You are on page 1of 16

Ứng dụng Hệ thông tin địa lý và Viễn thám

Ứng dụng Hệ thông tin địa lý và Viễn thám


trong quản lý môi trường và tài nguyên ở Việt Nam
Thực trạng, thuận lợi và thách thức

Phạm Văn Cự
Trung tâm Viễn thám và Geomatics VTGEO

Việc sử dụng kết hợp Viễn thám và GIS cho nhiều mục đích khác
nhau đã trở nên rất phổ biến trên toàn thế giới trong khoảng 30
năm trở lại đây. GIS bắt đầu được xây dựng ở Canada từ những
năm sáu mươi của thế kỷ 20 và đã được ứng dụng ở rất nhiều lĩnh
vực khác nhau trên toàn thế giới. Sau khi vệ tinh quan sát trái đất
Landsat đầu tiên được phóng vào năm 1972, các dữ liệu viễn thám
được xem là nguồn thông tin đầu vào quan trọng của GIS nhờ
những tiến bộ về kỹ thuật của nó. Ngày nay, Trái đất được nghiên
cứu thông qua một dải quang phổ rộng với nhiều bước sóng khác
nhau từ dải sóng nhìn thấy được đến dải sóng hồng ngoại nhiệt.
Các thế hệ vệ tinh mới được bổ sung thêm các tính năng quan sát
trái đất tốt hơn với những quy mô không gian khác nhau (hình 1).
Vệ tinh cung cấp một lượng thông tin không lồ và phong phú về
các phản ứng quang phổ của các hợp phần của trái đất như: đất,
nước, thực vật. Chính các phản ứng này sau đó sẽ phản ánh bản
chất sinh lý của trái đất và các hiện tượng diễn ra trong tự nhiên
bao gồm cả các hoạt động của con người. Chủ đề phát triển chính
của viễn thám trong một thời gian dài chính là môi trường và tầm
quan trọng của nó trong lĩnh vực này đã tăng lên nhanh chóng
trong một vài năm gần đây (Askne, 1995). Trong khi đó mục tiêu
chính của việc sử dụng GIS là tạo ra những giá trị mới cho các
thông tin hiện có thông qua phân tích không gian - thời gian và/
hoặc mô hình hoá các dữ liệu có toạ độ. Nhờ khả năng phân tích
không gian - thời gian và mô hình hoá, GIS cho phép tạo ra những
thông tin có giá trị gia tăng cho các thông tin được triết xuất từ dữ
liệu vệ tinh (Burrough và cộng sự., 1998)

Hình 1: Các ứng dụng không gian-thời gian đa tỷ lệ của các vệ tinh
khác nhau

Từ khi viễn thám lần đầu tiên được sử dụng vào những năm 70 của
thế kỷ 20, các nước đang phát triển là đối tượng chính được quan
sát bằng công nghệ này. Nền kinh tế của những nước này thường
dựa vào các hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên, đôi khi,
các bản đồ hoặc các dữ liệu sẵn có không chính xác hoặc đã lỗi
thời, yêu cầu về độ chính xác cũng thấp hơn các bản đồ của các
nước công nghiệp hoá và tương thích với dữ liệu của các vệ tinh
thế hệ đầu tiên. Những biến đổi về môi trường đang diễn ra rất
nhanh chóng (vd. hoạt động tàn phá rừng, sự mở rộng các đô thị)
do đó cần phải có những quan trắc đầy đủ. Áp lực quốc tế lên các
hoạt động quan trắc này khá lớn (bảo vệ những rừng, thúc đẩy nền
dân chủ…) trong giai đoạn toàn cầu hoá. Việt Nam không phải là
một ngoại lệ. Hơn 10 năm sau khi chính sách Đổi mới nền kinh tế
được thực hiện, nền kinh tế của Việt Nam cũng đã đạt được những
thành tựu và cũng còn nhiều thách thức như những vấn đề mới nảy
sinh trong quản lý môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Chính
phủ đã nhận ra rằng, phát triển kinh tế phải được kết hợp thực hiện
với quản lý môi trường và tài nguyên thông qua một kế hoạch hành
động bền vững. Một câu hỏi đặt ra là: Công nghệ Viễn thám và
GIS có thể đóng góp những gì nhằm hỗ trợ quá trình ra quyết định
ở Việt Nam?

Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến các ứng dụng tiềm năng
của Viễn thám và GIS trong bối cảnh hiện tại của Việt Nam, những
thách thức Việt Nam đang phải đối mặt trong quá trình phát triển
các ứng dụng của GIS và viễn thám trong quản lý môi trường và
tài nguyên.
Các ứng dụng của GIS và Viễn thám trong quản lý môi trường và
tài nguyên trong những năm gần đây.
Nghiên cứu hiện trạng lớp phủ thổ nhưỡng và hiện trạng sử dụng
đất là những ứng dụng phổ biến nhất, chúng tôi có các ảnh viễn
thám chụp Việt Nam ở những tỷ lệ khác nhau từ 1:25.000 (với ảnh
SPOT và ASTER), 1:50.000, 1:250.000 (với ảnh Landsat) đến
1:1.000.000 (với ảnh NOAA AVHRR và MODIS). FIPI và NIAPP
(Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp) là hai đối tượng chính
sử dụng công nghệ này từ những năm 80. Trong suốt thập niên
cuối của thế kỷ 20, các dữ liệu viễn thám đã được sử dụng rộng rãi
trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: nghiên cứu địa chất, lũ lụt,
nghiên cứu phân bố lúa và cháy rừng, bảo tồn các vùng đất ngập
nước, quản lý tổng hợp đới bờ, quan trắc các vùng đô thị mở rộng
một cách tự phát,… Hiện nay, đối tượng sử dụng công nghệ này rất
đa dạng, họ có thể từ các bộ, ngành ở trung ương và địa phương và
đặc biệt là các dự án nghiên cứu cũng được liệt kê trong danh sách
những người sử dụng. Hình 2, 3, 4, 5, 6 là các ví dụ minh hoạ cho
các ứng dụng của viễn thám trong những năm gần đây ở Việt Nam.

a. 25/9/2000 b. 31/10/2000

c. 24/11/2000 d. 18/12/2000

Hình 2a, b, c, d: Các khu vực ngập lũ vào mùa lũ năm 2000 ở
Đồng bằng sông Cửu Long chiết xuất từ ảnh Radarsat (Phạm Văn
Cự và cộng sự. 2002)

Các điểm cháy rừng 7/2003 Các điểm cháy rừng 8/ 2003 Các điểm
cháy rừng 9/2003 Các điểm cháy rừng 10/2003

Các điểm cháy rừng 11/2003 Các điểm cháy rừng 12/ 2003 Các
điểm cháy rừng 1/2004 Các điểm cháy rừng 2/2004

Hình 3: Phát hiện các khu vực cháy rừng bằng ảnh NOAA AVHRR
và MODIS (Phạm Văn Cự và cộng sự. 2004)

Hình 4: Phân bố lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long bằng ảnh
Radasat (RSI.2001)

Hình 5: Mối quan hệ giữa lúa và độ ngập sâu ở Đồng bằng sông
Cửu Long (Phạm Văn Cự và cộng sự. 2002)

Hình 6: Mối quan hệ giữa lúa và thời gian ngập lụt ở Đồng bằng
sông Cửu Long (Phạm Văn Cự và cộng sự. 2002)

Ở 2 ví dụ cuối (hình 5 và hình 6) chúng ta có thể nhận thấy mối


quan hệ giữa sự phân bố của lúa với độ ngập sâu và thời gian ngập
lụt thông qua các bản đồ. Chính GIS đã cho chúng ta những thông
tin thêm từ những thông tin đầu vào, vd. từ sự phân tích các dữ liệu
viễn thám. Những thông tin thêm này chính là cái mà các nhà quản
lý và ra quyết định cần chứ không phải là các kỹ thuật phức tạp mà
chúng ta thực hiện trong quá trính xử lý dữ liệu. Những thông tin
này cũng phản ánh những thành tựu mà các nhà khoa học Việt
Nam đạt được trong quá trình phát triển các ứng dụng công nghệ.
Trong giai đoạn từ năm 1997 – 1999, Bộ KHCN&MT đã xây dựng
một dự án lớn, một chương trình quốc gia mà mục tiêu là triển khai
áp dụng GIS ở các tỉnh trong đó có hơn 30 tỉnh được tham gia.
Thành tựu lớn nhất của dự án này là nâng cao nhận thức của các cơ
quan địa phương về sự hữu ích của GIS trong quá trình ra quyết
định. Ví dụ, Bình Thuận là tỉnh đã ứng dụng GIS trong đánh giá
tính phù hợp của thổ nhưỡng, kiểm soát lưu lượng nước hồ Đá
Bạch. Ứng dụng của viễn thám vào Kế hoạch kiểm soát sốt rét ở
Bình Thuận là một trong những ví dụ về sự thành công của
Chương trình GIS Quốc gia.
Hiện trạng sử dụng đất Huyện HàmThuân Nam Mô hình số độ cao
Huyện Hàm Thuân Nam Cấp độ nguy cơ nhiễm sốt rét Huyện
HàmThuân Nam

Hình 7: Bản đồ các vùng có nguy cơ mắc bệnh sốt rét ở Hàm
Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận (Phạm Văn Cự và cộng sự. 2000)

Các dự án quốc tế về ứng dụng Viễn thám và GIS và vai trò của
chúng
Dự án đầu tiên của UNDP ứng dụng viễn thám ở Việt Nam là nâng
cao năng lực về thống kê rừng ở Viện Điều tra Quy hoạch Rừng
vào những năm 80. Sau đó, UNDP tiếp tục tài trợ dự án thứ hai mà
đối tượng chính là các nhà khoa học thuộc Viện Khoa học và Công
nghệ Việt Nam trong vài năm. Vào những năm 90, Việt Nam đã
thu hút một số lớn các dự án quốc tế trong lĩnh vực nâng cao năng
lực quản lý môi trường và tài nguyên trong đó Viễn thám và GIS
luôn là hai hợp phần quan trọng. Tuy nhiên đôi khi các dự án này
không mang lại những kết quả như mong đợi trong chuyển giao
công nghệ và sự bền vững về khoa học. Những kinh nghiệm trước
đây cho thấy rằng những dự án có kết quả tốt không nhất thiết phải
là những dự án có nguồn ngân sách dồi dào mà đó là những dự án
được lên kế hoạch chi tiết, được sự phối hợp và hỗ trợ lâu dài từ
phía chính phủ, các ngành công nghiệp và các trường đại học trong
quá trình nghiên cứu khoa học. Sự có mặt của rất nhiều các dự án
nâng cao năng lực ở Việt Nam đã cho chúng ta thấy mối quan tâm
xây dựng một kế hoạch lâu dài nhằm cải thiện năng lực nghiên cứu
và giảng dạy viễn thám và GIS ở Hà Nội (Bonn và cộng sự. 2002).
Những ứng dụng viễn thám và GIS trong các dự án gồm dự báo và
xây dựng bản đồ các khu vực bị lũ lụt, mô hình hoá quá trình xói
mòn đất, phân tích không gian về các hiểm hoạ do chặt phá rừng
gây ra, xây dựng bản đồ khu đô thị mở rộng và các vấn đề sức
khỏe liên quan tới chất lượng môi trường. Chìa khoá cho sự thành
công của các dự án này nằm ở quá trình xây dựng một kế hoạch
lâu dài một cách kỹ càng với các mục tiêu khả thi cụ thể, một
chương trình đào tạo chuyên môn sâu về các phần mềm chuyên
dụng và phải có sự liên kết chặt chẽ giữa nhu cầu của xã hội với
các mục tiêu khoa học đặt ra.

Đặc tính khoa học của ứng dụng Viễn thám và GIS trong quản lý
môi trường
Để sử dụng ảnh viễn thám phục vụ quản lý môi trường và tài
nguyên cần có một quá trình chuyển đổi từ dữ liệu đến thông tin,
từ thông tin đến kiến thức và từ kiến thức đến hành động. Để triết
xuất những thông tin có ích cần phải có kiến thức và để có kiến
thức tốt cần phải được đào tạo tốt. Kiến thức tốt chính là có
phương pháp tiếp cận khoa học tốt nhằm sử dụng các thông tin có
chọn lọc, chính trị và quyền lực có thể có vai trò trong giai đoạn
này thông qua những quyết định ở phạm vi khu vực hay toàn cầu.
Hiện nay ở Việt Nam, quá trình chuyển đổi này vẫn chưa được
thực hiện tốt bởi nhiều lý do khác nhau. Các dự án chủ yếu tập
trung vào các hoạt động nâng cao nhận thức cho các nhà khoa học
và các nhà ra quyết định về cách thức chuyển đổi từ dữ liệu tốt
sang các thông tin tốt. Đối với dữ liệu viễn thám, chúng ta cần phải
có các chuyên gia người hiểu rõ các nguyên lý đo đạc các nguồn
năng lượng bức xạ hay phản xạ từ các đối tượng trên mặt đất của
vệ tinh và quá trình xử lý các số liệu đo được này nhằm cung cấp
các thông tin dưới dạng bản đồ như thế nào. Trong giai đoạn này,
các nhà chuyên môn phải kết hợp chặt chẽ với các nhà kỹ thuật,
người hiểu rõ các phương pháp xử lý dữ liệu.
Đối với GIS, khả năng phân tích không gian - thời gian và mô hình
hoá phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ không gian - thời gian
của các yếu tố kinh tế - xã hội và các yếu tố tự nhiên cần thiết cho
quá trình ra quyêt định được các nhà chuyên môn xác định. Mối
quan hệ này được thể hiện thông qua công thức dưới đây:
Ý tưởng = f (yếu tố 1, yếu tố 2, yếu tố 3,…, yếu tố n)
Công thức này rất quan trọng đối với các ứng dụng trong lĩnh vực
môi trường vì đây là lĩnh vực có đặc tính đa dạng. Điều này giải
thích tại sao ở Việt Nam việc ứng dụng viễn thám và GIS chưa
phát triển đủ để đáp ứng các yêu cầu của các cơ quan chính phủ về
quản lý môi trường, đôi khi chỉ vì sự hiểu biết không đầy đủ về vai
trò chính của các nhà chuyên môn trong định nghĩa mô hình phân
tích dữ liệu. Chúng ta thường giao cho các nhà kỹ thuật những
công việc mang cả tính kỹ thuật và khoa học để họ thực hiện ngay
cả ở những lĩnh vực mà họ không phải là chuyên gia.
Chúng ta có thể đưa ra những ứng dụng đa tỷ lệ gì cho các cơ quan
môi trường trung ương và địa phương.
Như đã nói ở trên, trên thực tế quản lý môi trường và tài nguyên có
thể được tiếp cận ở những tỷ lệ khác nhau phụ thuộc vào khả năng
của bộ cảm. Chúng ta cũng biết rằng, các dữ liệu từ vệ tinh NOAA
AVHRR và MODIS có thể phù hợp đối với công tác quan trắc và
quản lý môi trưòng ở phạm vi quốc gia. Thực tế, ở Hà Nội có hai
đơn vị thu nhận các ảnh này là Trung tâm Viễn thám và Geomatics
VTGEO thu nhận ảnh NOAA AVHRR và Viện Vật lý thu nhận ảnh
MODIS. Với các dữ liệu thu được này, các chỉ số thực vật (NDVI),
nhiệt độ bề mặt đất (LST) và nhiệt độ bề mặt biển (SST) có thể
được tính toán cho toàn lãnh thổ Việt Nam. Để triết xuất các thông
tin thêm như các chỉ số về hạn hán, độ tăng trưởng của thực vật,…
cơ quan môi trường trung ương cần dữ liệu GIS ở phạm vi cả nước
ở tỷ lệ thích hợp (1:50.000 và/hoặc 1:1 000 000) cho báo cáo môi
trường hàng tháng, quý và/ hoặc hàng năm của họ.
Những thách thức trong việc áp dụng Viễn thám và GIS trong quản
lý môi trường và tài nguyên.
Nguồn nhân lực
Theo thống kê của Bộ KHCN&MT năm 2000, ở Việt Nam có hơn
250 chuyên gia về viễn thám và GIS làm việc chủ yếu ở các viện
nghiên cứu (Bộ KHCN&MT, 2002) và chỉ khoảng 20% các chuyên
gia làm việc tại các trường đại học và một số rất ít làm việc tại các
cơ quan Chính phủ mặc dù các cơ quan chính phủ ứng dụng viễn
thám và GIS rất nhiều trong quản lý môi trường và tài nguyên. Số
lượng các chuyên gia trong lĩnh vực này còn quá ít ỏi để đáp ứng
hết các nhu cầu về viễn thám và GIS. Một vài trường đại học ở
Việt Nam đã đưa viễn thám và GIS vào chương trình giảng dạy ở
bậc đại học (Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội, TPHCM, Đại học
Mỏ Địa chất Hà Nội, Đại học Bách Khoa TPHCM, Đại học
Huế…). Đối với các dự án quốc gia và quốc tế về quản lý môi
trường và tài nguyên, đào tạo về GIS là một trong những hợp phần
nâng cao năng lực quan trọng. Tuy nhiên hoạt động đào tạo này
không đạt được nhiều kết quả do những nguyên nhân chúng tôi đề
cập dưới đây.
Chuẩn dữ liệu
Hiện nay, Việt Nam chưa có quy định về chuẩn dữ liệu. Chỉ có
chuẩn dữ liệu GIS được thông qua là hệ toạ độ quốc gia có tên VN
2000. Bộ mã đối tượng, một yếu tố quan trọng của dữ liệu GIS,
vẫn chưa được thiết lập cho người sử dụng. Đây là một trở ngại lớn
cho việc ứng dụng nếu chúng ta muốn giới thiệu những công nghệ
có tính ứng dụng cao ở Việt Nam và đó sẽ là một sự lãng phí lớn
tiền của và công sức.
Chia sẻ dữ liệu
Hiện tại chúng ta đang phải đối mặt với những khó khăn do việc
chia sẻ các dữ liệu không tương thích gây ra. Khó khăn trong chia
sẻ dữ liệu không phải chỉ do sự độc quyền của một vài cơ quan nhà
nước mà còn bởi sự nhận thức không đầy đủ về các thông tin có
giá trị gia tăng được triết xuất từ dữ liệu viễn thám và GIS ở Việt
Nam. Trong hoàn cảnh như vậy, các quy định về chia sẻ dữ liệu ở
cấp độ quốc gia là rất cần thiết, tuy các quy định này vẫn chưa
được ban hành.

ung dụng của GIS trong các ngành

Vì GIS được thiết kế như một hệ thống chung để quản lý


dữ liệu không gian, nó có rất nhiều ứng dụng trong việc
phát triển đô thị và môi trường tự nhiên như là: quy
hoạch đô thị, quản lý nhân lực, nông nghiệp, điều hành
hệ thống công ích, lộ trình, nhân khẩu, bản đồ, giám sát
vùng biển, cứu hoả và bệnh tật. Trong phần lớn lĩnh vực
này, GIS đóng vai trò như là một công cụ hỗ trợ quyết
định cho việc lập kế hoạch hoạt động.
Môi trường

Theo những chuyên gia GIS kinh nghiệm nhất thì có rất
nhiều ứng dụng đã phát triển trong những tổ chức quan
tâm đến môi trường. Với mức đơn giản nhất thì người
dùng sử dụng GIS để đánh giá môi trường, ví dụ như vị
trí và thuộc tính của cây rừng. Ứng dụng GIS với mức
phức tạp hơn là dùng khả năng phân tích của GIS để mô
hình hóa các tiến trình xói mòn đất sư lan truyền ô nhiễm
trong môi trường khí hay nước, hoặc sự phản ứng của
một lưu vực sông dưới sự ảnh hưởng của một trận mưa
lớn. Nếu những dữ liệu thu thập gắn liền với đối tượng
vùng và ứng dụng sử dụng các chức năng phân tích phức
tạp thì mô hình dữ liệu dạng ảnh (raster) có khuynh
hướng chiếm ưu thế.

Khí tượng thuỷ văn

Trong lĩnh vực này GIS được dùng như là một hệ thống
đáp ứng nhanh, phục vụ chống thiên tai như lũ quét ở
vùng hạ lưu, xác định tâm bão, dự đoán các luồng chảy,
xác định mức độ ngập lụt, từ đó đưa ra các biện pháp
phòng chống kịp thời... vì những ứng dụng này mang tính
phân tích phức tạp nên mô hình dữ liệu không gian dạng
ảnh (raster) chiếm ưu thế.

Nông nghiệp

Những ứng dụng đặc trưng: Giám sát thu hoạch, quản lý
sử dụng đất, dự báo về hàng hoá, nghiên cứu về đất
trồng, kế hoạch tưới tiêu, kiểm tra nguồn nước.
Dịch vụ tài chính

GIS được sử dụng trong lĩnh vực dịch vụ tài chính tương
tự như là một ứng dụng đơn lẻ. Nó đã từng được áp dụng
cho việc xác định vị trí những chi nhánh mới của Ngân
hàng. Hiện nay việc sử dụng GIS đang tăng lên trong lĩnh
vực này, nó là một công cụ đánh giá rủi ro và mục đích
bảo hiểm, xác định với độ chính xác cao hơn những khu
vực có độ rủi ro lớn nhất hay thấp nhất. Lĩnh vực này đòi
hỏi những dữ liệu cơ sở khác nhau như là hình thức vi
phạm luật pháp, địa chất học, thời tiết và giá trị tài sản.

Y tế

Ngoại trừ những ứng dụng đánh gía, quản lý mà GIS hay
được dùng, GIS còn có thể áp dụng trong lĩnh vực y tế. Ví
dụ như, nó chỉ ra được lộ trình nhanh nhất giữa vị trí hiện
tại của xe cấp cứu và bệnh nhân cần cấp cứu, dựa trên cơ
sở dữ liệu giao thông. GIS cũng có thể được sử dụng như
là một công cụ nghiên cứu dịch bệnh để phân tích nguyên
nhân bộc phát và lây lan bệnh tật trong cộng đồng.

Chính quyền địa phương

Chính quyền địa phương là một trong những lĩnh vực ứng
dụng rộng lớn nhất của GIS, bởi vì đây là một tổ chức sử
dụng dữ liệu không gian nhiều nhất. Tất cả các cơ quan
của chính quyền địa phương có thể có lợi từ GIS. GIS có
thể được sử dụng trong việc tìm kiếm và quản lý thửa
đất, thay thế cho việc hồ sơ giấy tờ hiện hành. Nhà cầm
quyền địa phương cũng có thể sử dụng GIS trong việc
bảo dưỡng nhà cửa và đường giao thông. GIS còn được
sử dụng trong các trung tâm điều khiển và quản lý các
tình huống khẩn cấp.

Bán lẻ

Phần lớn siêu thị vùng ngoại ô được xác định vị trí với sự
trợ giúp của GIS. GIS thường lưu trữ những dữ liệu về
kinh tế-xã hội của khách hàng trong một vùng nào đó.
Một vùng thích hợp cho việc xây dựng môt siêu thị có thể
được tính toán bởi thời gian đi đến siêu thị, và mô hình
hoá ảnh hưởng của những siêu thị cạnh tranh. GIS cũng
được dùng cho việc quản lý tài sản và tìm đường phân
phối hàng ngắn nhất.

Giao thông

GIS có khả năng ứng dụng đáng kể trong lĩnh vực vận
tải. Việc lập kế hoạch và duy trì cở sở hạ tầng giao thông
rõ ràng là một ứng dụng thiết thực, nhưng giờ đây có sự
quan tâm đến một lĩnh vực mới là ứng dụng định vị trong
vận tải hàng hải, và hải đồ điện tử. Loại hình đặc trưng
này đòi hỏi sự hỗ trợ của GIS.

Các dịch vụ điện, nước, gas, điện thoại...

Những công ty trong lĩnh vực này là những người dùng


GIS linh hoạt nhất, GIS được dùng để xây dựng những cơ
sở dữ liệu là cái thường là nhân tố của chiến lược công
nghệ thông tin của các công ty trong lĩnh vự này. Dữ liệu
vecto thường được dùng trong các lĩnh vực này. những
ứng dụng lớn nhất trong lĩnh vực này là Automated
Mapping và Facility Management (AM-FM). AM-FM được
dùng để quản lý các đặc điểm và vị trí của các cáp,
valve... Những ứng dụng này đòi hỏi những bản đồ số với
độ chính xác cao.

Một tổ chức dù có nhiệm vụ là lập kế hoạch và bảo dưỡng


mạng lưới vận chuyền hay là cung cấp các dịch vụ về
nhân lực, hỗ trợ cho các chương trình an toàn công cộng
và hỗ trợ trong các trường hợp khẩn cấp, hoặc bảo vệ
môi trường, thì công nghệ GIS luôn đóng vai trò cốt yếu
bằng cách giúp cho việc quản lý và sử dụng thông tin địa
lý một cách hiệu quả nhằm đáp ứng các yêu cầu hoạt
động và mục đích chương trình của tổ chức đó.

Ứng dụng công nghệ viễn thám trong giám


sát tài nguyên thiên nhiên và môi trường Việt
Nam

Vệ tinh nhân tạo

Từ khi vệ tinh nhân tạo được phóng lên quỹ đạo lần đầu tiên vào
thập kỷ 50 của thế kỷ XX đến nay trong không gian đang tồn tại
hàng trăm vệ tinh khác nhau của các quốc gia. Khả năng khai
thác vệ tinh vô cùng lớn, từ mục đích quân sự đến viễn thông,
thương mại, phát triển kinh tế. Đặc biệt là những bức ảnh do vệ
tinh chụp giúp con người điều tra tài nguyên thiên nhiên, giám sát
được sự biến động của thời tiết, thiên nhiên, môi trường … trên
trái đất.
Việt Nam chúng ta, do chưa có điều kiện phóng vệ tinh nên đa số
những bức ảnh do vệ tinh chụp đều phải mua từ nước ngoài với
giá cao để phục vụ mục đích nghiên cứu và ứng dụng của từng
ngành cụ thể. Trong thời kỳ đất nước phát triển nhanh chóng,
việc giám sát biến động phức tạp về tài nguyên và môi trường
ngày càng cần có sự trợ giúp của những bức ảnh do vệ tinh cung
cấp. Qua đó, chúng ta sẽ theo dõi, giám sát chặt chẽ tình trạng
của môi trường như theo dõi nguy cơ cháy rừng, tìm kiếm cứu
nạn khẩn cấp, quan sát và hoạch định sử dụng đât cho các mục
đích khác nhau, giám sát các vùng biển và ven biển, nghiên cứu
bảo vệ tài nguyên nước và rừng, khảo sát địa chất phục vục tìm
kiếm và khai thác khoáng sản tài nguyên trong lòng đất … từ đó
có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Sự biến động khác thường của
tự nhiên trong những năm cuối cùng của thế kỷ XX đã thúc đẩy
mạnh sự phát triển và ứng dụng các công nghệ hiện đại trên thế
giới nhằm dự báo sớm nhất những thảm họa có thẻ xảy ra do sự
biến động tiêu cực của thiên nhiên. Trước nhu cầu cấp bách thực
tế của việc ứng dụng công nghệ viễn thám tại Việt Nam, Thủ
tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường (trước đây
là Tổng cục địa chính) chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên
quan thực hiện Nghiên cứu tiền khả thi và hoàn thiện Báo cáo
Nghiên cứu khả thi “Xây dựng Hệ thống giám sát tài nguyên và
môi trường tại Việt Nam”. Để thực hiện Dự án này, Nghị định thư
Tài chính giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ
Cộng hòa Pháp đã được ký kết từ tháng 11 năm 2003 và đến nay,
công tác chuẩn bị cho việc triển khai đã hoàn thiện.
Với mục tiêu xây dựng một Hệ thống công nghệ viễn thám – Hệ
thống thông tin địa lý đủ mức hiện đại, phù hợp với điều kiện Việt
Nam cho giai đoạn 10 năm trước mắt, có khả năng nâng cấp cho
giai đoạn sau, nhằm thu nhận các loại ảnh vệ tinh chủ yếu, xử lý
ảnh, thành lập Hệ thống thông tin, nâng cấp hệ thống viễn thám
ứng dụng cho các ngành ở Việt Nam phục vụ mục tiêu phát triển
bền vững kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường, dự án Hệ thống
giám sát tài nguyên và môi trường tại Việt Nam được xây dựng
với các phần chính gồm: Trạm thu ảnh vệ tinh (GRS); Trung tâm
dữ liệu xử lý ảnh viễn thám đa ngành (ERSDC) và 15 Trung tâm
ứng dụng viễn thám chuyên ngành tại các Bộ/ngành ở Trung
ương (DUS).
Kinh phí thực hiện Dự án là vốn ODA của Chính phủ Pháp dành
cho Việt Nam gần 20 triệu Euro và vốn đối ứng của Chính phủ
Việt Nam gần 40 tỉ đồng. Dự án sẽ được thực hiện trong thời gian
03 năm, do Bộ TNMT là cơ quan chủ quản; Trung tâm viễn thám
là chủ đầu tư, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan (Bộ
KH&CN, Viện KH&CN Việt Nam, Bộ NNPTNT, Bộ Thủy sản, Tổng
công ty dầu khí Việt Nam và ĐHQG Hà Nội) và Tập đoàn công
nghiệp Hàng không vũ trụ Châu Âu (EADs) sẽ là nhà cung cấp
thiết bị.
Hình ảnh từ các vệ tinh quan sát trái đất SPOT và ENVISAT của
EADS sẽ được thu thập tại Trạm thu, xử lý ngay tại Trung tâm xử
lý dữ liệu quốc gia và cung cấp cho 15 cơ quan ứng dụng theo các
mục tiêu chuyên ngành phục vụ cho phát triển kinh tế quốc dân,
như: Điều tra tài nguyên và môi trường (đất liên, biển, đảo …);
Khảo sát, đo đạc, lập bản đồ cơ bản và chuyên đề; Giám sát các
biến động trong khai thác tài nguyên và môi trường; Nghiên cứu
các hiện tượng tự nhiên, dự báo thiên tai và tình trạn suy biến
môi trường (lũ lụt, sa mạc hóa, phá rừng, cháy rừng, ô nhiễm môi
trường và nguồn nước, …); Phát triển ứng dụng ảnh vệ tinh và
GIS cho một số chuyên ngành với mục đích phục vụ quản lý lãnh
thổ, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, phổ cập thông tin; và
Trợ giúp thông tin kịp thời cho công tác cứu nạn, cứu hộ trong các
trường hợp khẩn cấp, xảy ra thảm hoạ, thiên tai.
Hệ thống được xây dựng đảm bảo phục vụ được lâu dài khoảng
20 năm với việc nâng cấp định kỳ, các sensor được lựa chọn có
tuổi thọ phục vụ lâu dài và tốt nhất, nên thiết kế thu các loại ảnh
được thực hiện trong khuôn khổ các chương trình quốc gia lâu
dài. Cụ thể là hệ thống SPOT của Pháp (trên 17 năm), ENVISAT
(trên 12 năm), RADARSAT (trên 9 năm) … Tính bền vững của Hệ
thống còn thể hiện ở tính mở của hệ thống để nâng cấp ở mức chi
phí thấp, có khả năng cập nhật để thu các loại ảnh vệ tinh mới
bằng việc cập nhật, nâng cấp phầm mềm mà không cần đầu tư
lại phần cứng. Hệ thống mở sẽ cho phép đón đầu sự phát triển
của kỹ thuật viễn thám mới trong những năm tới.
Trong khu bực Đông Nam á, Việt Nam xây dựng trạm thu ảnh vệ
tinh và trung tâm xử lý dữ liệu sau Thái Lan, Singapo, Indonesia
và Malaysia, do vậy có lợi thế sẽ rút được kinh nghiệm của các
nước đi trước và có cơ hội đầu tư thiết bị mới, công nghệ mới,
năng suất lớn hơn. Đây là cơ hội để rút ngắn khoảng cách phát
triển với các nước trong khu vực. Để đảm bảo đưa Hệ thống vào
vận hành ngay sau khi lắp đặt, Hệ thống được thiết kế rút ngắn
được thời gian thử, kiểm nghiệm bằng cách mua các công nghệ
hiện hành đã được thực tế kiểm nghiệm, đồng thời có chương
trình đào tạo chuyển giao công nghệ hợp lý.
SPOT là hệ thống vệ tinh thương mại của Pháp được phóng lên
quỹ đạo từ 1986 tới nay đã có các vệ tinh SPOT 1,2,3,4 và vệ tinh
cuối cùng của hệ thống là vệ tinh SPOT 5 với các tính năng ưu
việt nhất trong họ SPOT. Hầu hết các trạm thu trong khu vực và
trên thế giới đều thu SPOT. ảnh SPOT có nhiều ứng dụng trong
hiện chỉnh bản đồ địa hình tỷ lệ 1:50.000, 1:25.000 và nhiều ứng
dụng về điều tra tài nguyên và môi trường. Nhất là ảnh SPOT 5 có
lực phân giải tới 2,5m có rất nhiều ứng dụng mới và đã được sử
dụng cho công tác Tổng kiểm kê đất năm 2005 ở Việt Nam đem
lại kết quả tốt.
Được phóng lên quỹ đạo ngày 28/2/2002, ENVISAT là vệ tinh
quan sát trái đất lớn nhất mà con người chế tạo. Nó mang theo
46 thiết bị chụp ảnh và thăm dò từ vũ trụ, trong đó có 10 dụng
cụ rada và quang học phức tạp để có thể liên tục giám sát và
quan sát Trái đất, khí quyển, đại dương và các mũ băng của trái
đất. Mỗi ngày ENVISAT tạo ra 240 gygabite dữ liệu. Có khoảng
750 dự án khoa học thuộc mọi lĩnh vực đang sử dụng dữ liệu này
cùng với những người sử dụng thương mại. Từ độ cao 800km,
ENVISAT cung cấp thông tin về tình hình sử dụng đất, các cánh
rừng và sa mạc hóa. Thậm chí nó còn cung cấp dữ liệu về loại cây
trồng đang được canh tác, tình trạng phát triển cũng như thăm dò
hiện tượng lún đất trong các thành phố ở mức 1 mm/năm. Ngoài
ra nó còn giám sát được mực nước biển, nhiệt độ mặt biển, sự
phân bố các sinh vật phù du, chất ô nhiễm bên trên các thành
phố.
Dự án xây dựng hệ thống giám sát tài nguyên và môi trường Việt
Nam khi hoàn thành sẽ góp phần đáng kể trong việc giám sát,
bảo vệ môi trường, đồng thời cung cấp dữ liệu khoa học quan
trọng cho các ngành kinh tế – xã hội trong giai đoạn trước mắt
cũng như lâu dài.

Phạm vi ứng dụng của ảnh viễn thám

Khí tượng: dùng để dự báo thời tiết, dự báo thiên tai liên quan đến biến đổi nhiệt độ bề mặt đất,
mây...

Bản đồ: là công cụ đắc lực phục vụ cho ngành bản đồ, thành lập các loại bản đồ địa hình và bản
đồ chuyên đề ở nhiều tỉ lệ khác nhau.

Nông-Lâm nghiệp: theo dõi mức độ biến đổi thảm phủ thực vật, độ che phủ rừng...

Địa chất: Theo dõi tốc độ sa mạc hoá, tốc độ xâm thực bờ biển, phân tích những cấu trúc địa
chất trên mặt cũng như bên trong lòng đất (vỏ trái đất)...

Ảnh chụp toàn cảnh Hà Nội bằng vệ tinh.

You might also like