You are on page 1of 13

Tham luËn héi th¶o khoa häc

Nhãm SV thùc hiªn: TrÇn Ngäc Tr©m, §ç ThÞ T©m, L¹i ThÞ Kim Cóc,
TrÞnh Thuú Nhung, NguyÔn ThÞ Thanh V©n
Líp: 60113 Khoa Ng©n hµng

Siªu thÞ - Kªnh ph©n phèi trong t¬ng lai gÇn cña
ViÖt Nam

Nếu một ngày nào đó, chợ và các tiệm tạp hoá bỗng nhiên biến mất để thay vào đó là
các siêu thị và cửa hàng bán lẻ hiện đại có thương hiệu riêng trên khắp Việt Nam thì
cũng không có gì quá ngạc nhiên, bởi lẽ trong xu thế hiện nay, sự phát triển của hệ
thống phân phối này đã là một tất yếu.

PhÇn 1: Siªu thÞ- H×nh thøc ph©n phèi hiÖn ®¹i.

Từ lâu hệ thống phân phối hiện đại qua các siêu thị, đại lý, cửa hàng chuyên doanh đã
phát triển trên thế giới. Các tập đoàn phân phối thông qua kênh này hình thành sớm và
đến nay đã có những tập đoàn xuyên quốc gia có tiềm lực tài chính mạnh, có hệ thống
cửa hàng ở khắp nơi trên thế giới. Có thể kể ra Wal-Mart, luôn xếp đầu bảng top 25
siêu thị thế giới với 5.164 cửa hàng (trong đó có tính cả Seiyu ở Việt Nam). Carrefour
xếp thứ 2, với 10.704 cửa hàng,. Metro thứ 5, với 2.144 cửa hàng. Tesco đứng thứ 6
với 2.294 cửa hàng.

Từ năm 2002 đến nay, Wal-Mart luôn đứng trong top đầu danh sách Fortune 500 và
được xem là “công ty được ngưỡng mộ nhất tại Mỹ”, và trong danh sách 25 nhà kinh
doanh có khả năng làm thay đổi thế giới do hãng CNN và tạp chí Fortune bình chọn.
Wal-Mart có doanh thu lớn nhất trong số các công ty bán lẻ trên thế giới, vượt xa công
ty đứng thứ nhì là Carrefour. Doanh thu của công ty bán lẻ Pháp này chỉ gần bằng một
nửa của Wal-Mart.

1
Công ty kinh doanh siêu thị bán hàng giảm giá tối đa Wal-Mart được thành lập vào
năm 1962 tại Bentonville, bang Arkansas Mỹ với công thức nổi tiếng: cắt giảm chi phí
+ giảm giá + dịch vụ tối ưu + khai thác hiệu quả công nghệ thông tin + đảm bảo cuộc
sống nhân viên. Ra đời năm 1962 thì đến năm 1979, Wal-Mart lần đầu đạt doanh thu
một tỉ USD/năm. Ðến thời điểm 1993 thì nó đã ở mức thu vào một tỉ USD mỗi tuần.
Từ năm 2001, doanh thu mỗi ngày của Wal-Mart đã gần bằng con số ấy. Bình quân
mỗi ngày có khoảng 20 triệu người đến các siêu thị của Wal-Mart. Tại Mỹ, hơn 80%
hộ gia đình mỗi năm mua ít nhất vài sản phẩm từ các cửa hàng của hãng. Năm 2005 ,
Wal-Mart đạt mức tăng trưởng 9,5%, với mức doanh thu đáng nể là 315,6 tỷ USD.

Với sự phát triển nhanh và mạnh trên khắp thế giới như hiện nay, có thể khẳng định
hình thức phân phối này là một xu thế chắc chắn của tương lai.

PhÇn 2: HÖ thèng siªu thÞ ë ViÖt Nam hiÖn nay.

Xu híng tiªu dïng thay ®æi.

Liên tục trong ba năm gần đây, phân phối luôn đứng vị trí thứ hai trong các yếu tố
người tiêu dùng quyết định chọn lựa sản phẩm, trên cả yếu tố giá cả, ấn tượng thương
hiệu, sản phẩm mới hay tiếp thị.

Tỷ lệ các yếu tố chọn lựa của người tiêu dùng khi mua hàng

2
Mọi nỗ lực của nhà sản xuất nhằm giảm giá hay quảng bá, tiếp thị dù tốt cách mấy
dường như cũng không có ý nghĩa nếu điểm bán hàng không thuận lợi cho người tiêu
dùng lui tới.

Có thể nói, nếu như năm 2003, chất lượng sản phẩm là yếu tố hàng đầu và tới năm
2004, sự an toàn trong sản phẩm là cái mà người tiêu dùng đòi hỏi đến thì năm 2006
chất lượng, sự an toàn chỉ còn là vấn đề tất yếu, cái mà người tiêu dùng hiện nay quan
tâm là sự tiện lợi khi mua sản phẩm.

Với nhóm sản phẩm cạnh tranh mà không chênh nhau đáng kể về chất lượng thì yếu
tố dễ mua là lựa chọn đầu tiên của người tiêu dùng. Nhóm hàng thiết yếu thì mức độ
quan tâm đến yếu tố phân phối càng cao. Chẳng hạn ngành dược, theo kết quả năm
2005, có đến 27,6% trong 6 yếu tố (phân phối, chất lượng, giá cả, tiếp thị, sản phẩm
mới và thương hiệu) lựa chọn của người tiêu dùng là bởi sản phẩm có mạng lưới phân
phối tốt.

Có thể thấy rõ điều này qua kết quả điều tra Hàng Việt Nam chất lượng cao
(HVNCLC) năm 2006, về thứ tự lựa chọn nơi mua hàng, là cửa hàng chuyên, đại lý,
siêu thị, tiệm tạp hoá, chợ. Các kênh phân phối hiện đại bao gồm siêu thị, đại lý, cửa
hàng chuyên chiếm tỷ lệ áp đảo, đến 78,53% trong lựa chọn nơi mua hàng của người
tiêu dùng. Các kênh
phân phối truyền thống
gồm chợ, tiệm tạp hoá

3
và các kênh khác đang thu hẹp dần tỷ trọng trong lưu lượng hàng đưa ra thị trường
của doanh nghiệp HVNCLC nói chung.

Trong các kênh phân phối chính nêu trên, ngoài cửa hàng chuyên và đại lý mang tính
chất chuyên biệt như cửa hàng vật liệu xây dựng, cửa hàng thời trang, đại lý xe máy,
… thì chợ, tiệm tạp hóa phải cạnh tranh trực diện với siêu thị. Thực phẩm chế biến,
nhu yếu phẩm là loại hàng chủ lực của hệ thống siêu thị hiện nay.

Tiệm Cửa hàng Kênh


Chợ Siêu thị Đại lý
tạp hoá chuyên khác
Dược phẩm & dụng cụ
4.7% 2.7% 2.9% 17.0% 70.2% 2.5%
y tế
Văn phòng phẩm 28.1% 5.1% 11.7% 14.1% 35.1% 5.9%
Gia vị 28.9% 26.6% 28.3% 12.7% 2.7% 0.8%
Giấy 23.5% 5.3% 11.5% 17.3% 35.7% 6.7%
Thực phẩm chế biến 22.8% 16.9% 37.6% 16.1% 5.9% 0.8%
Bánh kẹo 20.5% 10.3% 21.3% 25.4% 21.3% 1.2%
Nhựa & cao su 3.5% 26.0% 7.0% 27.7% 34.8% 0.9%
Sữa & sản phẩm từ sữa 25.6% 8.9% 27.0% 27.5% 9.4% 1.6%
Đồ uống 26.2% 8.8% 23.1% 28.4% 9.2% 4.4%
Hoá dược 29.1% 15.2% 33.6% 12.3% 8.7% 1.1%
Chung 11.0% 8.4% 15.1% 25.0% 38.4% 2.1%

HÖ thèng ph©n phèi ë níc ta.

4
Hệ thống phân phối ở Việt Nam hiện nay chủ đạo bởi hệ thống phân phối truyền thống
với kênh phân phối chính là chợ và các tiệm bán lẻ rải rác khắp các địa phương. Điều
này đối chọi với hệ thống kinh doanh bán lẻ hiện đại và chủ yếu là siêu thị như,
MaxiMark... và các trung tâm bán sỉ lẻ lớn như Metro, BigC.

Theo thống kê, cả nước hiện có 160 siêu thị, 32 trung tâm thương mại, 150.000 cửa
hàng bán lẻ và 8.751 chợ các loại, trong đó đã và đang hình thành trên 150 chợ đầu
mối cấp tỉnh, 4 chợ đầu mối cấp vùng bán buôn hàng nông sản. Bán lẻ hiện đại dưới
hình thức siêu thị tự chọn, các cửa hàng, trung tâm thương mại tuy mới xuất hiện từ
những năm 1994 nhưng đã phát triển mạnh trong những năm gần đây. Và trên thực tế,
các siêu thị, trung tâm thương mại đang ngày càng trở nên quen thuộc với cả tầng lớp
bình dân. Đến nay các cửa hàng theo kênh phân phối này không chỉ tập trung ở các
thành phố lớn, như TP.HCM, Hà Nội, mà còn mở rộng đến các tỉnh có tiềm năng, các
đô thị mới, ngoại thành.

Tốc độ tăng trưởng hàng năm của kênh phân phối hiện đại này khoảng 15%-20%, cao
hơn tốc độ tăng trưởng của ngành bán lẻ khác 10% và của nền kinh tế 7%-8%. Từ chỗ
chỉ chiếm dưới 3% thị phần bán lẻ, đã tăng lên khoảng trên 10%-25% và tốc độ này
đang ngày càng tăng cao, đến 30%-40%.

Các nhà phân phối trong nước có thể kể đến như hệ thống siêu thị Co.opMart của Liên
hiệp Hợp tác xã Thương mại TP.HCM, nhiều năm được Tạp chí bán lẻ châu Á bình
chọn là nhà bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam; Maximark, Tax, Vinatex Mart và Satra…
http://www.atkearney.com/shared_res/pdf/GRDI_2006.pdf

Trong các nhà phân phối nước ngoài, đi tiên phong là Metro & Carry (Ðức), nhà phân
phối lớn thứ 5 trên thế giới. Tiếp đó là Big C (Pháp) hiện đã được cấp phép 4 siêu thị,
trong đó Big C Thăng Long (đã đi vào hoạt động) là siêu thị bán lẻ lớn nhất Việt
Nam…

5
¸p lùc víi c¸c doanh nghiÖp ViÖt Nam.

Một loạt nhà đầu tư nước ngoài này trong lĩnh vực kinh doanh siêu thị đang đặt DN
trong nước trước sức nóng của cuộc cạnh tranh giành kênh phân phối hàng hóa hiện
đại tại Việt Nam.

Xu hướng tiêu dùng thay đổi. Thêm nữa, sự chênh lệch về phương thức kinh doanh,
sự đa dạng hàng hóa, giá cả, nhãn hiệu, an toàn thực phẩm... đã nghiêng cán cân lợi
thế về phía hệ thống phân phối hiện đại. Trong đó dường như các nhà phân phối nước
ngoài đang chiếm thế áp đảo. Có cảnh báo rằng chỉ cần một siêu thị Wal-mart ở trung
tâm TP.HCM thì tất cả siêu thị của Saigon Co-op sẽ biến mất

Hệ thống quản trị của mạng lưới phân phối Việt Nam hiện nay vẫn còn thiếu tính
chuyên nghiệp. Hệ thống phân phối nhiều tầng nấc đã đẩy chi phí và giá hàng hóa lên
cao, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và làm giảm tính cạnh tranh của các công ty
phân phối của Việt Nam. Kinh nghiêm từ các nước cho thấy, hệ thống phân phối tốt
phải đảm bảo ở tất cả các khâu từ dự trữ, phân loại, bảo quản, vận chuyển cho đến
bước chuẩn bị cho khâu bán lẻ. Muốn thực hiện được hệ thống phân phối đồng bộ thì
đòi hỏi phải có nguồn tài chính mạnh và hình thức quản lý phù hợp. Tuy nhiêu, đối
với các công ty Việt Nam có vẻ như là quá sức.

Các nhà đầu tư nước ngoài lại mạnh hơn ở mạng lưới phân phối quốc tế nên chủ động
được đầu ra và đầu vào của sản phẩm. Họ có một hệ thống quản trị (tài chính, nhân sự
và kinh doanh) ổn định với đội ngũ quản lý chuyên nghiệp, được sự hỗ trợ của tập
đoàn. Đồng thời, theo nhiều tình huống đã xảy ra trên nhiều quốc gia trong khu vực,
nhà phân phối hiện đại với những trung tâm bán lẻ khổng lồ đa quốc gia sẽ tạo ra
những sức ép vô cùng to lớn về chiết khấu, tín dụng, khuyến mãi, điều kiện giao hàng
đối với nhà sản xuất nội địa, nhiều rào cản sẽ được dựng lên và chỉ có một vài thương
hiệu mạnh, ít ỏi công ty nội địa vững mạnh may ra có thể nhảy qua được những rào
cản trên.
6
Ban đầu, khi các nhà phân phối nước ngoài mới nhảy vào Việt Nam, dù xác định được
áp lực cạnh tranh nhưng các nhà phân phối trong nước vẫn “ung dung” vì cho rằng họ
có lợi thế về mặt bằng và lượng khách hàng thân thiết. Tuy nhiên cho dù đến sau,
nhưng với ưu thế hơn hẳn về tài chính, các tập đoàn bán lẻ nước ngoài hoàn toàn có
thể có được những mặt bằng đẹp, rộng, tọa lạc ở những vị trí thuận lợi.

Còn người tiêu dùng, không thể trách họ nếu họ “bỏ” đi dù đã có thời gian dài gắn bó.
Bởi đối với khách hàng, nơi nào thuận tiện, giá hấp dẫn, dịch vụ chuyên nghiệp họ sẽ
chọn. Về vấn đề này, không thể phủ nhận ưu thế của tập đoàn bán lẻ nước ngoài về
kinh nghiệm, nguồn tài chính dồi dào, có mạng lưới toàn cầu và đặc biệt họ có thể
điều phối được lợi nhuận trong toàn bộ hệ thống (nơi có lãi bù lỗ cho nơi chưa có).
Còn những nhà bán lẻ trong nước thì sao? Saigon Co.op, hệ thống siêu thị lớn nhất
Việt Nam hiện nay cũng chỉ có 14 siêu thị trên tổng số 24 quận, huyện của Tp.HCM
và việc mở rộng tại thành phố cũng đang là bài toán nan giải.

Hiện Việt Nam được xếp là nước đứng thứ 8 trong 30 thị trường bán lẻ nhanh nhất
toàn cầu, là 1 trong 7 quốc gia có sức hấp dẫn nhất về đầu tư thương mại. Do đó hoàn
toàn dễ hiểu khi sau Metro Cash & Carry (hiện có 6 trung tâm phân phối ở TP Hồ Chí
Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Cần Thơ và Ðà Nẵng, sắp tới là trung tâm thứ 2 ở Hà Nội
đi vào hoạt động), Big C (Pháp) và tập đoàn Parkson (Malaysia) cũng có kế hoạch
triển khai hệ thống 10 trung tâm thương mại tại Việt Nam. Danh sách những tên tuổi
đang “xếp hàng” xin giấy phép đầu tư vào Việt Nam cũng tiếp tục dài hơn với nhiều
tên tuổi lớn: Tesco (Anh); Giant South Asia Invesment. Pte (Singapore); Wall Mart
(Mỹ) và Carrefour (Pháp).

Khó khăn ngày càng nhiều với các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên cũng đã xuất
hiện những nét mới rất đáng khích lệ. Sài Gòn Co-op đưa ra ý tưởng liên kết giữa hệ
thống siêu thị Co-opmart và Satra. Dựa trên quy mô kinh doanh thực tế, có thể liên kết
này sẽ khai thác tiềm lực mạnh từ Satra với 35 doanh nghiệp thành viên (gồm 19 công

7
ty hạch toán độc lập, 6 công ty hạch toán phụ thuộc, 7 công ty cổ phần và 3 công ty
liên doanh), chiếm lĩnh các vị trí chủ chốt trong sản xuất kinh doanh thực phẩm, nông
sản, thủy hải sản của thành phố như: Vissan, APT, Cofidec, Cầu Tre…, tạo cho nhà
phân phối nguồn cung cấp hàng hoá dồi dào, ổn định, phương tiện vận chuyển, khai
thác, dự trữ, bảo quản tốt… Ngược lại, hệ thống các siêu thị Co-opmart sẽ là đầu ra
đảm bảo cho nhà sản xuất mức doanh thu, lợi nhuận, lượng khách hàng tăng trưởng
hấp dẫn. Thêm vào đó, hiện nay Satra có những mặt bằng khá tốt mà khi kết hợp với
kỹ thuật kinh doanh siêu thị của Sài Gòn Co-op có thể tạo nên những điểm kinh doanh
mới.

Một biểu hiện khác cũng đáng được quan tâm, đó là việc Công ty cổ phần G7 với
chuỗi hệ thống phân phối G7 Mart, dự kiến có khoảng 5.000 siêu thị thành viên.
Trước mắt, 500 siêu thị G7 mở cửa tại các thành phố lớn sẽ mở đầu cho việc lên đời
các cửa hàng bán lẻ bình dân theo mô hình kinh doanh 24 giờ của tập đoàn 7-Eleven
tại Thái Lan. Đổi lại, theo đúng công thức nhượng quyền thương hiệu, G7 sẽ đầu tư
cửa hàng theo một thiết kế trang trí độc quyền, cung cấp và phân phối hàng tập trung,
đồng thời thiết lập những dịch vụ giá trị gia tăng như phát hành thẻ mua hàng trả trước
khuyến mãi 10% trên giá trị thẻ, thanh toán chi phí các dịch vụ sinh hoạt như điện
nước, điện thoại... để phục vụ người tiêu dùng.

Hi vọng rằng với những sự quan tâm và đầu tư cần thiết, các doanh nghiệp Việt Nam
sẽ lấy lại thế cân bằng với các hệ thống phân phối của nước ngoài.

PhÇn 3: Ph¸t triÓn hÖ thèng siªu thÞ ë VN.

Tiềm năng cần được khai th¸c.

Như đã nói, hiện Việt Nam được xếp là nước đứng thứ 8 trong 30 thị trường bán lẻ
nhanh nhất toàn cầu, là 1 trong 7 quốc gia có sức hấp dẫn nhất về đầu tư thương mại.
Tốc độ gia tăng trong đầu tư của các tập đoàn bán lẻ và kinh doanh siêu thị tại Việt

8
Nam cho thấy một tiềm năng rất lớn về thị trường bán lẻ và dịch vụ. Thị trường này
được đánh giá mỗi năm đạt doanh số 20 tỉ USD và có tốc độ tăng trưởng đến 30%
năm. Thống kê từ một số hệ thống siêu thị trong nước, mức tăng doanh thu thường
trên 20%/năm, có nơi lên đến trên 30%/năm, lượng khách đến các siêu thị mua sắm
ước tăng khoảng 25%.

Còng theo một nghiên cứu, năm 1990 tại Thái Lan có đến 95% là phân phối truyền
thống và đến hiện nay là 40%, dự kiến đến năm 2010 thì con số này sẽ đảo ngược
hoàn toàn. Hệ thống phân phối truyền thống sẽ không hoàn toàn biến mất mà ngày
càng bị thu hẹp. Hiện nay, kênh phân phối hiện đại chỉ chiếm tỷ lệ 10% tại Việt Nam
nhưng với một lộ trình chấp nhận lỗ có thể từ 5 đến 7 năm cộng với kinh nghiệm quản
lý, tiềm lực tài chính và sự thay đổi mạnh trong thói quen mua sắm của người tiêu
dùng thì việc đảo ngược tỷ lệ trên tất yếu sẽ xảy ra.

Khảo sát của Co.opMart cho thấy trong những năm gần đây tại các thành phố Mỹ
Tho, Long Xuyên, Phan Thiết..., có đến 50% những người mua sắm chính trong các
hộ gia đình từng có mua hàng tại siêu thị (mặc dù tại thời điểm đó các thành phố trên
chưa có siêu thị) và có đến hơn 85% những người được phỏng vấn sẵn sàng đi mua
sắm tại siêu thị nếu có loại hình này tại thành phố của họ. Khoảng 60-70% người dân
ở Tp.HCM và 20% dân số ở Hà Nội cho rằng họ thích mua sắm ở các siêu thị hơn là
các khu chợ ngoài trời. Dự đoán trong những năm tới, con số này có thể lên tương ứng
đến 90% dân số ở Tp. HCM và 50% ở Hà Nội.

Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, thu nhập của người dân được nâng cao
trông thấy. Vì vậy nhất là ở khu vực đô thị, người tiêu dùng đang ngày càng đòi hỏi ở
các kênh phân phối và ở chất luợng sản phẩm một mức độ cạnh tranh ngày càng cao.
Từ cuộc điều tra hành vi tiêu dùng cuối tháng 2.2006 của SGTT cho thấy giới trẻ ở
các thành phố lớn thường đi rất nhiều cửa hàng để so sánh trước khi quyết định chọn
mua sản phẩm. Trước đây, người tiêu dùng Việt vẫn có thói quen mua hàng hằng ngày,

9
và hàng trăm nghìn các cửa hiệu bán hàng phân bố từ thành thị tới nông thôn, luôn
đáp ứng nhu cầu hằng ngày của họ. Nhưng nay đã có nhiều sự đổi khác, người tiêu
dùng bắt đầu quen với việc tới siêu thị vào cuối tuần để mua hàng đủ dùng cho cả
tuần. Đi siêu thị như đã trở thành một sở thích với nhiều người.

Cũng theo đánh giá từ một cuộc nghiên cứu về xu hướng mua sắm của người tiêu
dùng Việt Nam thì việc lựa chọn kênh phân phối mới là do giá cả hàng hóa tại các siêu
thị, cửa hàng hiện đại được bán bằng giá tại các cửa hiệu tư nhân, chợ, trong khi chất
lượng nói chung đáng tin cậy hơn. Ngoài ra, tại những hệ thống này, người tiêu dùng
còn được hưởng nhiều tiện ích rất hiện đại, như thanh toán bằng thẻ, được tham gia
chương trình khuyến mãi, trúng thưởng, thẻ khách hàng thân thiết, giao hàng tận nhà...

Với những điều kiện trên, thị trường Việt Nam quả là một mảnh đất màu mỡ cho các
nhà phân phối trong và ngoài nước. Vậy đâu là giải pháp cho các doanh nghiệp Việt
Nam để tận dụng lợi thế sẵn có này?

Gi¶i bµi to¸n khã.

Ông Nguyễn Ngọc Hòa, Tổng Giám đốc Liên hiệp Hợp tác xã Thương mại TP.HCM
nhận định: ''Tốc độ và số lượng của các nhà đầu tư này ngày càng tăng, trong khi
chúng ta chưa có những công ty phân phối quy mô lớn, có đủ sức cạnh tranh và chiếm
lĩnh thị trường. Còn rất ít thời gian để các DN Việt Nam tiến hành xây dựng và tổ
chức các hệ thống phân phối hiện đại. Nếu không có một chiến lược phát triển thị
trường nội địa đúng đắn, nỗ lực phấn đấu hình thành những DN bán buôn, bán lẻ hiện
đại, có mạng lưới rộng, phát triển nhanh, vững chắc, không ngừng củng cố, đổi mới và
hoàn thiện hoạt động theo hướng hiện đại và chuyên nghiệp cao thì khó có thể cạnh
tranh''.

Trước sức ép cạnh tranh của các tập đoàn bán lẻ nước ngoài như Metro, Big C,
Parkson...con đường duy nhất để tồn tại của các nhà phân phối nhỏ Việt Nam là liên

10
kết. Yếu tố quyết định sự sống còn của cả một hệ thống phân phối quốc gia là ý thức
liên kết của các doanh nghiệp và vai trò hỗ trợ của nhà nước. Liên kết là chìa khóa
giúp giải quyết những nguy cơ trên. Sự liên kết giữa các nhà sản xuất, các doanh
nghiệp, liên kết những chủ tiệm tạp hóa, các sạp chợ cộng với ý thức thay đổi trong
phương thức kinh doanh nhằm tập hợp thống nhất thành một khối, hình thành nên một
kênh phân phối Việt đủ mạnh, làm đối trọng bình đẳng đối với hệ thống phân phối đa
quốc gia. Từ 2 năm nay, nhà bán lẻ nội địa này đã nhắm đến chiến lược mở rộng mạng
lưới phân phối về các tỉnh và tăng cường liên kết với các nhà phân phối trong nước
khác như Strata, Vissan, Unilever...

Sự chủ động thay đổi trong tư duy kinh doanh và phương thức hợp tác để thay đổi vị
thế, tạo ra thế chủ động, cùng hợp tác để xây dựng một kênh phân phối độc lập, tự chủ
trong việc lưu thông và phát triển hệ thống phân phối quốc gia. Nhà nước thay vì tìm
biện pháp tổ chức lại hệ thống phân phối bán lẻ thì phải có những quyết sách ưu đãi về
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, ưu tiên và tập hợp các nguồn lực đang bị phân tán nhỏ
lẻ thành một hệ thống nhất quán, có chiều sâu và đủ tầm để đối thoại với các hệ thống
bán lẻ nước ngòai. Điều cốt lõi là phải thiết lập một sự tự chủ trong kinh tế, sự chủ
động thay đổi để đón đầu những xu thế phát triển tất yếu của mở cửa và hội nhập.

Bà Phạm Chi Lan, thành viên ban nghiên cứu của Thủ tướng cho rằng sự xuất hiện
của hệ thống siêu thị lớn không đồng nghĩa với xóa bỏ hệ thống phân phối bán lẻ
truyền thống. Một số nước vẫn duy trì nâng cấp được hệ thống bán lẻ truyền thống để
cùng tồn tại với hệ thống siêu thị theo kiểu của phương Tây. Bà Lan dự đoán với cơ
cấu kinh tế, dân cư và mức sống của VN trong vòng 5-10 năm tới nếu hành động kịp
thời các doanh nghiệp Việt Nam vẫn hoàn toàn có thể xác lập chỗ đứng của mình cả ở
hệ thống siêu thị. "Tạo được liên kết giữa doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ, liên kết
giữa các vùng sẽ tạo ra khả năng thích ứng cao", bà Lan phân tích.

Ông Phan Thế Ruệ, Thứ trưởng Bộ Thương mại đưa ra ý kiến :

11
“Để làm được điều này, thứ nhất, chúng ta phải nhanh chóng đổi mới tư duy phát triển
thương mại trong nước. Đồng thời, từng bước xây dựng một thể chế phù hợp với hoàn
cảnh của mình và tập quán buôn bán quốc tế cũng như các cam kết song- đa phương
với các nước trên thế giới.

Thứ hai, phải khắc phục hạ tầng thương mại yếu kém, tạo ra không gian tổ chức lưu
thông hàng hóa một cách hoàn hảo từ sản xuất - lưu thông - tiêu dùng. Mấy năm gần
đây, Chính phủ rất quan tâm nhưng thực tế, hạ tầng thương mại vẫn còn manh mún và
chưa đi vào chiều sâu của hạ tầng để không gian lưu thông hàng hóa thực sự tạo điều
kiện cho các đối tác thương mại hoạt động thuận lợi.

Thứ ba, tính cạnh tranh hóa và tự do thương mại trên thị trường nội địa phát triển chưa
thực sự khách quan. Nhiều khi còn bị tác động bởi quản lý hành chính, làm méo mó
sự vận động của quy luật thị trường, làm cho sản phẩm thương mại và dịch vụ không
phản ánh đúng sự phát triển. Vì thế, Chính phủ phải nhanh chóng tạo ra cơ chế, chế
tài, quy chế để hoạt động thương mại đi đúng và đạt được những tiêu chuẩn của xu thế
quốc tế, đáp ứng nhu cầu của thị trường, nâng sức cạnh tranh doanh nghiệp và các sản
phẩm Việt Nam ngay trên thị trường nội địa.

Thứ tư, trong chiến lược phát triển của mình, phải kiểm tra, kiểm soát thị trường bằng
những biện pháp mà chúng ta đã cam kết như chống gian lận thương mại, chống vi
phạm sở hữu. Đặc biệt, khi Luật thương mại bắt đầu thực hiện từ 1/5/2006 sẽ có rất
nhiều vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách thương mại, nhà quản lý và những
người hoạt động thương mại phải làm thế nào đó để thị trường Việt Nam phát triển
một cách văn minh hiện đại”.

Ðể củng cố hệ thống phân phối trong nước trước sức ép quá lớn các thương hiệu nước
ngoài, Bộ Kế hoạch & Ðầu tư và Bộ Thương mại đang xây dựng một chiến lược phát
triển ngành phân phối Việt Nam từ nay đền năm 2020. Dự kiến chiến lược này sẽ
được trình lên Thủ tướng vào cuối năm nay. Các bước đi cơ bản chưa được tiết lộ,
12
nhưng về cơ bản sẽ lựa chọn khoảng 15 nhà phân phối bán lẻ tại Việt Nam để đầu tư
và hỗ trợ, trở thành những nhà phân phối lớn, làm “bộ khung” để giữ vững hệ thống
phân phối trong nước. Trong 15 nhà phân phối đó sẽ có đủ ngành hàng phục vụ hàng
tiêu dùng, vật tư, thực phẩm,... với đủ các phương thức bán lẻ như trung tâm thương
mại, siêu thị, những cửa hàng bán lẻ 24 giờ, các chợ bán buôn. Trước mắt, hệ thống
phân phối này sẽ tập trung phát triển tại 5 thành phố lớn.

Mong rằng với những cố gắng chung của doanh nghiệp và cả của nhà nước, các nhà
phân phối Việt Nam sẽ sớm dành lại ưu thế của mình trên “sân nhà”, góp phần cải
thiện và phát triển nền kinh tế nước nhà.

13

You might also like