường hợp các nước xã hội chủ nghĩa và Việt Nam trước đây). Tăng
trưởng kinh tế có thể đi đôi với công bằng xã hội (Oshima) miễn sao đời sống
nhân dân được cải thiện hoặc không xấu đi trong khi quá trình tăng trưởng
vẫn tiến lên (WB). Thực tiễn kinh nghiệm của các nước (Nhật Bản, Hàn
Quốc) đã cho thấy tăng trưởng kinh tế là cơ sở vật chất để tạo điều kiện thực
hiện công bằng xã hội, ngược lại, việc thực hiện công bằng xã hội tạo động
lực cho phát triển bền vững.

Vì vậy, tăng trưởng và công bằng không hề có sự mâu thuẫn nhau, mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội không phải là sự đánh
đổi, loại trừ mà là quan hệ biện chứng, phụ thuộc lẫn nhau.

Đối với nước ta, việc xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội đã được Đảng ta lựa chọn, đó là : “ kết hợp giữa tăng trưởng kinh
tế và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển”. Qua
thực tế nghiên cứu tại thị xã Bà Rịa cho thấy việc kết hợp giữa tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội giai đoạn 1995 – 2009 đạt nhiều tiến bộ, đó là:

- Tốc độ tăng trưởng GDP và GDP bình quân đầu người tăng cao,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng tiến bộ, vốn đầu tư phát triển sử
dụng có hiệu quả, năng suất lao động tăng cao góp phần đáng kể vào tăng
trưởng kinh tế của Thị xã. Đồng thời, việc thực hiện công bằng xã hội đạt
87

nhiều thành tựu trên các lĩnh vực như: giáo dục có những chuyển biến tích
cực, đạt nhiều kết quả quan trọng; công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân
dân được chú trọng; xóa đói-giảm nghèo và an sinh xã hội được quan tâm; và
thành tựu nổi bật nhất là xây dựng cơ sở hạ tầng và đô thị hóa tại Thị xã.

- Tuy nhiên, việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
tại Thị xã trong thời gian qua vẫn còn những hạn chế, yếu kém là: tăng trưởng
kinh tế còn dưới mức tiềm năng và việc thực hiện công bằng xã hội nhìn
chung còn bất cập và độ bao phủ chưa rộng.

Trong giai đoạn 2010 - 2020 tới vẫn còn nhiều thách thức trong việc kết
hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội tại thị xã Bà Rịa. Luận văn
đã đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội, cụ thể là:

Một, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đồng thời nâng cao chất
lượng tăng trưởng: giải pháp đề xuất là tăng vốn đầu tư phát triển bằng cách
thu hút đầu tư trong và ngoài nước; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và nông thôn nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội; chú
trọng đầu tư và ứng dụng các tiến bộ-công nghệ nhằm nâng cao năng suất và
sức cạnh tranh của sản phẩm; tập trung đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng phát triển mô hình nông nghiêp-sinh thái-đô thị, công nghệ cao và
dịch vụ chất lượng cao nhằm phát huy lợi thế so sánh về vị trí địa-chính trị
của một trung tâm tỉnh lỵ sắp tới.

Hai, thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính
sách phát triển: giải pháp đề xuất là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
và đồng đều ở mỗi trường, mỗi xã, phường; tăng đầu tư và tăng chi ngân sách
cho y tế nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, thực hiện bảo hiểm y tế bắt buộc
toàn dân; mở rộng mạng lưới an sinh xã hội, chú trọng đào tạo nghề là biện
88

pháp tốt nhất để xóa đói, giảm nghèo; tăng cường cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã
hội và xây dựng Thị xã thành đô thị hiện đại, xanh và sạch.

Ba, nâng cao trách nhiệm, hiệu quả quản lý của các cơ quan công quyền
và đội ngũ cán bộ-công chức: giải pháp đề xuất là hướng tới thực hiện chính
phủ điện tử; thực hiện các chế độ công khai, minh bạch và trách nhiêm giải
trình với nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia có hiệu quả vào quá
trình hoạch định, thực thi và giám sát thực hiện luật pháp, các chủ trương,
chính sách phát triển kinh tế-xã hội. Đồng thời, chú trọng xây dựng đội ngũ
cán bộ-công chức giỏi, tận tâm và thanh liêm.

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã gặp khó khăn trong việc đánh giá
tác động của tăng trưởng kinh tế đến công bằng xã hội tại thị xã Bà Rịa thông
qua các chỉ số theo thông lệ quốc tế hiện nay (như GINI, HDI, chênh lệch
giàu – nghèo...) do không có đủ dữ liệu trong niên giám thống kê hàng năm ở
cấp huyện, thị xã và kể cả tỉnh. Đây chính là những vấn đề còn tồn tại và cũng
là những vấn đề mà tác giả thấy cần phải nghiên cứu tiếp khi có điều kiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Thành Tự Anh (2008), “ Trung Quốc : Từ tăng trưởng bằng mọi giá tới
phát triển hài hòa”,
http;//www.tiasang.com.vn/DesktopModules/VietTotal.Articles/Print

2. GS.TS.Vũ Đình Bách – GS.TS.Trần Minh Đạo (đồng chủ biên) (2006), Đặc
trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Ban chỉ đạo Giảm nghèo thị xã Bà Rịa, Báo cáo tổng kết các năm từ 1995 đến
2008

4. Chương trình Việt Nam, Đại học Harvard (2008), “ Lựa chọn thành công –
Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai của Việt Nam”.

5. David Begg (2007), Kinh tế học vĩ mô, (bản dịch) Nxb. Thống kê, Hà Nội.

6. Phạm Mỹ Duyên (2006), Tăng trưởng kinh tế với vấn đề công bằng xã hội tại
Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, chuyên ngành Kinh tế-
chính trị, Khoa Kinh tế - Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.

7. Đảng bộ thị xã Bà Rịa (2008), Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ Thị
xã lần thứ 14 khóa III (mở rộng) tổng kết năm 2008.

8. Đảng bộ thị xã Bà Rịa (2009), Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ Thị
xã lần thứ 18 khóa III (mở rộng) tổng kết năm 2009.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp
hành Trung ương Khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp
hành Trung ương Khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Joseph E. Stiglitz (1995), Kinh tế học công cộng, (bản dịch) Trường Đại học
Kinh tế quốc dân Hà Nội, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

16. Joseph E. Stiglitz (2008), Toàn cầu hóa và những mặt trái, bản dịch của
Nxb.Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

17. Nguyễn Chí Hải (2008), Bài giảng: Kinh tế học phát triển (Kinh tế học cho
thế giới thứ ba) – Chương trình Cao học môn Kinh tế Phát triển, Khoa Kinh
tế, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.

18. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Tp.HCM, Khoa kinh
tế phát triển (2005), Kinh tế học phát triển, Tập bài giảng, Thành phố Hồ Chí
Minh.

19. Đinh Phi Hổ (2006), Kinh tế phát triển, Nxb Thống kê, Thành phố Hồ Chí
Minh.

20. Vũ Minh Khương (2007), “ Đột phá từ triết lý phát triển”, VietnamNet, cập
nhật các ngày 27, 28 và 29/4/2007.

21. PGS-TS. Nguyễn Văn Luân (2006), Kinh tế Vĩ mô ( Đề cương bài


giảng,chương trình Cao học chuyên ngành Kinh tế học), Khoa Kinh tế-Đại
học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
22. Michael P.Todaro (1998), Kinh tế học cho thế giới thứ ba, bản dịch
Nxb.Giáo dục, Hà Nội.

23. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập – t.9 (1958 – 1959) Xuất bản lầ thứ hai, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập – t.9 (1966 – 1969) Xuất bản lầ thứ hai, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. N.Gregory Mankiw (2003), Nguyên lý kinh tế học-Tập II, bản dịch
Nxb.Thống kê, HàNội.

26. Ngân hàng Thế giới (2006), Báo cáo Phát triển con người.

27. GS.TS. Nguyễn Công Nghiệp (2006), Phân phối trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

28. Phòng Thống kê thị xã Bà Rịa, Niên giám thông kê 2007-2008/2006-


2007/2005-2006; Số liệu thống kê thị xã Bà Rịa 10 năm (1995-2004)

29. Vũ Thị Ngọc Phùng (2006), Giáo trình kinh tế phát triển, Nxb Lao động xã
hội, Hà Nội.

30. Trần Thị Minh Phương (2005), Công bằng trong hoạt động sự nghiệp y tế ở
Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế, chuyên ngành Kinh tế-chính trị, Khoa
Kinh tế, Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.

31. Robert M.Solow, Bài diễn thuyết đoạt giải, (Hồ Phương Nga phiên dịch),
cập nhật Tuesday,July 10,2007-05:40 PM, www.kinhtehoc.com

32. Phương Ngọc Thạch (2007), Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến
bộ xã hội tại TP.HCM, Tạp chí Phát triển kinh tế-Tháng sáu 2007-tr.20.

33. GS. Trần Văn Thọ (2005), Biến đổi kinh tế Đông Á và con đường công
nghiệp hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. GS. Trần Văn Thọ (2008), “ Điều kiện để Việt Nam phát triển bền vững”,
http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=66&CategoryID=78News.

35.TS. Nguyễn Văn Trình (2002), Sự phát triển các học thuyết kinh tế, Nxb. Lao
động-xã hội, Hà Nội.

36. Trung tâm Dân số-KHHGĐ thị xã Bà Ria (2009), Báo cáo thực hiện chỉ tiêu
Dân số-KHHGĐ các năm (từ 1996 đến 2008)

37. Trung tâm Thông tin-Tư liệu - CIEM (2006), “ Thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội trong chính sách phát triển”.

38. Trung tâm Y tế thị xã Bà Rịa (2009), Báo cáo tổng kết đánh giá hoạt động
15 năm ngành y tế thị xã Bà Rịa.

39. Phạm Thị Tuệ (2001), Giáo trình kinh tế phát triên I, Bộ môn Kinh tế phát
triển, Trường Đại học Thương mại, Hà Nội.

40. Trần Lệ Thủy (2004), “ Cải cách chính sách phát triển kinh tế ở Trung
Quốc”, http://www.nld.com.vn/72404POC1014/cai-cach-...

41. UNDP, Human Development Indices 2008; Human Development Report


2007/2008.

42. UNDP, Human Development Report 2009.

43. Ủy Ban Nhân Dân thị xã Bà Rịa (2008), Báo cáo tình hình thực hiện kinh tế-
xã hội năm 2008 và một số nhiệm vụ, biện pháp thực hiện nhiệm vụ kế hoạch
năm 2009.

44. Vietnam Agenda 21 (2004), “Chương trình Nghị sự 21 toàn cầu”,


http://www.va21.org/vietnamese/index.php?param=NewsInfo&Key=16

45. World Bank (2007), List of countries by GDP (nominal) per capita, http://
en.wikipedia.org/wiki/List_of_countries_by_GDP_per_capita.
46. World Bank (1 July 2009), World Development Indicators database: Gross
domestic product 2008, PPP.

47. World Bank (revised 24 April 2009), World Development Indicators


database: Gross domestic product 2007.

48. TS. Trần Thị Kim Xuyến (chủ biên) Thạc sĩ Nguyễn Thị Hồng Xoan (2002),
Nhập môn Xã hội học, Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Nxb.Đại học
quốc gia Hà Nội.
PHỤ LỤC
Phụ lục 2.2.1: Tổng sản phẩm trên địa bàn (GDP) của thị xã Bà Rịa theo giá so
sánh (1994) phân theo khu vực kinh tế giai đoạn 1995-2009

Đơn vị tính: Triệu đồng


Chia ra
Nông,lâm nghiệp Công nghiệp Dịch vụ
Năm Tổng số Tăng và thủy sản và xây dựng
trưởng Tăng Tăng Tăng
(%) Tổng số trưởng Tổng số trưởng Tổng số trưởng
(%) (%) (%)

1995 392.805 - 50.248 - 234.056 - 108.501 -


1996 423.330 7,78 52.612 4,70 251.366 7,39 119.352 10,00
1997 483.457 14,21 59.716 13,50 287.109 14,22 136.632 14,48
1998 599.604 24,03 61.421 2,86 374.511 30,44 163.672 19,79
1999 765.801 27,72 68.002 10,71 479.786 28,11 218.013 33,20
2000 903.022 17,92 77.886 14,53 609.218 26,98 215.918 -0,96
2001 1.065.310 17,98 82.165 5,49 730.986 19,99 252.159 16,78
2002 1.270.033 19,22 84.609 2,97 887.904 21,47 297.520 17,99
2003 1.529.806 20,46 90.044 6,42 1.075.191 21,09 364.571 22,54
2004 1.812.289 18,47 105.140 16,77 1.292.061 20,17 415.088 13,86
2005 2.037.481 12,43 104.056 -1,03 1.435.795 11,12 497.630 19,89
2006 2.554.736 25,39 121.081 16,36 1.838.266 28,03 595.389 19,64
2007 3.000.782 17,46 124.469 2,80 2.151.133 17,02 725.180 21,80
2008 3.626.194 20,84 133.534 7,28 2.565.504 19,26 927.157 27,85
2009 4.325.487 19,28 147.161 10,20 3.003.655 17,08 1.174.671 26,70
Bình quân= 18,80 8,11 20,17 18,83

(Nguồn: Niên giám thống kê của thị xã Bà Rịa 1995-2004, 2005-2009 và tính toán của Tác giả)
Phụ lục 2.2.2.1: Cơ cấu ngành kinh tế của thị xã Bà Rịa theo giá thực tế

Phân theo khu vực


Năm GDP
(triệu đồng) Công nghiệp Dịch vụ Nông, Lâm, Thủy
Giá trị Cơ cấu Giá trị Cơ cấu Giá trị Cơ cấu
(triệu đồng) (%) (triệu đồng) (%) (triệu đồng) (%)

1995 455.191 276.854 60,82 115.025 25,27 63.312 13,91


1996 560.480 349.012 62,27 143.052 25,52 68.416 12,21
1997 657.902 411.885 62,61 168.800 25,66 77.217 11,74
1998 771.199 483.696 62,72 201.437 26,12 86.066 11,16
1999 999.941 641.439 64,15 263.762 26,38 94.740 9,47
2000 1.171.340 784.088 66,94 283.630 24,21 103.622 8,85
2001 1.383.962 939.372 67,88 331.236 23,93 113.354 8,19
2002 1.649.477 1.140.354 69,13 390.822 23,70 118.301 7,17
2003 2.018.236 1.396.383 69,19 478.900 23,73 142.953 7,08
2004 2.416.315 1.691.879 70,02 545.260 22,57 179.176 7,42
2005 2.881.066 2.015.977 69,97 653.685 22,69 211.404 7,34
2006 3.532.646 2.516.449 71,23 782.103 22,14 234.094 6,63
2007 4.167.138 2.974.715 71,39 952.597 22,86 239.826 5,75
2008 5.000.985 3.358.036 67,15 1.375.530 27,50 267.419 5,35
2009 5.983.448 3.935.426 65,77 1.742.742 29,13 305.280 5,10
So sánh
2009 - 1995 +4,95 +3,86 -8,81
(Nguồn: Niên giám Thống kê của thị xã Bà Rịa và tính toán của Tác giả)
Phụ lục 2.2.2.2: Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế
của thị xã Bà Rịa

TS lao động Cơ cấu lao động phân theo ngành


đang
Năm làm việc Công nghiệp Dịch vụ Nông nghiệp

(người)
Số lđ Tỉ lệ Số lđ Tỉ lệ Số lđ Tỉ lệ
(người) (%) (người) (%) (người) (%)

1995 25.344 3.759 14,83 9.578 37,79 12.007 47,38


1996 26.253 3.969 15,12 9.922 37,79 12.362 47,09
1997 26.782 4.014 14,99 10.121 37,79 12.647 47,22
1998 27.265 4.029 14,78 10.304 37,79 12.932 47,43
1999 29.360 5.442 18,54 11.096 37,79 12.822 43,67
2000 33.481 9.276 27,71 12.653 37,79 11.552 34,50
2001 33.883 7.568 22,34 12.805 37,79 13.510 39,87
2002 34.197 7.655 22,39 12.924 37,79 13.618 39,82
2003 34.859 7.803 22,38 13.770 39,50 13.286 38,12
2004 35.323 7.907 22,39 13.350 37,79 14.066 39,82
2005 34.893 8.213 23,54 12.374 35,46 14.306 41,00
2006 35.850 8.663 24,17 12.695 35,41 14.492 40,42
2007 39.322 11.586 29,46 13.026 33,13 14.710 37,41
2008 42.999 12.399 28,84 15.986 37,18 14.614 33,98
2009 45.794 13.428 29,32 17.248 37,67 15.118 33,01
So 2009 - 1995= +14,49 -0,12 -14,37
sánh 1,8 lần 3,57 lần 1,8 lần 1,26 lần
Phụ lục 2.2.3: Hệ số ICOR của thị xã Bà Rịa giai đoạn 1995-2009

Vốn đầu tư GDP Tỉ lệ vốn Tăng trưởng GDP

Năm Theo giá thực tế Theo giá thực tế ĐT/GDP Theo giá so sánh ICOR
(triệu đồng) (triệu đồng) (%) (%) (lần)

1995 12.050 455.191 02,65 - -


1996 25.257 560.480 04,51 7,78 0,58
1997 33.925 657.902 05,16 14,21 0,36
1998 29.753 771.199 03,86 24,03 0,16
1999 73.416 999.941 07,35 27,72 0,27
2000 84.777 1.171.340 07,24 17,92 0,40
2001 73.475 1.383.962 05,31 17,98 0,30
2002 90.322 1.649.477 05,48 19,22 0,29
2003 211.603 2.018.236 10,49 20,46 0,51
2004 179.005 2.416.315 07,41 18,47 0,40
2005 643.511 2.881.066 22,34 12,43 1,80
2006 642.172 3.532.646 18,18 25,39 0,72
2007 753.557 4.167.138 18,09 17,46 1,04
2008 775.339 5.000.985 15,50 20,84 0,74
2009 909.521 5.983.448 15,20 19,25 0,79
Bình quân trong giai đoạn= 09,92 18,80 0,56
(Nguồn: Niên giám thống kê của thị xã Bà Rịa qua các năm và tính toán của Tác giả)
Phụ lục 2.2.4: Năng suất lao động xã hội tính theo giá trị tăng thêm (giá thực tế)
phân theo ngành kinh tế của Thị xã năm 2009
Giá trị Lao động đang Năng suất lao động
tăng thêm làm việc (người) Ngành
Ngành (triệuđồng) (đồng/người)

1 Nông, Lâm nghiệp 137.891 14.204 9.707.899


2 Thủy sản 55.633 914 60.867.615
3 CN khai thác mỏ 82.960 486 170.699.588
4 CN chế biến 733.761 8.141 90.131.556
5 SX và PP điện, nước 1.145.143 336 3.408.163.690
6 Xây dựng 552.897 4.465 123.829.115
7 Thương nghiệp-DV 704.931 7.449 94.634.313
8 Khách sạn nhà hàng 138.996 3.288 42.273.723
9 Vận tải, thông tin 88.813 1.307 67.951.798
10 Tài chính, tín dụng 83.839 302 277.612.583
11 Hoạt động KH-CN 35.095 27 265.871.212
12 KD tài sản, DV tư vấn 105
13 QLNN, ANQP 142.951 1.110 128.784.685
14 Giáo dục 34.488 1.469 23.477.195
15 Y tế, cứu trợ XH 21.031 566 37.157.244
16 Văn hóa,TDTT 3.216 210 15.314.286
17 Đảng, đoàn thể 6.346 310 20.470.968
18 Phục vụ cá nhân và cộng đồng 20.753 858 24.187.646
19 Làm thuê gia đình 8.946 247 36.218.623
Bình quân
Tổng số 3.997.687 45.794 = 87.297.179
Phụ lục 2.4.1.2: Cơ cấu giá trị tăng thêm theo giá thực tế phân theo khu vực của
thị xã Bà Rịa
(Đơn vị tính: Triệu đồng)
Phân theo khu vực
Năm Tổng số Công nghiệp Dịch vụ Nông nghiệp
Giá trị Cơ cấu Giá trị Cơ cấu Giá trị Cơ cấu
(%) (%) (%)

1995 228.583 114.207 49,96 90.846 39,74 23.530 10,29


1996 266.947 136.974 51,31 104.829 39,27 25.144 9,42
1997 332.480 177.455 53,37 126.893 38,17 28.132 8,46
1998 399.743 215.096 53,81 153.418 38,38 31.229 7,81
1999 521.948 281.180 53,87 204.992 39,27 35.776 6,85
2000 724.868 472.125 65,13 183.777 25,35 68.965 9,51
2001 856.268 568.465 66,39 212.542 24,82 75.260 8,79
2002 1.021.800 692.837 67,81 251.016 24,57 77.947 7,63
2003 1.249.430 846.373 67,74 310.188 24,83 92.869 7,43
2004 1.493.612 1.026.339 68,72 352.899 23,63 114.374 7,66
2005 1.787.398 1.233.292 69,00 420.011 23,50 134.095 7,50
2006 2.166.097 1.509.767 69,70 510.420 23,56 145.910 6,74
2007 2.538.537 1.779.920 70,12 609.244 24,00 149.372 5,88
2008 3.340.694 2.172.343 65,03 1.002.004 29,99 166.347 4,98
2009 3.997.687 2.514.761 62,91 1.289.402 32,25 193.524 4,84
So sánh cơ cấu 2009 - 1995
(tăng + ; giảm - ) +12,95 -7,49 -5,45

You might also like